Biên giới Việt Nam- Campuchia

Dây là biên giới Việt Nam-Campuchia ở Đồng Tháp

Nguyễn văn Tiến

Đại học Luật Tp.HCM

Hình đi hội thảo ở Nha trang

Tôi đang ngồi giữa một bên là một bên là biển và một bên là trường đại học Nha trang

đồng tháp quê hương miền Tây

mời bạn cùng uống cà phê với chúng tôi

Hình kỷ niệm 15 năm thành lập ĐH Luật TPHCM

Mời bạn tham khảo một thoáng về gian hàng trưng bày của khoa Luật Dân sự

Thứ Tư, 24 tháng 8, 2011

HÌNH ĐI ĐAN MẠCH




























Chủ Nhật, 14 tháng 8, 2011

BỘ DÂN LUẬT 1972-Q5

QUYỂN V
Nói về thời hiệu

CHƯƠNG THỨ NHẤT
Tổng tắc
Điều thứ 1434 – Thời hiệu là một phương tiện để thủ đắc một quyền lợi hay để giải nợ sau một thời gian và với những điều luật định. Trường hợp trên là thủ đắc thời hiệu; trường hợp dưới là sự tiên diệt thời hiệu hay thời tiêu
Điều thứ 1435 – Không được khước từ thời hiệu trước khi đủ thời gian luật định, nhưng có thể khước từ sau khi đã đủ thời gian ấy.
Điều thứ 1436 – Người không có năng cách sử dụng không được khước từ thời hiệu.
Điều thứ 1437 – Sự khước từ có thể minh thị hay mặc nhiên.
Điều thứ 1438 – Tòa án không được tự ý nêu lên khước biện thời hiệu, nhưng có thể giải thích những lời khai nại của đương sự coi như là có ý muốn viện dẫn thời hiệu.
Điều thứ 1439 – Trừ phi đã khước từ, đương sự có thể viện dẫn khước biện thời hiệu bất cứ trong thời kỳ nào của thủ tục ngay trước tòa phúc thẩm.
Điều thứ 1440 – Chủ nợ hay bất cứ người nào có lợi đều có quyền viện dẫn thời hiệu, mặc dầu người thiếu nợ hay sở hữu chủ đã thủ đắc thời hiệu từ khước.
Điều thứ 1441 – Thời hiệu không áp dụng cho những vật cấm mãi thương.
Điều thứ 1442 – Luật pháp về thời hiệu áp dụng cho tư nhân cũng như cho quốc gia và các pháp nhân công pháp khác.


CHƯƠNG THỨ II
Nói về sự chấp hữu

T I Ế T I
Đặc tính của sự chấp hữu
Điều thứ 1443 – Chấp hữu là tri thủ và hửơng dụng một vật hay một quyền lợi gì cho chính mình, hay do một người đệ tam do mình ủy thác.
Điều thứ 1444 – Muốn được thủ đắc thời hiệu cần phải chấp hữu liên tiếp yên ổn, công khai và minh bạch, với tư cách là sở hữu chủ.
Điều thứ 1445 – Người chấp hữu được ức đóan là chấp hữu với tư cách sở hữu chủ cho chính mình, trừ phi có chứng cớ là, khởi thủy, người ấy đã chấp hữu cho người khác.
Điều thứ 1446 – Người nào, khởi thủy, đã chấp hữu cho người khác thì cứ coi là chấp hữu với danh nghĩa ấy mãi, trừ phi có chứng cứ trái lại.
Điều thứ 1447 – Những hành vi hoàn toàn nhiệm ý hoặc được làm do sự nhân nhượng của người khác không thể làm căn cứ cho sự chấp hữu hay cho thời hiệu.
Điều thứ 1448 – Sự bạo hành không thể làm căn bản cho sự chấp hữu để hưởng thời hiệu.
Chỉ khi nào sự bạo hành chấp dứt, sự chấp hữu hữu ích mới được khởi đầu.
Điều thứ 1449 – Để có đủ thời gian được hưởng thời hiệu, ngừơi chấp hữu hiện thời có thể nối tiếp thời gian chấp hữu của mình với thời gian chấp hữu của người mà mình thụ quyền dù đã thụ quyền tòan sản hay biệt định, vọ thường hay hữu thường.
Điều thứ 1450 – Người chấp hữu được dự đoán là chấp hữu ngay tình. Với tư cách chấp hữu, người ấy có quyền phản kháng mọi sự xâm chiếm và quấy rối do người đệ tam.
Tuy nhiên, nếu kẻ xâm chiếm, quấy rối, có tư cách là sở hữu chủ theo sổ sách điền địc thì chính người chấp hữu phải chứng tỏ sự ngay tình của mình.
Điều thứ 1451 – Người chấp hữu ngay tình không phải bồi thường nếu bị buộc phải trả lại đồ vật cho sở hữu chủ.
Người ấy không phải chịu trách nhiệm về những tiêu thất, hư hại xẩy ra trong thời gian chấp hữu và cũng không phải hòan lại hoa lợi đã thu hoạch.
Điều thứ 1452 – Người chấp hữu ngay tình được bồi hoàn những chi tiêu cần thiết hay hữu ích cho đồ vật và có quyền lưu trí đồ vất cho đến được hoàn lại đầy đủ.
Điều thứ 1453 – Người chấp hữu gian tình chỉ được bồi hoán những chi tiêu cần thiết mà sở hữu chủ cũng bó buộc phải làm. Người ấy phải trả lại đồ vật chấp hữu và phải bồi thường cho người hữu quyền, hoa lợi đã thu hoạch và những thiệt hại gây ra trong khi lạm chiếm.


T I Ế T II
Phân biệt chấp hữu với chấp thủ
Điều thứ 1454 – Chấp thủ là tạm chiếm một đồ vật. mà biết rằng mình không phải là chủ và sẽ phải hoàn lại cho sở hữu chủ chính thức, như trường hợp người thuê muớn, ngừơi thụ ký, người hưởng hoa lợi và mọi ngừơi tri thủ bất ổn cổ.
Điều thứ 1455 – Những ngừơi chấp thủ không được hưởng thời hiệu và thừa kế của họ cũng vậy.
Điều thứ 1456 – Tuy nhiên, những ngừoi chấp hữu có thể được hưởng thời hiệu, nếu đã có sự biến cải danh nghĩa: chấp thủ trở thành chấp hữu.
Điều thứ 1457 – Sự bến cải danh nghĩa có thể thực hiện khi người chấp thủ, tạo mãi vật chấp thủ, đã lập ước với người đệ tam được tưởng lầm là chân chính sở hữu chủ, hay khi ngừơi chấp thủ đã có những hành vi rõ rệt chống lại sở hữu chủ, phủ nhận quyền sở hữu của người này.


CHƯƠNG THỨ III
Nói về sự gián đoạn và đình chỉ thời hiệu

T I Ế T I
Sự gián đoạn thời hiệu
Điều thứ 1458 – Sự gián đoạn thời hiệu làm cho thời gian chấp hữu đã qua rồi phải kể như không có: thời hiệu phải bắt đầu kể từ ngày chấm dứt nguyên nhân gián đoạn.
Điều thứ 1459 – Thời hiệu bị gián đoạn khi người chấp hữu bị mất sự hưởng dụng đồ vật trong hơn một năm vì sự cản trở của sở hữu chủ chính thức hay của ngừơi đệ tam.
Điều thứ 1460 – Thời hiệu bị gian đoạn vì nó:
1) Trát đòi người chấp hữu ra tòa về sự chấp hữu ấy;
2) Sự sai áp đồ vật chấp hữu;
3) Sự đốc thúc ngừơi chấp hữu trả lại đồ vật bằng một văn thư do một công lại hữu quyền tống đạt.
Điều thứ 1461 – Nếu ngừơi tự nhận là sở hữu chủ chỉ thôi xuất người chấp hữu ra trước thẩm phán hòa giải hay trước chức dịch làng xã để thử hòa giải mà tiếp sau đó không khởi kiện ngừơi chấp hữu, thì sự trạng ấy không làm cho thời hiệu bị gián đoạn. Nếu có sự khởi kiện, sự gián đoạn thời hiệu được kề từ ngày thôi xuất để hòa giải.
Điều thứ 1462 – Sự khởi kiện, dẫu trước một tòa án sơ thẩm quyền, cũng làm gián đoạn thời hiệu.
Điều thứ 1463 – Thời hiệu không bị gián đoạn:
1) Nếu nguyên đơn xin bãi nại;
2) Nếu nguyên đơn để cho thủ tục bị thất hiệu;
3) Hay nếu đơn kiện bị bác về nội dung.
Điều thứ 1464 – Thời hiệu sẽ bị gián đoạn nếu người mắc nợ thừa nhận quyền lợi của chủ nợ hay nếu ngừơi chấp hữu thừa nhận quyền lợi của sở hữu chủ
Điều thứ 1465 – Thời hiệu đã gián đoạn đối với một trái hộ liên đới, thì gián đoạn luôn cả đồi với các trái hộ liên đới khác và thừa kế của họ.
Điều thứ 1466 – Thời hiệu đã gián đoạn với trái hộ chính, thì gián đoạn luôn cả với người bảo lãnh.

T I Ế T II
Sự đình chỉ thời hiệu
Điều thứ 1467 – Thời hiệu lưu thông đối vói tất cả mọi người, trừ những người được luật pháp đặt vào một ngoại lệ.
Điều thứ 1468 – Thời hiệu không lưu thông đối nghịch với vị thành niên và những ngừơi bị cấm quyền, trừ những gì luật định khác.
Điều thứ 1469 – Thời hiệu không lưu thông giữa vợ chồng.
Điều thứ 1470 – Thời hiệu không lưu thông:
1) Nếu trái quyền tùy thuộc vào một điều kiện chưa thực hiện;
2) Nếu trái quyền có hạn kỳ mà kỳ hạn chưa đến;
3) Về tố quyền bảo đảm, nếu sự truất đoạt chưa xẩy ra.
Điều thứ 1471 – Thời hiệu cũng không lưu thông đối nghịch với người không thể bảo vệ được quyền lợi vì ở trong trừơng hợp bất khả kháng.
Điều thứ 1472 – Thời hiệu được lưu thông đối nghịch với một di sản vô thừa nhận, dẫu rằng chưa có người nào được chỉ định để quản trị di sản ấy.


CHƯƠNG THỨ IV
Nói về thời gian để được hưởng thời hiệu
Điều thứ 1473 – Thời gian để được hưởng sự thủ đắc thời hiệu hay sự tiêu diệt thời hiệu theo điều 1434 không tính từng giờ mà tính từng ngày; khởi đầu ngày nào sẽ tính ngay từ ngày ấy, và sẽ mãn hạn khi tận cùng ngày cuối của thời hạn.

T I Ế T I
Nói về sự tiêu diệt thời hiệu
Điều thứ 1474 – Hết thảy mọi tố quyền, dầu là tố quyền đối nhân hay đối vật đều bị thời tiêu sau ba mươi năm, không cứ là người viện dẫn thời hiệu ấy ngay tình hay gian tình và cũng không cần người ấy phải xuất trình bằng chứng gì khác, ngoài những trường hợp đã được luật pháp ấn định một thời hạn ngắn hơn và những trường hợp dưới đây.
Địều thứ 1475 – Các kiến trúc sư và thầu khoán, được giải trừ hết trách nhiệm về những kiến trúc xây rất quan trọng mười năm sau khi các kiến trúc ấy đã hòan thành.
Điều thứ 1476 – Sẽ bị thời tiêu sau năm (5) năm, tố quyền đòi:
1) Tiền cấp dưỡng;
2) Tiền thuê nhà, thuê đất ruộng;
3) Tiền lời các món nợ và tất cả những số tiền phải trả hàng năm, hay từng hạn ngắn hơn;
Trong trường hợp món nợ được trả từng năm, từng tháng, mỗi niêm liễm, mỗi nguyệt liễm sẽ coi là món nợ riêng để áp dụng thời hiệu, kể từ ngày đáo hạn.
Điều thứ 1477 – Sẽ bị thời tiêu sau hai năm, tố quyền:
1) của y sỹ, dược sỹ, nha sỹ, của tất cả những người làm chữa bệnh, giải phẫu, hộ sinh, về tiền thù lao, tiền thuốc cung cấp cho bệnh nhân;
2) của thừa phát lại, về tiền công tống đạt giấy tờ, tiền công thi hành những dịch vụ được ủy thác;
3) của thương gia về hàng hóa bán cho những người không phải là thương gia;
4) của thầy học, về tiền công dậy học hay dậy nghề, về tiền cơm trọ của học trò.
Điều thứ 1478 – Sẽ bị thời tiêu sau sáu tháng, tố quyền:
1) của chủ trọ, chủ khách sạn, về tiền trọ, tiền cơm, tiền công dịch vụ cung cấp cho khách hàng;
2) của thợ thuyền, công nhân, gia nhân, về tiền công và dịch vụ cung cấp cho chủ.
Điều thứ 1479 – Thời tiêu ngắn hạn trong những điều 1477, 1478 trên đây không bị cản trở mặc dầu có sự tiếp tục cung cấp dịch vụ hay vật liệu. Thời tiêu chỉ ngưng lưu thông khí có bản kết toán, giấy nhận nợ hay có trát đòi ra tòa còn hiệu lực.
Điều thứ 1480 – Thời tiêu ngắn hạn trong những điều 1477, 1478 được lưu thông đói cả với vị thành niên và các người bị cấm quyền, ngoại trừ quyền khiếu tố của họ đối với giám hộ.
Điều thứ 1481 – Nợ bị thời tiêu, nếu đã trả, không được đòi lại.


T I Ế T II
Nói về sự thủ đắc thời hiệu
Điều thứ 1482 – Sự chấp hữu một bất động sản trong hai mươi năm, nếu đủ điều kiện đã định ở điều 1444, sẽ làm cho người chấp hữu thủ đắc quyền tư hữu về bất động sản ấy.
Điều thứ 1483 – Người nào đã ngay tình và bằng vào một hành vi chuyển hữu hợp thức thủ đắc một bất động sản, sẽ được quyền sở hữu về bất động sản ấy sau mười lăm (15) năm.
Điều thứ 1484 – Một hành vi chuyển hữu vô hiệu về hình thức, không thể làm căn cứ được cho sự đắc hiệu mười năm (15) năm trên đây.
Điều thứ 1485 – Sự ngay tình được ức đóan, ai muốn phủ nhận phải đem lại bằng chứng sư gian tình.
Điều thứ 1486 – Người chấp hữu chỉ cần ngay tình khi thủ đắc, nếu sau này mới biết rằng đã thủ đắc của một người không phải là sở hữu chủ, sự trạng ấy không cản trợ sự đắc hiệu mười lăm (15) năm.
Điều thứ 1487 – Những điều luật ghi trong tiết này không áp dụng cho những bất động sản đã hoặc sẽ thuộc quy chế điền thổ của sắc lệnh ngày 26-7-1925.
Điều thứ 1488 – Về động sản, ngừời chấp hữu đựoc coi là sở hữu chủ.
Tuy nhiên, người nào để thất lạc hay bị mất trộm một đồ vật thực thể, hữu hình, có thể truy sách đồ vật ấy trong tay người chấp hữu, trong hạn ba năm kể từ ngày đồ vật bị thất lạc hay bị lấy trộm, trong trừơng hợp này ngừơi chấp hữu có quyền khởi tố người đã di chuyển đồ vật cho mình.
Điều thứ 1489 – Nếu người chấp hữu đã mua đồ vật ấy ở chợ, hay trong một cuộc phát mại công cộng, hay ở một tiệm có bán những đồ vật tương tự, người chủ, muốn lấy lại đồ vật, phải hòan lại giá mua cho người chấp hữu.
Điều thứ 1490 – Những điều khoản về thời hiệu trong bộ luật này sẽ áp dụng cho ngay cả những thời hiệu đã khởi đầu mà chưa kết liễu.


TIẾT CUỐI CÙNG
Điều khoản tổng quát
Điều thứ 1491 – Hiệu lực pháp lý của chứng thư lập ra trước khi ban hành bộ luật này, vẫn phải bị chi phối bởi luật đang thi hành ngày thành lập chứng thư.
Điều thứ 1492 – Những chứng thư mà hậu quả do luật quy định bất kể ý muốn của đương sự sẽ bị luật mới chi phối, sau khi bộ luật này được ban hành, dầu đã được làm từ trước.
Điều thứ 1493 – Đối với những hôn thú đã thành lập từ trước, hậu quả của hôn thú cũng như sự tiêu hôn và ly hôn đều do luật mới chi phối kể từ ngày bộ luật này ban hành.
Điều thứ 1494 – Các điều khoản liên hệ đến sự thành niên, đến tử hệ và đến việc giám hộ do luật mới chi phối, kể từ ngày bộ luật này ban hành.
Điều thứ 1495 – Việc thừa kế một người mệnh một trước khi bộ luật này ban hành, dẫu rằng di sản chưa chia, vẫn do luật cũ chi phối.
Đối với tự sản luật mới sẽ áp dụng ngay.
Điều thứ 1496 – Quyền sở hữu cùng các vật quyền khác sẽ do luật mới chi phối kể từ ngày ban hành.
Điều thứ 1497 – Những khế ước ký kết trước khi ban hành bộ luật này, vẫn có giá trị, mặc dầu hình thức không đúng như luật mới quy định.
Điều thứ 1498 – Nay bãi bỏ tất cả các bộ luật Gia Long, luật Giản Yếu ngày 3-10-1883, sắc luật số 15/64 ngày 23-7-1964, bộ Hoàng Việt Trung Kỳ bộ luật cùng bộ dân luật Bắc Kỳ và tất cả các bản văn sửa đổi hay bổ túc.
Điều thứ 1499 – Riêng về sắc lệnh điền thổ ngảy 21-7-1925, nay hủy bỏ điều 1 đoạn 1 và 2 và những điều khoản từ 2 đến 186.
Điều thứ 1500 – Ngoài ra, những điều khỏan và bản văn trước trái với bộ luật này đều bị bãi bỏ.
Đối với những trường hợp không dự liệu trong bộ luật này và đựơc luật lệ riêng quy định, tòa án sẽ tiếp tục áp dụng các luật lệ ấy.

BỘ DÂN LUẬT 1972-Q4

QUYỂN IV
Nói về nghĩa vụ và khế ước

Điều thứ 650 – Nghĩa vụ là sự liên lạc thuộc về luật thực tại buộc một ngừơi hay nhiều người phải làm một việc gì hay không được làm một việc gì đó để làm lợi cho một người hay nhiều người khác.
Người bị bó buộc là người mắc nợ hay trái hộ; người được hưởng là chủ nợ hay trái chủ.
Điều thứ 651 – Nghĩa vụ thuộc luật thực tại có thể bị cưỡng bách thi hành bằng một tố quyền; nghĩa vụ thuộc luật tự nhiên là nghĩa vụ không thể được cưỡng bách thi hành.
Điều thứ 652 – Nghĩa vụ xuất sinh:
1) Ở khế ước;
2) Ở sự đắc lợi vô căn;
3) Ở sự thiệt hại bất công do sự vô tình hay cố ý gây ra;
4) Ở luật pháp.
THIÊN THỨ NHẤT
Nói về khế ước
Điều thứ 653 – Khế ước hay hiệp ước là một hành vi phap lý do sự thỏa thuận giữa hai người hay nhiều người để tạo lập, di chuyển, biến cải hay tiêu trừ một quyền lợi, đối nhân hay đối vật.
Điều thứ 654 – Các đương sự có quyền tự do kết ước bất cứ về một việc gì, duy chỉ không được cam kết điều gì trái với luật cấm, trật tự công cộng hoặc thuần phong mỹ tục.

CHƯƠNG THỨ NHẤT
Phân loại các khế ước
Điều thứ 655 – Khế ước có thể chia ra khế ước song vụ, và khế ước độc vụ.
Khế ước có tính cách song vụ khi nào mỗi bên kết ước đều có một nghĩa vụ phải thi hành.
Khế ước có tính cách độc vụ khi nào chỉ có một bên có nghĩa vụ phải thi hành đối với bên kia.
Điều thứ 656 – Khế ước có thể chia ra khế ước hữu thường và khế ước vô thừơng.
Khế ước có tính cách hữu thường khi nào mỗi bên cùng phải mất một quyền lợi gì cho bên kia, hay cho một người đệ tam hưởng.
Khế ước có tính cách vô thừơng khi nào chỉ làm lợi cho một bên trong hai ngừơi kết ước.
Điều thứ 657 – Khế ước có thể chia ra khế ước hiệp ý và khế ước giao nạp.
Khế ước hiệp ý là khế ước chỉ cần hai bên thỏa thuận là được thành lập.
Khế ước giao nạp là khế ứơc chỉ được thành lập khi nào, sau khi thỏa thuận, bên này giao cho bên kia đồ vật của sự giao ước.
Điều thứ 658 – Khế ước có thể chia ra khế ước chắc chắn và khế ước may rủi.
Khế ước chắc chắn là khế ước mà sự thực hiện và hậu quả, nhất định, thế nào cũng có, một khi hai bên đã thỏa thuận.
Khế ước may rủi là khế ước mà sự thực hiện và hậu quả tùy thuộc vào một sự việc không chắc có xẩy đến hay không.
Điều thứ 659 – Khế ước có thể chia ra khế ước chính yếu và khế ước phụ thuộc.
Khế ước có tính cách chính yếu khi nào sự hiện hữu không lệ thuộc vào sự hiện hữu của một khế ước khác.
Khế ước phụ thuộc trái lại có hay không phải tùy theo một khế ứơc khác, có hay không có.
Sự vô hiệu của khế ước chính làm cho khế ước phụ cũng vô hiệu, trừ phi, theo sự thỏa thuận của hai bên, khế ước sau có mục đích thay thế khế ươc trước.
Sự vô hiệu của khế ươc phụ không làm cho khế ước chính vô hiệu, trừ phi, theo ý định của hai bên, hai khế ước hợp thành một khối duy nhất, cái nọ không tách ra khỏi cái kia.


CHƯƠNG THỨ II
Điều kiện cho sự hiện hữu của khế ước
Điều thứ 660 – Cần phải bốn điều kiện cho sự hiện hữu của khế ước:
1) Sự ưng thuận của sự cam kết;
2) Năng cách của ngừơi cam kết;
3) Một đối tượng xác thực cho sự cam kết;
4) Một căn nguyên hợp pháp.

T I Ế T I
Sự ưng thuận
Điều thứ 661 – Sự ưng thuận không có giá trị nếu chỉ vì lầm lẫn hay vì bị bạo hành hay bị lừa lọc mà thôi.
Điều thứ 662 – Sự lầm lẫn chỉ là một nguyên nhân làm cho khế ước vô hiệu, nếu là lầm lẫn về thực chất của sở vật hay về một đặc tính cốt yếu của sự cam kết.
Sự lầm lẫn về cá nhân ngừơi cộng ứơc không làm cho khế ước vô hiệu, trừ phi cá nhân của ngừơi ấy là yếu tó chính cho sự cam kết.
Điều thứ 663 – Sự cam kết cũng vô hiệu, nếu ngừơi cam kết bị bạo hành dẫu rằng sự bạo hành do một người do một người đệ tam chủ động.
Sự bạo hành là hành động khiến cho một ngừơi có trí xét đóan thông thường phải kính sợ một tai họa lớn lao diện tiến hay trong tương lai xẩy đến cho bản thân, tài sản của ngừơi ấy hoặc người khác.
Điều thứ 664 – Sự bạo hành sẽ xét theo niên tuế, địa vị của ngừơi bị bạo hành.
Điều thứ 665 – Sự bạo hành đối với người phối ngẫu của ngừoi cam kết hay tôn thuộc, ty thuộc trực hệ của người ấy sẽ coi như bạo hành đối với chính người cam kết.
Còn sự bạo hành đối với ngừơi khác sẽ tùy tòa án thẩm lượng.
Điều thứ 666 – Sự kính sợ cha mẹ hay tôn thuộc, nếu không có bạo hành thực sự, không là một nguyên nhân làm cho sự cam kết vô hiệu.
Điều thứ 667 – Nếu sau khi sự bạo hành chấm dứt, khế ước đã được chấp thuận một cách minh thị hay mặc thị, thì sự bạo hành không còn được viện dẫn để xin tiêu hủy khế ước.
Điều thứ 668 – Sự gian trá chỉ là một nguyên nhân cho khế ước vô hiệu nếu những mưu gian, chước dối của một bên là nguyên nhân chính đã thúc đẩy bên kia kết ước.
Điều thứ 669 – Sự lầm lẫn, bạo hành và gian trá không đương nhiên làm cho khế ước vô hiệu, chỉ làm cho khế ước có thể bị tiêu hủy như sẽ giải thích ở chương 7 thiên III.
Điều thứ 670 – Về nguyên tắc, ngừơi nào cam kết chỉ có thể cam kết nhân danh mình và cam kết cho chính mình.
Điều thứ 671 – Tuy nhiên, có thể bảo đoan một sự cam kết của ngừơi đệ tam bằng cách hứa rằng ngừơi này sẽ cam kết; nhưng ngừơi bảo đoan sẽ phải bồi thừơng nếu ngừơi đệ tam không chịu cam kết.
Điều thứ 672 – Cũng có thể kết ước lợi tha (lợi cho một ngừơi đệ tam):
1) Nếu sự lợi tha là điều kiện cho một sự kết ước lợi kỷ (lợi cho chính ngừơi kết ước): thí dụ như khế ước bảo hiểm nhân thọ;
2) hay nếu sự lợi tha là điều kiện cho một sự tặng dữ cho ngừơi đệ tam. Sự kết ước này sẽ không thể bãi bỏ được khi ngừơi đệ tam thụ hưởng đã tỏ ý chấp nhận.
Điều thứ 673 – Sự kết ước không những chỉ lợi cho ngừơi đã kết ước, còn lợi cho những thụ quyền, thừa kế của ngừơi ấy, trừ phi khế ước có tính cách riêng tư vì cá nhân của ngừơi kết ước, hay có sụ giao ứơc trái lại.


T I Ế T II
Năng cách của ngừơi kết ước
Điều thứ 674 – Người nào cũng có quyền kết ước chỉ trừ những ngừơi bị luật pháp coi là vô năng cách.
Điều thứ 675 – Bị coi là vô năng cách: những vị thành niên, những người bị cấm quyền và những ngừơi mà luật cấm kết ước trong một vài trường hợp.
Điều thứ 676 – Vị thành niên và những ngừơi bị cấm quyền chỉ có thể xin tiêu hủy những khế ước đã ký kết trong những trừơng hợp luật định.
Những ngừơi đủ năng cách cộng ước với các ngừoi trên không được viện sự vô năng cách của những ngừơi ấy để xin tiêu hủy khế ước.

T I Ế T III
Đối tượng của nghĩa vụ trong khế ước
Điều thứ 677 – Đối tượng của nghĩa vụ là tài vật mà một bên đương sự đã cam kết sẽ giao hay là sự việc đã cam kết sẽ phải làm, hay không được làm.
Điều thứ 678 – Sự hành dung hay sự chiếm hữu một đồ vật cũng có thể là đối tượng cho nghĩa vụ như chính đồ vật.
Điều thứ 679 – Chỉ có những đồ vật nào đem giao dịch được mới có thể làm đối tược cho nghĩa vụ.
Điều thứ 680 – Đối tượng của nghĩa vụ được chỉ định một cách đích xác.
Điều thứ 681 – Đối tượng của nghĩa vụ có thể là một vật hiện thời chưa có; trong trừơng hợp này, ngừơi cam kết giao vật ấy không được làm gì cản trở sự thực hiện lời cam kết của mình, cũng không được sao lãng những việc gì mình có bổn phận phải làm để cho sự cam kết ấy có thể được thực hiện.
Điều thứ 682 – Không ai được khước từ một di sản chưa khai phát, cũng không được cam kết điều gì về di sản ấy dẫu là với sự ưng thuận của người sẽ để lại di sản.
T I Ế T IV
Nguyên nhân của nghĩa vụ
Điều thứ 683 – Nghĩa vụ vô nguyên nhân hay có một nguyên nhân giả tạo, hoặc bất hợp pháp sẽ không có hiệu lực gì.
Điều thứ 684 – Tuy nhiên, mặc dần nguyên nhân được viện dẫn trong khế ước là nguyên nhân giả tạo, khế ước vẫn hữu hiệu nếu nguyên nhân thật sự của khế ước xét ra hợp pháp.
Điều thứ 685 – Ngoài ra, khế ước cũng không vô hiệu mặc dầu nguyên nhân không được nói rõ.
Điều thứ 686 – Nguyên nhân bị coi là bất hợp pháp nếu bị luật ngăn cấm hay là trái với trật tự công cộng và thuần phong mỹ tục.


CHƯƠNG THỨ III
Hiệu lực của khế ước
Điều thứ 687 – Khế ước thành lập hợp pháp có hiệu lực như luật pháp cho hai bên cộng ứơc.
Khế ước chỉ có thể hủy bãi do sự thỏa thuận của hai bên hay vì những nguyên nhân luật định.
Khế ước phải được thi hành ngay thẳng.
Điều thứ 688 – Khế ước không những chỉ bó buộc về những điều được minh thị giao ước, còn bó buộc cả về những sự việc hệ thuộc vào nghĩa vụ đã cam kết, chiếu theo luật pháp, thông lệ, hay lẽ công bằng.
Điều thứ 689 – Nếu luật pháp không cấm đóan minh thị có thể kết ước khác với sự quy định của luật pháp, miễn là không phạm đến trật tự công cộng, và thuần phong mỹ tục.

T I Ế T I
Nói về nghĩa vụ chuyển hữu
Điều thứ 690 – Nghĩa vụ chuyển hữu gồm cả nghĩa vụ chuyển giao tài vật và nghĩa vụ gìn giữ tài vật ấy cho đến khi chuyển giao, nếu không sẽ phải bồi thường cho ngừơi trái chủ.
Điều thứ 691 – Trong khi chờ đợi chuyển giao, phải giữ gìn tài vật một cách cẩn trọng, nếu hành động sơ suất sẽ phải bồi thường.
Điều thứ 692 – Nghĩa vụ chuyển hữu hoàn tất ngay khi hai bên thỏa thuận.
Kể từ lúc thỏa thuận, tài vật thuộc quyền sở hữu người trái chủ, và lúc tài vật phải được chuyển giao, mọi sự rủi ro nếu có, về phần người trái chủ phải chịu, dẫu rằng tài vật chưa được chuyển giao thật sự.
Tuy nhiên, nếu người trái hộ bị đốc thúc chuyển giao mà không thi hành, mọi sự rủi ro sẽ về phần người ấy chịu.
Điều thứ 693 – Người trái hộ có thể bị đốc thúc bằng sự bách hẹn, bằng đơn khởi tố hay do chính hậu quả của khế ước, nếu khế ước có xác định rằng tới kỳ hẹn, ngừơi trái hộ đương nhiên coi như đã bị đốc thúc.
Điều thứ 694 – Nếu ngừơi chủ một tài vật cam kết chuyển giao hay chuyển hữu đồ vật ấy cho hai người khác nhau và nếu vật ấy là một động sản, ngừơi nào, thật sự, nhận lãnh đồ vật trứơc sẽ được quyền tiên đắc đối với ngừơi kia và được giữ quyền sở hữu, cho dầu văn thư chuyển hữu cho người ấy đã làm sau, miễn là sự chiếm hữu ngay tình.

T I Ế T II
Nghĩa vụ tác động và nghĩa vụ bất tác động
Điều thứ 695 – Mọi nghĩa vụ tác động và nghĩa vụ bất tác động nếu không được ngừơi trái hộ thi hành đều cải thành nghĩa vụ bồi thường.
Điều thứ 696 – Tuy nhiên, người trái chủ có thể xin hủy bỏ những sự việc gì đã làm trái với lời cam kết. Sự hủy bỏ có thể do người trái hộ phải làm hoặc do ngừơi trái chủ được phép làm nhưng ngừơi trái hộ phải chịu mọi phí tổn, chưa kể những bồi thừơng thiệt hại nếu có.
Điều thứ 697 – Trong trường hợp một nghĩa vụ tác động không được thi hành, ngừơi trái chủ có thể được phép tự mình thi hành, mọi phí tổn sẽ do người trái hộ phải chịu.
Điều thứ 698 – Nếu vi phạm nghĩa vụ bất tác động, chỉ một vụ vi phạm ấy đủ làm cho ngừơi trái hộ phải bồi thừơng.


T I Ế T III
Nói về bồi thường không thi hành nghĩa vụ
Điều thứ 699 – Ngừơi trái hộ chỉ có thể phải bồi thường nếu đã bị đốc thúc thi hành nghĩa vụ, trừ phi nghĩa vụ của ngừơi ấy phải được thi hành trong một thời hạn nhất định và thời hạn này đã qua rồi.
Điều thứ 700 – Người trái hộ phải bồi thường nếu không thi hành nghĩa vụ hay thi hành chậm trễ dẫu rằng người ấy không có gian tình trong sự khiếm khuyết nghĩa vụ, trừ phi chứng tỏ được sự trạng ấy đã xẩy ra vì một nguyên nhân ngoại lai không do ngừơi trái hộ.
Điều thứ 701 – Người trái hộ không phải bồi thường nếu vì một duyên cớ ngẫu nhiên, một trường hợp bất khả kháng mà phải vi phạm nghĩa vụ hay không thi hành được nghĩa vụ.
Điều thứ 702 – Tiền bồi thường gồm có sự thiệt hại mà ngừơi trái chủ sẽ phải chịu và lợi khỏan của ngừơi ấy đã thất thâu, ngoại trừ những đặc lệ dưới đây.
Điều thứ 703 – Ngừơi trái hộ chỉ phải bồi thường những sự thiệt nào đã được dự liệu trong khế ước hay có thể dự liệu được ngay khi kết ước.
Điều thứ 704 – Tuy nhiên, nếu ngừơi trái hộ hành động gian trá thì phải bồi thường cả sự thiệt hại không dự liệu trước miễn là sự thiệt hại này là hậu quả trực tiếp của sự bất thi hành khế ước.
Điều thứ 705 – Nếu khế ước có dự định một số tiền bồi thường cho sự bất thi hành khế ước, ngừơi trái chủ phải được bồi thường y số, không hơn không kém.
Điều thứ 706 – Về nghĩa vụ trả tiền, nếu có sự thi hành chậm trễ, tiền bồi thừơng sẽ là tiền lãi theo lợi xuất luật định.
Chỉ một sự chậm trễ đủ làm cho ngừơi trái chủ được bồi thừơng, ngừơi này không phải chứng minh sự thiệt hại gì hết, nhưng chỉ được bồi thừơng kể từ ngày đã đốc thúc đòi nợ, trừ trường hợp luật định khác.
Nếu vì sự gian tình cố ý chậm trễ của ngừơi trái hộ mà ngừơi trái chủ đã phải chịu một sự thiệt hại gì khác, ngừơi trái chủ sẽ được bồi thường cả về sự thiệt hại này.
Điều thứ 707 – Tiền lãi đáo hạn cũng có thể sinh lãi do lời thỉnh cầu của trái chủ trước tòa, hoặc do một khế ước riêng biệt, nhưng phải là tiền lãi trọn một năm.

T I Ế T IV
Giải thích khế ước
Điều thứ 708 – Trong sự giải thích khế ước, cần phải tìm hiểu ý định chung của hai bên cộng ước hơn là dựa vào văn từ của khế ước.
Điều thứ 709 – Nếu một điều khỏan có thể hiểu hai ý nghĩa, cần phải chọn ý nghĩa nào làm cho điều khản ấy có được hiệu quả.
Điều thứ 710 – Những danh từ nào có ý nghĩa phải giải thích theo ý nghĩa nào phù hợp nhất với bản chất của khế ước.
Điều thứ 711 – Điều khoản hay danh từ nào tối nghĩa phải giải thích theo tập quán, thông lệ địa phương nơi lập ước.
Điều thứ 712 – Trong mỗi khế ước, những điều khỏan minh thị được tự nhiên bổ túc bằng những điều khỏan thương lệ vẫn áp dụng, mặc dầu khế ước không nói đến.
Điều thứ 713 – Những điều khoản trong một khế ước phải giải thích điều nọ dựa theo điều kia, sao cho ý nghĩa thích hợp với toàn bộ khế ước.
Điều thứ 714 – Trong trừơng hợp hồ nghi, khế ước phải giải thích theo chiều hướng có lợi cho ngừơi trái hộ, trừ phi có biệt lệ riêng định khác.


T I Ế T V
Nói về hiệu lực của khế ước đối với ngừơi đệ tam
Điều thứ 715 – Khế ước chỉ có hiệu lực giữa các người cộng ước cùng các ngừơi thụ quyền của họ mà không thể làm hại, cũng không làm lợi cho ngừơi đệ tam, trừ trường hợp đã định ở điều 672.
Điều thứ 716 – Tuy nhiên, các chủ nợ có thể sử hành mọi quyền lợi và tố quyền của trái hộ, trừ những quyền lợi và tố quyền quan thiết với thân nhân của trái hộ.
Điều thứ 717 – Chủ nợ cũng có thể, nhân danh mình xin tiêu hủy những hành vi có hại đến quyền lợi của họ do trái hộ đã làm một cách gian lận.
Điều thứ 718 - Sự chuyển dịch quyền tư hữu bất động sản cũng như mọi vật quyền khác, chỉ đối kháng được với ngừơi đệ tam nếu đã được đăng ký vào sổ điền thổ hay vào địa bộ nếu có sổ sách.

PHỤ THIÊN THỨ NHẤT
Nói về sự đắc lợi vô căn

CHƯƠNG THỨ NHẤT
Sự trả của không nợ
Điều thứ 719 – Người nào tri tình hay vì lầm lẫn thâu nhận một tài vật gì người ta không nợ minh, có nghĩa vụ phải hòan lại tài vật ấy cho ngừơi đã trả lầm.
Điều thứ 720 – Người nào trả nợ vì lầm lẫn tưởng mình mắc nợ, có quyền đòi chủ nợ phải hoàn lại.
Tuy nhiên, nếu người chủ nợ, sau khi được trả nợ, đã hủy bỏ văn tự thì người trả lầm chỉ có thể đòi ở người mắc nợ thật sự.
Điều thứ 721 – Người thâu nhận nếu gian tình, sẽ hoàn lại cả vốn, lời hay hoa lợi kể từ ngày thâu nhận. Ngoài ra, còn có thể phải bồi thường.
Điều thứ 722 – Người thâu nhận một bất động sản hay một động sản hữu hình, phải trả lại tài vật ấy nếu còn, hoặc giá trị của tài vật ấy nếu đã bị tiêu hủy hay hư hại vì lỗi của mình, ngay cả trong trường hợp ngẫu nhiên, nếu ngừơi ấy gian tình.
Điều thứ 723 – Nếu người thâu nhận ngay tình đã bán tài vật đi, thì chỉ hòan lại giá bán.
Nếu người thâu nhận gian tình, người đã trả lầm có thể đòi trị giá của tài vật, nếu trị giá này cao hơn giá bán.
Điều thứ 724 – Trong mọi trường hợp, ngừơi trả lầm lấy lại tài vật phải hoàn lại ngay cả cho ngừơi chấp hửu gian tình, những phí tổn cần thiết hay hữu ich cho sự bảo tồn tài vật.

CHƯƠNG THỨ II
Sự quản lý việc ngừơi
Điều thứ 725 – Người nào tự ý đảm nhiệm quản lý tài sản, công việc của người khác thì người chủ dù biết hay không biết sự quản lý ấy, cũng được coi như đã nhận nghĩa vụ mặc nhiên phải làm cho trọn, đến khi ngừơi chủ tự đảm đương lấy được. Ngừơi quản trị phải đảm nhiệm cả những việc phụ thuộc vào công việc chính.
Ngừơi quản trị phải chịu những việc như thể đã được ngừơi chủ ủy thác.
Điều thứ 726 – Nếu ngừơi chủ mệnh một, ngừơi quản trị phải tiếp tục công việc cho đến khi các thừa kế tự đảm nhận lây công việc ấy.
Điều thứ 727 – Ngừơi quản trị phải thận trọng, mẫn cán trong mọi hành vi quản trị.
Tuy nhiên, nếu vì lỗi lầm hay trễ biếng mà ngừơi quản trị gây thiệt hại cho ngừơi chủ, sự bồi thường có thể tùy nghi châm trước theo hoàn cảnh đã khiến ngừơi ấy nhận vịêc quản trị.
Điều thứ 728 – Nếu sự quản trị hữu ích và chu đáo, người chủ phải thi hành những sự cam kết do ngừơi quản trị nhân danh mình đã ưng thuận, phải bồi thường cho người quản trị về những cam kết đứng tên người ấy và phải hoàn lại mọi khoản chi tiêu hữu ích hay cần thiết của người quản trị.

PHỤ THIÊN THỨ II
Nói về sự thiệt hại vô hình hay cố ý gây ra
Điều thứ 729 – Bất cứ hành vi nào gây ra thiệt hại cho người khác đều làm cho ngừơi chủ động có lỗi phải bồi thường.
Điều thứ 730 – Ngưới gây thiệt hại không những phải chịu trách nhiệm về những hành vi cố ý mà còn cả về các sự sơ suất bất cẩn của mình nữa.
Điều thứ 731 – Người ta phải chịu trách nhiệm không những về sự thiệt hại do hành vi của chính mình mà còn chịu trách nhiệm về cả hành vi của những người mà mình có bổn phận trông coi.
Điều thứ 732 – Cha mẹ phải chịu trách nhiệm về hành động của con cái vị thành niên còn ở chung với cha mẹ.
Điều thứ 733 – Người gia chủ phải chịu trách nhiệm về hành vi của gia bộc; người chú ủy phải chịu trách nhiệm về hành vi của kẻ thừa sai; ngừơi thợ cả phải chịu trách nhiệm của công nhân và ngừơi học nghề.
Trong trường hợp trách nhiệm nói trên, hành vi của những ngừơi gia bộc, thừa sai, công nhân và học nghề phải là một hành vi thuộc vào phận sự công việc của những ngừơi ấy.
Điều thứ 734 – Cha mẹ, gia chủ, chủ ủy và thợ cả muốn được miễn trách phải chứng minh rằng họ đã làm hết cách mà không ngăn cản được hành vi đã gây ra thiệt hại.
Điều thứ 735 – Thấy học các trường phải chịu trách nhiệm về hành vi của học trò trong thời gian học trò dưới sự kiểm soát của mình, nhưng chỉ chịu trách nhiệm nếu đã có lỗi, được chứng minh theo thừơng luật. Nếu là trường công, trách nhiệm của quốc gia sẽ thay thế trách nhiệm của đương sự.
Điều thứ 736 – Người ta phải chịu trách nhiệm về sự thiệt hại gây ra bởi vật vô tri mà mình canh thủ.
Ngừơi canh thủ là người nào được hành dụng vật đó một cách tự chủ, tùy theo sự tiện lợi của mình, không phải chịu sự kiểm soát của ai trong việc hành dụng.
Điều thứ 737 – Người canh thủ đương nhiên phải chịu trách nhiệm và chỉ được miễn trách nếu chứng tỏ được rằng sự thiệt hại do một duyên cớ ngẫu nhiên hay một trừơng hợp bất khả kháng gây ra.
Trường hợp bất khả kháng do tòa xét định tùy hoàn cảnh lỗi của ngừơi đệ tam hay của nạn nhân, nếu là duyên cớ duy nhất gây ra tai nạn, được coi là trường hợp bất khả kháng.
Điều thứ 738 – Người chủ một súc vật, hay ngừơi dùng con vật ấy, trong thời gian hành dung, phải chịu trách nhiệm về sự thiệt hại do con vật gây ra, trong lúc ở dưới sự canh thủ của mình hay cả ngay lúc nó đã lạc hay sổng chạy.
Điều thứ 739 –Ngừơi sở hữu chủ một công trình kiến trúc bị sụp đổ vì thiếu tu bổ hay vì xây cất có khuyết điểm phải chịu trách nhiệm về sự thiệt hại do sự sụp đổ gây ra.

PHỤ THIÊN THỨ III
Nói về những nghĩa vụ pháp định
Điều thứ 740 – Nghĩa vụ pháp định là những nghĩa vụ do luật pháp tạo ra, không lệ thuộc vào một hành vi hiện tại nào của người phải thi hành nghĩa vụ, như là nghĩa vụ giám hộ, đã quy định ở điểm I, thiên IX, chương I, nghĩa vụ bồi thường về tai nạn lao động qui định bởi luật lệ riêng và nghĩa vụ cấp dưỡng.
Điều thứ 741 – Nghĩa vụ câp dưỡng là bổn phận phải đảm nhiệm sự sinh sống cho một người nào đó, nghĩa là phải cung cấp cho ngừơi ấy mọi sự cần dùng thiết yếu.
Điều thứ 742 – Con cái phải chu cấp cha mẹ, ông bà nếu những tôn thuộc này thiếu thốn.
Điều thứ 743 – Con dâu cũng có bổn phận cung cấp cho cha mẹ chồng và ông bà nội của chồng.
Ngược lại ông bà cũng có bổn phận cấp dưỡng con cháu và con cháu dâu.
Điều thứ 744 – Các anh chị lớn phải cung cấp cho các em vị thành niên nếu cha mẹ đã chết.
Điều thứ 745 – Sự cấp dưỡng sẽ tùy theo khả năng của người phải cấp dưỡng và nhu cầu của người được cấp dưỡng.
Điều thứ 746 – Trong trường hợp nhiều thân thích đồng hàng cùng phải cấp dưỡng, nghĩa vụ này sẽ phân phối giữa các ngừoi ấy tùy theo khả năng của mỗi người.

THIÊN THỨ II
Nói về những dạng thức của nghĩa vụ
Điều thứ 747 – Nghĩa vụ phát sinh hậu quả khác nhau tùy theo:
1) Nghĩa vụ có tính cách đơn thường hay có kỳ hạn hoặc có điều kiện;
2) Nghĩa vụ có tính cách luân lưu hay có tính cách thế nhiệm;
3) Nghĩa vụ có điều khoản dự phát;
4) Nghĩa vụ có đơn số hay đa số trái chủ và trái hộ.


CHƯƠNG THỨ NHẤT
Nghĩa vụ đơn thường và nghĩa vụ có kỳ hạn hay có điều kiện
T I Ế T I
Nghĩa vụ có kỳ hạn
Điều thứ 748 – Nghĩa vụ có tính cách đơn thường là nghĩa vụ vừa được tạo ra đã chắc chắn và khả sách tức thời.
Điều thứ 749 – Nghĩa vụ có kỳ hạn là nghĩa vụ mà người trái chủ chỉ có thể đòi thi hành sau một thời gian định trước hay khi nào một sự việc đích xác chắc chắn, dự liệu trứoc, đã xẩy ra.
Nợ có kỳ hạn không thể buộc phải trả trườc khi đáo hạn, nhưng nếu trái hộ đã trả trước kỳ hạn thì không được đòi lại.
Điều thứ 750 – Trái hộ có thể khước từ thời hạn để thi hành nghĩa vụ trườc khi đáo hạn, trừ phi kỳ hạn có lợi cho cả hai bên hay chỉ có lợi riêng cho trái chủ. Trong trường hợp này trái chủ cũng có thể khước từ kỳ hạn.
Điều thứ 751 – Trái hộ có thể bị truất kỳ hạn, nếu đã công tri trở thành vô tự lực hoặc nếu đã tự mình hành động làm giảm bớt những bảo đảm đã ưng thuận cho chủ nợ.
Sự truất kỳ hạn phải do tòa án quyết định.

T I Ế T II
Nghĩa vụ có điều kiện
Điều thứ 752 – Nghĩa vụ có điều kiện là nghĩa vụ mà sự phát sinh hay giải tiêu lệ thuộc vào sự thực hiện một việc hậu lai và không chắc chắn. Trong trường hợp trước, điều kiện gọi là điều kiện đình chỉ, trong trường hợp sau, là điều kiện giải tiêu.
Điều thứ 753 – Điều kiện đình chỉ, nếu thức hiện, sẽ có hồi tiền hiệu lực kể từ ngày cam kết.
Điều kiện giải tiêu, nếu thực hiện sẽ hủy bãi khế ước và đặt hai bên công ước vào tình trạng cũ, y như trước khi kết ước.
Điều thứ 754 – Khi điều kiện thực hiện, bên nào có nghiã vụ phải chuyển giao hay hoàn lại một đồ vật hoặc một món tiền, sẽ phải giao cả những hoa lợi, tiền lời đã thu hoạch hay đáo hạn trong thời gian điều kiện chưa thực hiện, trừ phi có chứng cứ là hai bên đã có ý định khác.
Điều thứ 755 – Tất cả những điều kiện về một sự việc không thể có được hay trái với thuần phong mỹ tục, hay trật tự công cộng, hoặc bị luật pháp cấm đóan, đều vô hiệu và cũng làm cho khế ước lệ thuộc vào điều kiện ấy vô hiệu.
Nếu điều kiện nói trên chỉ liên quan đến một hiệu lực phụ thuộc của khế ước, thì chỉ riêng điều khoản liên hệ đến hiệu lực ấy coi như không có.
Điều thứ 756 – Khi một nghĩa vụ được ký kết với điều kiện tích cực tức một sự việc sẽ xẩy ra trong một thời gian nhất định, nếu thời gian này qua rồi mà sự việc dự liệu không xẩy đến thì điều kiện xem như bất thành. Nếu không ấn định thời gian nào, bao giờ điều kiện cũng có thể thực hiện được. Điều kiện chỉ xem như bất thành khi đã có sự chắc chắn là sự việc sẽ không xẩy ra.
Điều thứ 757 – Khi một nghĩa vụ được ký kết với một điều kiện tiêu cực tức một sự việc sẽ không xẩy ra trong một thời gian nhất định, điều kiện được xem là thành tựu, nếu thời gian ấn định đã qua mà sự việc không xẩy đến.
Điều kiện cũng xem là thành tựu nếu chưa hết thời hạn ấn định mà biết chắc là sự việc sẽ không xẩy đến. Nếu không định thời gian nào, thì điều kiện chỉ thành tựu khi có sự chắc chắn là sự việc sẽ không xẩy đến.
Điều thứ 758 – Nếu một bên cộng ước hay cả hai bên đều mệnh một trước khi điều kiện thực hiện hay bất thành, sự thỏa ước vẫn tồn tại bên nào cho bên ấy, đối với thừa kế của họ, ngoại trừ điều kiện quan thiết đến bản thân ngừơi kết ước hay theo bản chất của điều kiện đó.
Điều thứ 759 – Điều kiện được coi như thực hiện nếu trái hộ, cam kết dưới điều kiện ấy, đã cản trở làm cho điều kiện không thực hiện được.
Điều thứ 760 – Về sự cam kết chuyển hữu một vật xác định, dưới điều kiện đình chỉ, nếu khi điều kiện này thực hiện vật ấy đã hoàn toàn tiêu thất vì rủi ro, khế ước coi như thất hiệu và hai bên không ai phải thi hành nghĩa vụ.
Nếu sở vật chỉ bị hư hại mà không phải do lỗi của ngừơi có bổn phận chuyển hữu, người kia có quyền hoặc từ chối không chịu nhận lãnh sở vật, hoặc đòi giao sở vật theo hiện trạng nhưng phải trả tiền theo giá đã định.
Nếu sở vật bị hại do lỗi của người có bổn phận chuyển hữu, người kia có quyền hoặc từ chối không nhận lãnh sở vật, hoặc đòi giao sở vật theo hiện trạng và đòi bồi thường thiệt hại.
Điều thứ 761 – Khế ước lập dưới điều kiện giải tiêu được thi hành ngay, nhưng nếu điều kiện thực hiện thì người trái chủ đã nhận được gì phải giao trả lại hết cho trái hộ; khế ước bị hủy bãi và coi như không bao giờ có và hai bên cộng ước trở lại tình trạng cũ như khi chưa kết ước, như đã nói ở điều 753 đoạn 2.
Điều thứ 762 – Về sự cam kết chuyển hữu một vật xác định dưới điều kiện giải tiêu, nếu khi điều kiện này thực hiện, vật ấy đã bị hòan toàn tiêu thất vì rủi ro, khế ước vẫn giữ nguyên hiệu lực, giá tiền của sở vật không được đòi lại.
Nếu sở vật chỉ bị hư hại mà không phải do lỗi của người được chuyển hữu, người kia có quyền hoặc để nguyên sở vật cho người trứơc hưởng dụng hoặc đòi giao lại sở vật theo hiện trang nhưng phải hòan lại đủ giá tiến.
Nếu sợ vật bị hư hại do lỗi của ngừơi được chuyển hữu, ngừơi kia có quyền hoặc để nguyên sở vật cho ngừơi trước hưởng dụng, hoặc đòi giao lại sở vật theo hiện trạng và đòi bối thường thiệt hại.
Điều thứ 763 – Trong mọi khế ườc song phương, điều kiên giải tiêu phải coi là được hai bên mặc nhiên chấp thuận cho trường hợp một bên không thi hành nghĩa vụ.
Trong trừơng hợp này, khế ước không đương nhiên bị tiêu hủy. Người bị hiệt có quyền bó buộc bên kia phải thi hành nghĩa vụ nếu có thể thi hành được, hoặc xin tiêu hủy khế ước và bồi thường.
Sự tiêu hủy do tòa án xét định. Tòa có thể tùy trường hợp cho ân hạn để thi hành khế ước.

CHƯƠNG THỨ II
Nói về nghĩa vụ luân lưu và nghĩa vụ nhiệm ý
Điều thứ 764 – Nghĩa vụ luân lưu là nghĩa vụ có hai hay nhiều sở vật khác nhau để tùy trái hộ lựa chọn, cung cấp sở vật nào cũng được coi là đã thi hành nghĩa vụ.
Quyền lựa chọn thuộc về trái hộ, trừ phi có sự thỏa thuận dành quyền ấy cho trái chủ.
Đìều thứ 765 – Trái hộ muốn cung cấp sở vật nào cũng được, nhưng phải cung cấp toàn vẹn một sở vật, không thể bó buộc được trái chủ phải nhận một phần sở vật này và một phần sở vật khác.
Điều thứ 766 – Một nghĩa vụ cam kết dưới hình thức luân lưu cũng chỉ là nghĩa vụ đơn thuần nếu trong các sở vật cam kết chỉ có một sở vật có thể làm đối tượng hợp pháp cho nghĩa vụ.
Điều thứ 767 – Nếu một trong hai sở vật của nghĩa vụ luân lưu bị tiêu thất, dẫu là vỉ lỗi của trái hộ, nghĩa vụ sẽ thành nghĩa vụ đơn thường. Trái hộ không thể đem giá tiền sở vật tiêu thất để thay thế cho sở vật ấy, mà phải cung cấp sở vật còn lại.
Nếu cả hai sở vật cùng tiêu thất mà trái hộ có lỗi trong một sự tiêu thất của một trong hai sở vật đó, trái hộ phải trả tiền sở vật đã tiêu thất sau cùng.
Nếu cả hai sở vật cùng tiêu thất, không phải là lỗi của trái hộ và trước khi người này bị đốc thúc thì nghĩa vụ giải tiêu.
Điều thứ 768 - Trong các trường hợp dự liệu ở điều trên, nếu quyền lựa chọn thuộc quyền trái chủ:
1) Và nếu một trong hai sở vật bị tiêu thất không do lỗi của trái hộ, trái chủ chỉ có quyền nhận sở vật còn lại, hay do lỗi của trái hộ, trái chủ có thể đòi sở vật còn lại hay giá tiền sở vật tiêu thất.
2) Và nếu cả hai sở vật đều tiêu thất do lỗi của trái hộ đối với với một hay cả hai sự thiêu thất ấy, trái chủ có thể tùy ý đòi giá tiền một trong hai sở vật nói trên.
Điều thứ 769 – Các nguyên tắc nói trên được áp dụng cho trừơng hợp có quá hai sở vật trong nghĩa vụ luân lưu.
Điều thứ 770 – Nghĩa vụ nhiệm ý là nghĩa vụ chính buộc trái hộ vào một cung khoản duy nhất, nhưng trái hộ có thể trả nợ bằng một cung khỏan dự liệu trong khế ước.
Nếu sở vật của cung khoản chính bị tiêu thất vì một duyên cớ ngẫu nhiên, hay một trừơng hợp bất khả kháng, trái hộ sẽ được giải nhiệm.
Nếu sở vật của cung khoản chính bị tiêu thất vì lỗi của trái hộ, ngừơi này phải trả giá trị sở vật ấy và bồi thường, nhưng vẫn có thể xin thi hành nghĩa vụ bằng cách cung ứng sở vật thế nhiệm.


CHƯƠNG THỨ III
Nói về nghĩa vụ có điều kiện dự phạt
Điều thứ 771 – Điều khỏan dự phạt là sự cam kết của trái hộ nhận sẽ phải trả một khỏan bồi thường nhất định nếu không thi hành nghĩa vụ.
Điều thứ 772 – Nếu nghĩa vụ chính yếu vô hiệu thì điều khỏan dự phạt cũng vô hiệu, nhưng sự vô hiệu của điều khỏan dự phạt không làm cho nghĩa vụ chính yếu vô hiệu.
Điều thứ 773 – Nếu trái hộ đã bị đốc thúc mà không thi hành, ngừơi chủ nợ, mặc dầu điều khỏan dự phạt, vẫn có thể đòi trái hộ phải thi hành nghĩa vụ.
Điều thứ 774 – Điều khỏan dự phạt là sự bù trừ thiệt hại cho trái chủ về sự khiếm khuyết của trái hộ, chủ nợ không thể đòi thi hành cả nghĩa vụ chính và điều khỏan dự phạt, trừ phi sự dự phạt này chỉ là để chế tài sự chậm trễ trong việc thi hành.
Điều thứ 775 – Trái hộ chỉ bị trừng phạt theo điều khỏan dự phạt nếu có bị đốc thúc, dẫu rằng đã có một thời hạn được ấn định cho sự thi hành nghĩa vụ, trừ phi có giao ước rằng, quá thời hạn ấy trái hộ đương nhiên bị coi là có lỗi, không cần phải đốc thúc.
Điều thứ 776 – Điều khỏan trừng phạt phải áp dụng trọn vẹn, tuy nhiên tòa án có thể giảm bớt nếu nghĩa vụ đã thi hành một phần.


CHƯƠNG THỨ IV
Nói về nghĩa vụ có một hay nhiều trái chủ và trái hộ
Điều thứ 777 – Nghĩa vụ đơn số là nghĩa vụ trong đó chỉ có một trái chủ và một trái hộ. Nghĩa vụ đa số là nghĩa vụ trong đó có nhiều trái chủ hay nhiều trái hộ ngay từ lúc lập ước hay là do sự mệnh một, trái chủ hay trái hộ có để lại nhiều thừa kế.
Nghĩa vụ đa số có thể là một nghĩa vụ cộng đồng hay liên đới, một nghĩa vụ khả phân hay bất khả phân.
Điều thứ 778 – Trong nghĩa vụ cộng đồng giữa các trái chủ hay các trái hộ, kỷ phần mà mỗi chủ nợ có thể đòi hỏi, hay của một trái hộ có thể bị yêu sách do khế ước ấn định; nếu không sẽ tùy theo sự trạng thực tế mà ấn định.
Nếu không có tiêu chuẩn gì đích xác để ấn định kỷ phần ấy, số nợ sẽ chia đều theo số đầu người, ngoại trừ tố cầu truy hoàn của người này đối với người kia, nếu có.

T I Ế T I
Nói về nghĩa vụ liên đới
1.- Tình trạng liên đới giữa các chủ nợ
Điều thứ 779 – Các chủ nợ ở trong tình trạng liên đới khi nào văn tự minh thị cho phép mỗi chủ nợ được đòi trái hộ phải trả toàn phần món nợ và sự trả nợ như vậy sẽ làm cho trái hộ hết nghĩa vụ, được giải nhiệm đối với tất cả các chủ nợ; ngay cả trong trường hợp trái quyền có thể phân chia giữa các trái chủ.
Điều thứ 780 – Cho đến khi bị truy sách, trái hộ có quyền lựa chọn trả nợ cho trái chủ liên đới nào cũng được.
Tuy nhiên, nếu một trái chủ miễn nợ cho trái hộ, thì người này chỉ được miễn trả riêng kỷ phần của trái chủ ấy thôi.
Điều thứ 781 – Nếu một trong trái chủ liên đới có hành vi gì làm gián đoạn thời tiêu, hành vi ấy có lợi cho tất cả các trái chủ khác; đối với những ngừơi này, thời tiêu cũng bị gián đoạn.
2.- Tình trạng liên đới giữa các trái hộ
Điều thứ 782 – Các trái hộ ở trong tình trạng liên đới khi nào họ cũng bị buộc chung vào một nghĩa vụ làm cho mỗi ngừơi đều có thể bị cưỡng bách phải trả toàn món nợ, và chỉ một người đã trả toàn phần là đủ làm cho các trái hộ khác hết nghĩa vụ đối với chủ nợ.
Điều thứ 783 – Nghĩa vụ có thể liên đới mặc dầu các trái hộ bị buộc vào nghĩa vụ ấy theo cách thức khác nhau thí dụ người được kỳ hạn, người không; hay người này cam kết có điều kiện ngừơi kia cam kết vô điều kiện.
Điều thứ 784 – Sự liên kết không được suy đoán mà phải được minh thị xác định hay được luât dự định.
Tuy nhiên, sự liên đới có thể chứng minh bằng mọi bằng cớ của luật thông thường.
Điều khoản 1 nói trên không áp dụng cho việc thương mại.
Trong những sự thiệt hại vô tình hay cố ý gây ra, tất cả các chủ đông cùng đồng lõa và trách nhiệm dân sự đều phải liên đới bồi thường cho nạn nhân, mặc dầu nghĩa vụ bồi thường có thể phân chia giữa các ngừơi có trách nhiệm tùy theo lỗi nặng hay nhẹ.
Điều thứ 785 – Người trái chủ một nghĩa vụ liên đới có quyền tùy ý lựa chọn một trong các người trái hộ để đòi thi hành tòan thể nghĩa vụ. Ngừơi trái hộ bị đòi hỏi như vậy không thể buộc trái chủ phải phân chia món nợ, để đòi theo nhân xuất.
Điều thứ 786 – Tuy nhiên người ấy có thể xin cho đòi các trái hộ khác dự sự vào thủ tục để bảo vệ quyền lợi chung, hoặc để phân phối kỷ phần mỗi người phải trả, trong sự tương quan của các trái hộ với nhau.
Điều thứ 787 – Người trái chủ mặc dầu đã khởi tố hoặc truy sách một trái hộ vẫn có quyền khởi tố trái hộ khác.
Điều thứ 788 – Nếu sở vật của nghĩa vụ đã bị tiêu thất vì lỗi của một hay nhiều người trong số các trái hộ liên đới, hay sau khi những ngừơi ấy đã bị đốc thúc, các trái hộ khác vẫn phải trả giá tiền của sợ vật ấy, nhưng không phải bồi thường.
Trong sự bồi thường này, chủ nợ chỉ có thể đòi hỏi ở người trái hộ đã có lỗi hay ở những trái hộ đã bị đốc thúc.
Điều thứ 789 – Sự truy sách một trong những trái hộ liên đới có hậu quả làm gián đoạn thời tiêu đối với tất cả các trái hộ.
Điều thứ 790 - Khi chủ nợ đã đòi một trong những trái hộ liên đới phải trả tiền lời, thì kể từ ngày ấy các trái hộ khác cũng phải chịu tiền lời.
Điều thứ 791 – Trái hộ liên đới bị chủ nợ kiện có thể viện những khước biện do bản chất của nghĩa vụ, những khước biện riêng đới với chính mình và các khước biện chung cho các các trái hộ.
Không được viện dẫn những khước biện nào chỉ liên quan đến trừơng hợp riêng của trái hộ khác.
Điều thứ 792 – Những phương pháp kháng biện căn cứ vào sự vô năng cách của một trái hộ hay vào sự ưng thuận bị hà tỳ, chỉ riêng đương sự liên hệ được viên dẫn; nhưng, nếu đã viện dẫn và được chấp thuận, sẽ làm cho tất cả các trái hộ khác cũng được lợi, khỏi phải trả phần nợ của người vô năng hay của ngừơi mà sự ưng thuận bị hà tỳ.
Điều thứ 793 – Nếu một trái hộ thành thừa kế duy nhất của chủ nợ hay nếu chủ nợ thành thừa kế duy nhất của một trong các trái hộ, sự hỗn nhập tư cách ấy chỉ tiêu trừ trái quyền liên đới riêng về kỷ phần của người trái hộ hay người chủ nợ thừa kế.
Điều thứ 794 – Người chủ nợ, dẫu thuận cho chia nợ đối với một trong các trái hộ liên đới, vẫn được giữ tố quyền liên đới đối với những trái chủ khác, duy chỉ phải khấu trừ phần nợ của ngừơi đã được miễn liên đới.
Điều thứ 795 – Nếu người chủ nợ nhận phần tiền lãi riêng của một trái hộ trả mà không dành quyền rõ rệt thì chỉ số tiền lời đáo hạn mất tính cách liên đới, tính cách này vẫn tồn tại cho tiền lời chưa đáo hạn và tiền vốn, trừ phi chủ nợ đã nhận tiền lời riêng rẽ như trong năm năm liền.
Điều thứ 796 – Nghĩa vụ cam kết liên đới với chủ nợ được đương nhiên phân chia giữa các trái hộ, những ngừơi này đới với nhau chỉ phải chịu riêng phần của mình trong số nợ.
Điều thứ 797 – Ngừơi đồng nợ liên đới nếu đã trả tòan món nợ chỉ có thê đòi những ngừơi đồng nợ khác kỷ phần của mỗi ngừơi ấy trong món nợ. Nếu có người vô tư lực phần nợ của ngừơi này sẽ do tất cả các ngừơi đồng nợ khác phải chia nhau cùng chịu với người đã trả toàn món nợ.
Điều thứ 798 – Người chủ nợ miễn liên đói cho một trái hộ, mà một trái hộ khác trở nên vọ tư lực thì phần nợ của người này phải do tất cả các trái hộ khác chia nhau cùng chịu, kể cả trai hộ đã được miễn liên đới.


T I Ế T II
Nói về nghĩa vụ khả phân và bất khả phân
Điều thứ 799 – Nghĩa vụ có tính cách khả phân khi nào đối tượng của nghĩa vụ ấy là một sở vật có thể phân chia được để giao nạp, hay là một sự việc có thể phân chia được để thi hành.
Điều thứ 800 – Trái lại, nghĩa vụ có tính cách bất khả phân khi nào đối tượng của nghĩa vụ ấy là một sở vật phải giao nạp cả một lúc, hay là một việc phải thi hành cả một lần.
Điều thứ 801 – Tuy nhiên, mặc dầu theo bản chất, sở vật hay sự việc của nghĩa vụ có thể phân chia được, nghĩa vụ cũng là bất khả phân nếu do sự thỏa thuận của hai bên, sự thi hành không được phân chia làm nhiều giai đoạn.
Điều thứ 802 – Sự liên đới không làm cho nghĩa vụ có tính cách bất khả phân.
1.- Nói về nghĩa vụ khả phân
Điều thứ 803 – Giữa chủ nợ và trái hộ, nghĩa vụ dẫu là khả phân, phải được thi hành như thể nghĩa vụ ấy có tính cách bất khả phân.
Sự phân chia chỉ được áp dụng cho các thừa kế của họ; những ngừơi này chỉ được hưởng phần trái quyền, hay chỉ chịu phần trái vụ theo kỷ phần thuộc về họ với tư cách thừa kế của chủ nợ hay của trái hộ.
Điều thứ 804 – Nguyên tắc trên đây chỉ bị loại trừ đối với thừa kế của trái hộ trong những trừơng hợp sau đây:
1) Nếu món nợ có để đương;
2) Nếu sở vật của món nợ là một vật thực thể;
3) Nếu chỉ riêng một thừa kế đã được văn tự giao cho việc thi hành nghĩa vụ.
4) Nếu bản chất của sự cam kết, hay mục đích của sự cam kết, bó buộc phải thi hành tòan vẹn, không thể được phân chia làm nhiều lần.
Ngừơi thừa kế giữ tài sản bị để đương hay giữ sở vật của món nợ, trong hai trường hợp đầu, ngừơi được chỉ định để thi hành nghĩa vụ trong trừơng hợp thứ ba và mỗi thừa kế trong trường hợp chót đều có thể bị truy sách về toàn phần món nợ, nhưng có quyền đòi các thừa kế khác phải bồi hoàn.
2.- Nòi về nghĩa vụ bất khả phân
Điều thứ 805 – Mỗi ngừơi đã cộng đồng cam kết về một nghĩa vụ bất khả phân phải chịu trách nhiệm mỗi người về toàn phần món nợ, dẫu rằng không phải là nợ được cam kết liên đới.
Điều thứ 806 – Các thừa kế của người đã cam kềt như trên cũng bị trách nhiệm như vậy.
Điều thứ 807 - Mỗi thừa kế của chủ nợ có quyền đòi sự thi hành toàn vẹn nghĩa vụ bất khả phân.
Một thừa kế không có quyền sử dụng tòan món nợ như miễn cả món nợ; hay nhận tiền để thay thế cho sở vật của món nợ. Nếu có thừa kế nào hành động như vậy, các thừa kế khác vẫn có quyền đòi món nợ bất khả phân, nhưng phải tính trừ đi kỷ phần của ngừơi thừa kế đã sử dụng món nợ.
Điều thứ 808 – Người thừa kế bị truy sách về toàn phần món nợ có thể xin thời hạn để đòi các đồng thừa kế ra dự sự vào thủ tục, trừ phi món nợ, vì bản chât, phải do chính thừa kế ấy đảm nhận. Trong trường hợp này, riêng thừa kế ấy có thể bị kết án, ngoại trừ quyền đòi các thừa kế khác phải bồi thừơng.

THIÊN THỨ III
Nói về sự tiêu trừ nghĩa vụ
Điều thứ 809 – Nghĩa vụ bị tiêu trừ do:
1) Sự thi hành nghĩa vụ;
2) Sự thuận miễn nghĩa vụ;
3) Sự thế cải;
4) Sự khấu trừ;
5) Sự hỗn nhập;
6) Sự tiêu thất sở vật của nghĩa vụ.
7) Sự vô hiệu hay sự bãi tiêu khế ứơc,
8) Do hiệu lực của điều kiện giải tiêu như đã giải thích ở những điều 752 và tiếp theo,
9) Do sự thời tiêu sẽ được quy định ở một quyển riêng.


CHƯƠNG THỨ NHẤT
Sự thi hành nghĩa vụ
Điều thứ 810 – Sự trả nợ làm giải tiêu nghĩa vụ.
Có nợ mới phải trả. Nếu không nợ mà trả thì có thể đòi lại, trừ phi người đã trả tự ý muốn thi hành một nghĩa vụ tự nhiên.
Điều thứ 811 – Một nghĩa vụ có thể do bất cứ người nào có can dự thi hành, thí dụ như người bảo lãnh hay ngừơi đồng cam kết.
Nghĩa vụ cũng có thể do một ngừơi đệ tam thi hành tuy người này không can dự tới nghĩa vụ ấy, miễn là ngừơi đệ tam hành động nhân danh người trái hộ và trả thế cho người này. Nếu ngừơi đệ tam hành động nhân danh riêng mình thì phải điều kiện là người ây không được thay thế vào địa vị chủ nợ.
Điều thứ 812 – Nghĩa vụ tác động không thể do một người đệ tam thi hành nếu chủ nợ không muốn và nếu sự thi hành do chính trái hộ có lợi cho chủ nợ.
Điều thứ 813 – Sự trả nợ có giá trị nếu người trả là chủ sở hữu đồ vật đem trả và có đủ năng cách chuyển mại đồ vật ấy.
Điều thứ 814 – Nợ phải trả cho chủ nợ hay cho người được chủ nợ, tòa án hoặc luật pháp cho quyền thu nhận.
Sự trả nợ cho một ngừơi không có quyền thu nhận cũng có giá trị nếu chủ nợ đã chuẩn y hay đã được hưởng lợi.
Điều thứ 815 – Sự trả nợ sẽ vô giá trị nếu chủ nợ không có năng cách để thu nhận, trừ phi trái hộ chứng tỏ được rằng sự trả nợ đã có lợi cho chủ nợ.
Điều thứ 816 – Nếu đã có sự sai áp hay phản kháng mà trái hộ bỏ qua, cứ trả cho chủ nợ của mình, thì sự trả nợ không thể đối kháng với các chủ nợ sai áp hay phản kháng hợp pháp, những ngừơi này có quyền đòi trái hộ ấy phải trả cho họ một lần nữa, ngoại trừ quyền của trái hộ được truy sách chủ nợ của mình.
Điều thứ 817 – Chủ nợ không thể bị bó buộc chủ nợ phải thu nhận một đồ vật không phải là đối tượng của món nợ, mặc dầu đố vật ấy cũng có giá trị tương đương hay nhiều hơn.
Điều thứ 818 – Trái hộ không có quyền bắt buộc chủ nợ phải phân kỳ nhận nợ, dẫu rằng món nợ theo bản chất, có thể chia ra được để trả.
Tuy nhiên, tòa án có thể chiều theo trường hợp cho trái hộ hưởng án hạn phải chăng; án hạn này không được quá một năm.
Điều thứ 819 – Điều 818 sẽ không đươc áp dụng cho trường hợp chủ nợ chấp hành một án văn đã thành nhất định hay một chứng thư có văn thức chấp hành.
Điều thứ 820 – Trái hộ một đồ vật đích xác được giải nhiệm nếu giao vật ấy theo hiện trạng khi giao, trừ phi có hư hại gây ra do lỗi của trái hộ hay do lỗi của những ngừơi mà trái hộ phải chịu trách nhiệm.
Sau khi bị đốc thúc, trái hộ phải chịu trách nhiệm về cả những hư hại gây ra, hkông do lỗi của mình.
Điều thứ 821 – Nếu đối tượng của món nợ không phải là một vật đích xác mà chỉ được chỉ định về chủng loại, trái hộ chỉ có nghĩa vụ phải cung cấp vật thuộc hạng trung bình.
Điều thứ 822 – Nợ phải trả tại nơi đã chỉ định trong khế ước. Nếu là đồ vật thực thể, phải giao đồ vật ấy lưu trữ khi lập ước, trừ phi khế ước có định khác. Ngoài hai trừơng hợp trên, trái hộ được trả nợ ở ngay cư sở của mình.
Điều thứ 823 – Phí tổn về việc trả nợ do trái hộ phải chịu.

T I Ế T I
Sự trả nợ kế vị
Điều thứ 824 – Sự trả nợ kế vị là trả nợ do một ngừơi đệ tam với hậu quả đặt người trả nợ vào địa vị chủ nợ cũ, thế quyền người này.
Điều thứ 825 – Sự trả nợ kế vị giải nhiệm con nợ đối với chủ nợ trước, nhưng trái quyền với tất cả bảo đảm và hậu quả của trái quyền ấy, được di chuyển sang người đã đứng ra trả nợ.
Điều thứ 826 – Sự kế vị có thể do luật định hay do các đương sự thỏa thuận.
Điều thứ 827 – Sự kế vị ước định có thể thực hiện bằng cách:
1) Chủ nợ, khi nhận tiền của ngừơi đệ tam, xác nhận cho ngừơi đệ tam được thay thế mình trong mọi quyền lợi, tố quyền và mọi bảo đảm đối với trái hộ; sự kế vị này phải minh thị và thực hiện cùng lúc nhận tiền ngay trong hiện tại;
2) Trái hộ có thể vay tiền của một người khác để trả nợ và đem người này thay thế cho chủ nợ cũ; muốn cho sự kế vị có hiệu lực, văn tự vay tiền và biên lai nhận tiền phải làm theo thể thức cùng chứng thư; văn tự phải nói rõ là tiền vay để trả nợ trước và biên lai phải ghi rõ là nợ cũ đã trả bằng tiền vay của chủ nợ mới.
Sự kế vị này không cần phải được chủ nợ cũ ưng thuận.
Điều thứ 828 – Được đương nhiên kế vị:
1) Ngừời chủ nợ đã trả một chủ nợ khác có quyền ưu tiên được lấy nợ trước mình;
2) Ngừơi chủ nợ mới đem giá mua một bất động sản trả cho chủ nợ có quyền để đương trên bất động sản ấy;
3) Ngứời đồng nợ liên đới hay người bảo đảm, đã trả toàn số món nợ.
Điều thứ 829 – Ngừơi trái chủ cũ chỉ mới được trả một phần món nợ, sẽ được ưu tiên trả số còn lại.
T I Ế T III
Về sự ấn định nào được trả
Điều thứ 830 – Người mắc nhiều nợ lúc trả, có quyền định đoạt trả vào món nợ nào.
Điều thứ 831 – Tuy nhiên, trừ phi chỗ nợ ưng thuận không được khấu chiết vào một món nợ chưa đáo hạn nếu kỳ hạn có lợi cho chủ nợ; cũng không được khấu chiết vào tiền vốn trước tiền lợi và phí tổn; cũng không được khấu chiết vào nhiều món nợ khác nhau mỗi món một ít.
Điều thứ 832 – Nếu trái hộ đã nhận biên lai trong đó số tiền trả đã được chủ nợ khấu chiết riêng vào một món nợ nào rồi thì không còn được đòi khấu chiết vào một món nợ nào khác, trừ phi đã có sự lừa lọc do ngừơi chủ nợ.
Điều thứ 833 – Nếu biên lai không ghi chú gì về sự khấu chiết, số tiền trả sẽ khấu chiết vào một món nợ nào mà trái hộ co lợi trả trước trong các món nợ cùng đáo hạn; nếu chỉ có một món nợ đáo hạn, sẽ khấu chiết vào món nợ này trước.
Nếu các món nợ cùng điều kiện giống nhau, sẽ khấu chiết vào món nợ cũ nhất; nếu tất cả cùng thâm niên, sẽ khấu chiết theo tỷ lệ.

T I Ế T IV
Nói về sự đề cung và ký thác
Điều thứ 834 – Nếu chủ nợ từ chối không nhận, trái hộ có thể đề cung hiện vật và, trước sự khứơc từ của chủ nợ, đem ký thác số tiền hay đồ vật đã đề cung.
Điều thứ 835 – Sự đề cung có ký thác hợp lệ giải trách cho trái hộ được coi như là đã trả nợ, và nếu có sự tổn thất xẩy đến cho đồ vật đã ký thác, chủ nợ phải chịu.
Điều thứ 836 - Sự ký thác hữu hiệu không cần phải thẩm phán cho phép, chỉ cần:
1) Trước khi ký thác, tống đạt cho chủ nợ biết ngày giờ và nơi tiền hay vật sẽ được ký thác và đốc thúc chủ nợ đến dự kiến;
2) Tiền, vật phải được ký thác thật sự ở một cơ quan đã được luật lệ chỉ định hay tại tay người nào được thẩm phán chỉ định, cùng với tiền lời tính đến ngày ký thác;
3) Phải lập biên bản do công lại hữu quyền ghi nhận những việc gì đã được đề cung, ghi nhận sự khước từ của chủ nợ hiện diện, hoặc ghi nhận sự khiếm diện của chủ nợ và, sau hết, ghi nhận sự ký thác;
4) Sau đó, nếu chủ nợ khiếm diện, phải tống đạt cho ngừơi này biết việc ký thác và đốc thúc lấy ra tiền hay vật đã ký thác.
Nếu sự đề cung và ký thác hợp lệ, chủ nợ sẽ phải chịu các khoản phí tổn.
Điều thứ 837 – Chủ nợ chưa chấp nhận sự ký thác thì trái hộ vẫn có quyền lấy lại đồ vật đã ký thác, và nếu trái hộ lấy lại như vậy, các ngừơi đồng nợ và bảo lãnh vẫn bị nghĩa vụ ràng buộc như trước.
Điều thứ 838 – Nếu đã có án văn nhất định tuyên phán sự đề cung và ký thác hữu hiệu, trái hộ không thể lấy lại tài vật đã ký thác làm thiệt hại cho các đồng trái hộ và các ngừơi bảo lãnh mặc dầu có sự ưng thuận của trái chủ.
Nếu đã có án văn nhất định tuyên phán ký thác hữu hiệu mà trái chủ lại ưng thuận cho trái hộ lấy lại tài vật đã ký thác thì trái chủ, trong việc đòi nợ, không thể hành sử các quyền để đương và đặc quyền bảo đảm cho trái quyền.
Điều thứ 839 – Nếu đối tượng của món nợ là một đồ vật thực thể phải giao cho chủ nợ ở ngay nơi đồ vật ấy lưu trữ, trái hộ phải đốc thúc chủ nợ lấy đi. Nếu sau khi bị đốc thúc, chủ nợ không lấy đồ đi, trái hộ có thể xin một mệnh lệnh chiếu đơn của chánh án sở tại để ký thác đồ vật tại nơi khác, nếu có lý do chính đáng.
Kể từ ngày đốc thúc, mọi sự tổn thất xẩy đế cho đồ vật, chủ nợ phải chịu. Trái hộ được coi như là đã trả nợ, kể từ ngày đồ vật được đem ký thác hợp lệ.


T I Ế T IV
Nói về sự di nhượng tài sản
Điều thứ 840 – Di nhượng tài sản là bỏ mặc tất cả tài sản cho chủ nợ để trả nợ khi trái hộ ở tình trạng vô lực trả nợ.
Điều thứ 841 – Sự di nhượng tài sản có thể là di nhượng ước định do trái chủ và trái hộ thỏa thuận, hoặc là sự di nhượng tư pháp do tòa án cho phép.
Điều thứ 842 – Sự di nhượng ước định chỉ phát sinh những hậu quả như hai bên đã dự liệu trong khế ứơc di nhựơng.
Điều thứ 843 – Sự di nhượng tư pháp là một đặc ân do tòa án ban cấp chiếu theo tình trạng khốn cùng và sự ngay tình của trái hộ. Đặc ân ấy có thể trái với sự kết ước của đối bên và trái chủ không thể từ chối phán quyết di nhượng.
Điều thứ 844 – Những tài sản di nhượng tư pháp không thành vật sở hữu của chủ nợ; những người này chỉ được quyền phát mại để lấy nợ, và cho đến khi phát mại, được hưởng hoa lợi những tài sản ấy.
Điều thứ 845 – Sự di nhượng tư pháp chỉ giải trách cho trái hộ đến mức giá tiền các tài sản đã giao cho các chủ nợ; nếu những tài sản ấy không đủ trả nợ và nếu sau này trái hộ có tài sản khác thì cũng phải di nhượng để trả đủ nợ cho các trái chủ.

CHƯƠNG THƯ II
Nói về sự miễn nợ
Điều thứ 846 – Khi chủ nợ đã tự ý giao cho trái hộ bản đại tự công chứng thư xác nhận món nợ, thì sự kiện y là chứng cờ món nợ đã được trả rồi hay là miễn trả, trừ phi có bằng cớ trái lại.
Khi chủ nợ đã tự ý giao cho trái hộ bản chính tư chứng thư, sự kiện ấy cũng là bằng chứng sự đã trả rồi như trên.
Điều thứ 847 – Nếu là nợ liên đới thì việc giao cho một trái hộ văn tự nợ như trên cũng có hậu quả như vậy đối với tất cả các trái hộ.
Điều thứ 848 – Nếu một trái hộ liên đới được chủ nợ ưng thuận cho miễn nợ thì tất cả các trái hộ cũng được miễn. trừ phi chủ nợ đã minh thị dành quyền đới với những ngừơi này. Trong trừơng hợp ấy, chủ nợ chỉ còn đòi được phần nợ còn lại, sau khi trừ kỷ phần của trái hộ đã được miễn.
Điều thứ 849 – Nếu món nợ được bảo đảm bằng một đồ vật cầm thế, sự giao trả đồ vật này không đủ để suy đoán là món nợ đã được miễn.
Điều thứ 850 – Trái hộ chính đã được chủ nợ ưng thuận cho miễn nợ, thì các người bảo lãnh cũng được miễn.
Nếu chỉ người bảo lãnh được miễn nợ, trái hộ chính vẫn có nghĩa vụ phải trả nợ.
Nếu có nhiều người bảo lãnh mà một ngừơi được miễn, những người kia vẫn phải bảo lãnh.
Điều thứ 851 – Tài vật do một người bảo lãnh trả để thi hành nghĩa vụ của mình phải được tính trừ vào món nợ để giảm trách cho trái hộ chính và những người bảo lãnh khác.

CHƯƠNG THỨ III
Nói về sự thế cải
Điều thứ 852 – Sự thế cải có thể được thực hiện theo ba cách:
1) Do sự thay thế nghĩa vụ cũ bằng một nghĩa vụ mới, theo sự thỏa thuận của trái chủ và trái hộ, làm cho nghĩa vụ cũ bị tiêu trừ;
2) Do sự thay thế trái hộ cũ bằng một trái hộ khác làm cho người trước được giải trách;
3) Do sự thay thế trái chủ cũ bằng một trái chủ khác làm cho trái hộ được giải trách đối với trái chủ cũ.
Điều thứ 853 – Sự thế cải chỉ có thể thực hiện giữa những người đủ năng cách lập ước.
Điều thứ 854 – Sự thế cải không được suy đoán; phải có ý định rõ ràng của các đương sự.
Điều thứ 855 – Sự thế cải bằng cách thay đổi trái hộ không cần phải có sự tham dự của trái hộ cũ.
Điều thứ 856 – Nếu trái chủ tỏ ý rõ ràng miễn trách cho trái hộ cũ, thì sự thế cải mới thành tựu, nếu không tỏ ý rõ ràng thì cả hai người, trái hộ cũ và trái hộ mới, đều có trách nhiệm liên đới về món nợ.
Điều thứ 857 – Một khi đã giải trách cho trái hộ cũ, trái chủ không còn khiếu tố được người này, mặc dầu trái hộ mới vô tư lực, trừ phi lúc thế cải đã giao ước trái lại, hoặc trái hộ mới đã bị tuyên bố phá sản hay vỡ nợ dân sự mà trái chủ không biết.
Điều thứ 858 – Việc người trái hộ riêng mình chỉ định một người khác để trả nợ thay cho mình, không đem lại sự thế cải nghĩa vụ.
Việc người trái chủ chỉ định đơn giản một người khác để nhận nợ thay cho mình không đem lại sự thế cải nghĩa vụ.
Điều thứ 859 – Trong sự thế cải vi thay đổi nghĩa vụ những quyền để đương và đặc quyền thuộc về món nợ cũ không được chuyển sang món nợ mới, trừ phi chủ nợ đã minh thị bảo lưu những đặc quyền và để đương ấy.
Điều thứ 860 – Trong sự thế cải nghĩa vụ vì thay đổi trái hộ, những đặc quyền và để đương món nợ cũ không thể được chuyển sang để thi hành trên tài sản của trái hộ mới.
Điều thứ 861 – Nếu sự thế cải đã thực hiện giữa chủ nợ và một trái hộ liên đới, những để đuơng và đặc quyền của món nợ cũ chỉ được dành lại riêng trên tài sản của người trái hộ mới.
Điều thứ 862 – Do sự thế cải giữa chủ nợ và một trái hộ liên đới, những trái hộ liên đới khác được giải trách.
Sự thế cải vì thay đổi trái hộ chính giải trách cho các người bảo lãnh.

CHƯƠNG THỨ IV
Nói về sự bù trừ công nợ
Điều thứ 863 – Khi hai ngừơi cùng mắc nợ lẫn nhau, hai trái quyền sẽ được bù trừ để cùng tiêu diệt theo cách thức và trong những trường hợp dưới đây.
Điều thứ 864 – Sự bù trừ sẽ đương nhiên, do hiệu lực của pháp luật, hai món nợ cùng hiện hữu song hành sẽ tiêu diệt lẫn nhau, để chỉ còn lại số sai biệt giữa hai món nợ ấy.
Điều thứ 865 – Sự bù trừ chỉ được thực hiện giũa hai món nợ cùng là nợ tiền bạc, hay nợ đồ vật khả thế cùng loại và đều thanh xác và khả sách.
Những phẩm vật có định giá ở công thì cũng bù trừ được với nợ tiền bạc.
Điều thứ 866 – Thời hạn ân huệ để trả nợ không ngăn cản được sự bù trừ.
Điều thứ 867 – Dù phát sinh do nguyên nhân nào, công nợ cũng bù trừ lẫn nhau được, trừ trường hợp:
1) Một trong hai món nợ là đồ vật mà sở hữu chủ bị tước đọat một cách bất công đang đòi lại;
2) Một trong hai món nợ là đồ vật được ký thác hay cho mượn để dùng và đòi hoàn lại;
3) Một trong hai món nợ là nợ cấp dưỡng bất khả sai áp.
Điều thứ 868 – Người bảo lãnh có quyền viện dẫn sự bù trừ mà trái hộ chính có thể kháng nại với chủ nợ.
Những trái hộ chính không được viện dẫn sự bù trừ mà người bảo lãnh có thể kháng nại với chủ nợ.
Trái hộ liên đới cũng không được viện dẫn sự bù trừ mà một trái hộ liên đới khác có thể kháng nại với chủ nợ.
Điều thứ 869 – Người trái hộ đã thuận nhận với điều kiện sư di nhượng trái quyền của chủ nợ cho một người đệ tam hkông còn được viện dẫn chống với người sau sự bù trừ trước kia có thể đem đối kháng với chủ nợ cũ.
Nếu sụ di nhượng không do trái hộ thuận nhận, mà chỉ được tống đạt cho người này, thì riêng những trái quyền phát sinh sau sự tống đạt không được bù trừ vào món nợ.
Điều thứ 870 – Nếu hai món nợ không phải trả cùng một nơi, muốn bù trừ phải tính tiền chuyển gửi.
Điều thứ 871 – Sự bù trừ không xâm phạm đến quyền lợi thù đắc của ngừơi đệ tam. Vậy nên khi người trái hộ, sau khi nhận được tống đạt sai áp chế chỉ do ngừơi đệ tam, dầu có thành chủ nợ của ngừơi bị sai áp, cũng không bù trừ được nợ của ngừơi này để khỏi phải trả cho ngừơi đã sai áp.
Điều thứ 872 – Ngừơi nào trả một món nợ đáng lẽ đã bị tiêu diệt do sự bù trừ đương nhiên, sẽ không viện dẫn được những quyền để đương và đặc quyền thuộc vào trái quyền của mình, nếu sự viện dẫn phương hại đến quyền lợi của người đệ tam trừ phi có lý do chính đáng không biết mình có trái quyền ấy.


CHƯƠNG THỨ V
Nói về sự hỗn nhập
Điều thứ 873 – Sự hỗn nhập là tình trạng của hai tư cách trái chủ và trái hộ cùng tụ họp ở một người. Tình trạng ấy đương nhiên tiêu trừ trái quyền.
Điều thứ 874 – Sự hỗn nhập hai tư cách ở người trái hộ chính làm cho người bảo lãnh được giải trách.
Sự hỗn nhập ở người bảo lãnh không tiêu trừ nghĩa vụ của trái hộ chính.
Sự hỗn nhập ở người chủ nợ chỉ lợi cho những trái hộ liên đới đến mức độ kỷ phần mà ngừơi ấy thiếu trứơc khi có sự hỗn nhập.


CHƯƠNG THỨ VI
Sự tiêu thất sở vật phải trả
Điều thứ 875 – Nếu đối tượng của nghĩa vụ là một vật đích xác và nếu vật ấy bị tiêu thất, bị cấm mãi thương, không vì lỗi của trái hộ và từ trước khi ngừời này bị đốc thúc, thì nghĩa vụ được tiêu trừ.
Nếu trái hộ, dầu có bị đốc thúc, đã không cam kết chịu trách nhiệm về những trường hợp ngẫu nhiên hay bất khả kháng, thì sự tiêu thất cũng làm tiêu trừ nghĩa vụ, với điều kiện sở vật dù có giao cho chủ nợ rồi, cũng sẽ không tránh được sự tiêu thất.
Điều thứ 876 – Trường hợp ngẫu nhiên hay bất khả kháng do trái hộ nại dẫn phải được người ấy chứng minh.
Điều thứ 877 – Nếu có ngừơi đệ tam có trách nhiệm trong sự tiêu thất, chủ nợ có thể đòi ngừơi ấy bồi thường.

CHƯƠNG THỨ VII
Nói về tố quyền bãi tiêu khế ước
Điều thứ 878 – Tố quyền bãi tiêu khế ước của những ngừơi vô năng cách hay của những ngừơi mà sự ưng thuận bị hà tỳ có thể sử hành trong thời hạn năm năm, trừ những trường hợp luật định khác.
Nếu nguyên nhân tiêu hủy là sự bạo hành, thời hạn này chỉ khởi đầu từ ngày sự bạo hành chấm dứt, nếu là sự gian trá hay lầm lẫn, thời hạn bắt đầu từ ngày những nguyên nhân ấy được khám phá.
Đối với những hành vi của ngừơi bị cấm quyền, thời hạn bắt đầu từ ngày sự cấm quyền được bãi bỏ, đối với những hành vi của vị thành niên, từ ngày vị thành niên trưởng thành.
Điều thứ 879 – Trong khế ước, dẫu đã tự nhận là trửơng thành, vị thành niên vẫn được hưởng tố quyền bãi tiêu, trừ phi đã dùng những thủ đoạn gian dối làm cho ngừơi cộng ước lầm tưởng là mình trửơng thành.
Điều khoản này cũng áp dụng cho những ngừơi vô năng cách khác.
Điều thứ 880 – Sự thiệt thòi là nguyên nhân triệt tiêu đối với mọi khế ước của vị thành niên, ngoại trừ trường hợp thiệt thòi vì một biến cố ngẫu nhiên.
Điều thứ 881 – Các vị thành niên thoát quyền và hành nghề thương mãi hay kỹ nghệ thì được kể như đã trửơng thành đối với những hành vi liên hệ đến nghề nghiệp.
Tuy nhiên về việc bán bất động sản các vị thành niên thoát quyền phải tuân theo luật lệ chi phối các vị thành niên ấy.
Điều thứ 882 – Người trưởng thành được bãi tiêu khế ước vì một hà tỳ của sự ưng thuận phải hòan lại tất cả những gì thu nhận được do khế ước ấy.
Vị thành niên chỉ hoàn lại những tài sản lợi lộc gì còn giữ được.
Điều thứ 883 – Tố quyền bãi tiêu sẽ không sử hành được nữa,, nếu đương nhân trưởng thành hay trở nên trưởng thành đã xác nhận mặc nhiên hay minh thị hành vi có thể bị tiêu hủy.
Sự xác nhận minh thị phải do một văn thư quy chiếu rõ ràng nguyên nhân tiêu hủy và khước từ tố quyền bãi tiêu.
Nếu hành vi có nhiều nguyên nhân tiêu hủy, chỉ nguyên nhân nào đã được quy chiếu như trên, là không tồn tại.
Sự xác nhận mặc nhiên có thể suy định theo sự tự ý thi hành khế ước, hoặc sự thi hành cưỡng bách nếu đương nhân không phản kháng và cũng không dành quyền.
Cũng có thể suy định theo sự thế cải hay sự tuyển định cho nghĩa vụ một bảo đảm đối nhân hay đối vật.
Điều thứ 884 – Những hành vi tuyệt đối vô hiệu không thể được xác nhận.

THIÊN THỨ IV
Nói về sự xuất dẫn bằng chứng
Điều thứ 885 – Ngừơi nào nại ra trước tòa một sự kiện có lợi cho mình phải dẫn chứng.
Đối tung muốn viện ra một sự kiện có hiệu lực tiêu hủy hậu quả của sự kiện trước có gánh nặng dẫn chứng về phần mình.
Điều thứ 886 – Những quy tắc thuộc về bằng chứng văn tự, nhân chứng, khẩu cung, bằng chứng suy đoán, sự thú nhận và lời phát thệ, sẽ được dẫn giải sau đây.

CHƯƠNG THỨ NHẤT
Bằng chứng văn tự

T I Ế T I
Nói về công chính chứng thư
Điều thứ 887 – Công chính chứng thư hay công chứng thư là văn tự do một công lại tá tả với những nghi thức luật định ở quản hạt công lại ấy có thẩm quyền.
Điều thứ 888 – Hình thức và hiệu lực chứng thư chưởng khế vẫn theo những điều lệ của dụ số 30 ngày 13-11-1954.
Điều thứ 889 – Chứng thư thị thực cũng có giá trị một công chính chứng thư.
Điều thứ 890 – Chứng thư thị thực là chứng thư được hai bên ký kết sau khi đã nghe viên chức có thẩm quyền đọc lại rõ ràng nội dung của chứng thư ấy.
Trong chứng thư, viên chức phải thị thực rằng:
1) Các đương sự đã có mặt;
2) Viên chức đã kiểm nhận căn cước của đương sự
3) Đương sự đã được đọc cho nghe chứng thư và xác nhận là đúng với những điều cam kết của họ.
Nếu đương sự không biết đọc, không biết viết thì phải có sự chứng kiến của một nhân chứng đã trửơng thành, biết đọc và biết viết,. được đương sự không biết chữ chấp thuận.
4) Đương sự đã ký tên hay in tay trước mặt viên chức;
5) Sau đó viên chức ghi ngày tháng rồi ký tên và đóng dấu.
Điều thứ 891 – Trong mỗi làng xã, viên chức có thẩm quyền thị thực là chức dịch hành chính đầu xã.
Nếu chức dịch này là đương sự trong chứng thư, sự thị thực sẽ do chức dịch hành chính cấp trên.
Điều thứ 892 – Chức dịch thị thực phải là chức dịch nơi cư sở hay nơi trú ngụ của một bên đương sự. Nếu chứng thư liên hệ đến bất động sản thì phải do chức dịch ở nơi bất động sản ấy tọa lạc thị thực, trong trường hợp này chức dịch phải xác nhận quyền sở hữu của đương sự sử dụng bất động sản ấy, sau khi đã tra cứu sổ bộ điền thổ.
Chứng thư liên hệ đến nhiều bất động sản ở nhiều nơi khác nhau phải được chức dịch ở mỗi nơi ấy thị thực.
Điều thứ 893 – Xã trưởng chỉ có thẩm quyền trong địa hạt xã.
Điều thứ 894 – Chứng thư đem trình thị thực có thể do đương sự tự viết lấy, hoặc nhờ một ngừơi đệ tam viết. Các đương sự sẽ ký hoặc in tay trước mặt chức dịch có thẩm quyền theo những điều 890 và kế tiếp. Chức dịch sẽ thị thực như sau:
“Năm... tháng... ngày... chúng tôi... xã trưởng... chứng thực rằng các người có tên dưới đây ... đã ký trước mặt tôi sau khi đã nghe đọc lại văn tự này và nhận là đúng với những điều cam kết.”
Điều thứ 895 – Nếu là văn tự đoạn mại hay cầm cố bất động sản, xã trưởng sẽ thị thực thêm rằng: “Bất động sản ghi trong văn tự đúng là thuộc quyền sở hữu của người bán hay người cầm cố.”
Điều thứ 896 – Tại những đô thị, sự thị thực được đảm nhiệm bởi viên chức đứng đầu đơn vị hành chính sở tại.
Điều thứ 897 – Chứng thư thị thực phải ghi chú vào một quyển sổ riêng do đô trưởng, tỉnh trưởng phát mỗi năm có đánh số thứ tự và mang chữ ký của viên chức ấy trên mỗi tờ, sẽ phải ghi vào sổ:
1) Ngày tháng của chứng thư,
2) Tên họ và chỗ ở của đương sự,
3) Nội dung tóm tắt của chứng thư,
4) Chứng thư đã được làm thành mấy bản.
Số thứ tự của số ghi chú phải được biên vào mỗi bản của chứng thư được thị thực.
Điều thứ 898 – Có bao nhiêu đương sự quyền lợi khác nhau, chứng thư thị thực sẽ phải làm thành bấy nhiêu bản.
Tuy nhiên, thể thức này, nếu không được tôn trọng cũng không làm cho chứng thư vô hiệu.
Điều thứ 899 – Công chính chứng thư và chứng thư thị thực có tín lực cho đến lúc bi đăng cáo giả mạo, về tất cả những sự kiện cung khai, do chính công lại, chức dịch đã xác nhận trong chứng thư áy.
Năm tháng ngày của chứng thư cũng có tín lực như vậy.
Điều thứ 900 – Thủ tục đăng cáo giả mạo do luật dân sự tố tụng và hình sự tố tụng quy định.
Điều thứ 901 – Chứng thư công chính, nếu vô giá trị công lại vô thẩm quyền hay vô năng cách, hoặc không được làm đúng thể thức sẽ được coi như tư thư chứng thư, nếu có đủ chữ ký của các đương sự.
Điều thứ 902 – Công lại thị thực phải chịu trách nhiệm, nếu chứng nhận sai lầm về căn cước của các đương sự, về ngày tháng thị thực, và nếu chứng nhận không đíung với sổ bộ về quyền sở hữu bất động sản đem sử dụng.

T I Ế T II
Nói về tư thư chứng thư
Điều thứ 903 – Tư thư chứng thư hay tư chứng thư là chứng thư do đương sự tự làm lấy và ký tên, không có sự can thiệp của công lại.
Điều thứ 904 – Tư chứng thư phải có chữ ký của đương sự mới thành chứng cớ đối kháng được với họ.
Tư chứng thư có thể in, đánh máy hay do đương sự viết lấy, hay nhờ một người khác viết, trong trừơng hợp này, ngừơi viết phải ghi tên họ, địa chỉ và ký tên vào chứng thư.
Điều thứ 905 – Tư chứng thư, một khi đã được đối phương công nhận hoặc đã coi là được công nhận chiếu theo luật định, có tín lực cũng như công chính thư giữa những ngừơi đã ký kết, những thừa kế và những người thừa quyền.
Điều thứ 906 – Người nào bị người khác đem một chứng thư đem đối nại phải công nhận hay phủ nhận bút tự hay chữ ký của mình.
Các thừa kế hay kẻ thụ quyền chỉ cần khai nại là không biết bút tự hay chữ ký của người tiên chủ.
Điều thứ 907 – Gặp trường hợp bút tự hay chữ ký bị đương sự phủ nhận, hay bị các thừa kế hay kẻ thụ quyền khai nại là không biết có phải của người tiên chủ hay không, tòa án sẽ truyền so tự dạng.
Nếu văn tự chỉ có dấu in tay sẽ giảo nghiệm dấu in tay của đương sự để so sánh với dấu in tay trong văn tự. Nếu đương sự đã chết mà không có dấu in tay để lại, tòa án sẽ tùy nghi thẩm lượng về giá trị của văn tự.

Điều thứ 908 – Tư chứng thư nào thành tạo nghĩa vụ hỗ tương phải làm nhiều bản chính để mỗi đương sự có quyền lợi biệt lập giữ một bản, mỗi bản sẽ phải ghi rõ số bản đã làm ra.
Điều thứ 909 – Tuy nhiên, nếu chứng thư không được làm thành nhiều bản như trên, sự cam kết cũng không vì thế mà vô hiệu. Đương sự nào không có chứng thư, có quyền căn cứ vào chứng thư do đối phương xuất trình để đòi thi hành những điều khỏan có lợi cho mình, và cũng có thể xin ký thác chứng thư tại phòng chửơng khế.
Điều thứ 910 – Về chứng thư biên nhận hay vay tiền bạc, nếu một số tiền thuộc về một nghĩa vụ được ghi bằng hai số khác nhau, sẽ lấy số tiền nhỏ nhất làm thực; nhưng vẫn có thể chứng minh trái lại.
Điều thứ 911 – Đối với ngừơi đệ tam, tư chứng thư chỉ có nhật ký xác thực kể từ ngày đã được trước bạ hay từ ngày mệnh một của một trong những người đã làm chứng thư, hay từ ngày nội dung chứng thư đã được ghi chép vào một công chứng thư hoặc một tư chứng thứ có nhật ký xác thực.
Điều thứ 912 – Sổ sách của một thương gia không được coi là bằng chứng về những hàng hóa được ghi trong sổ sách ấy là đã cung cấp cho người không phải là thương gia, trừ phi người này thuận nhận những ghi chú ấy.
Điều thứ 913 – Sổ sách của thương gia không được coi là bằng chứng chồng lại họ. Nhưng người nào đã muốn viện dẫn sổ sách của thương gia không thể phân tách những ghi chú trong sổ sách để chỉ nại ra những điều có lợi cho mình.
Giữa thương gia với nhau, những sổ sách ghi chép hợp lệ có thể được chấp nhận là bằng chúng về những hành vi thương mại.
Điều thứ 914 – Những sổ sách, giấy tờ làm trong gia đình không có giá trì là bằng chứng cho người đã làm ra sổ sách giấy tờ ấy, nhưng có thể là bằng chứng chống lại người này tùy theo sự thẩm lượng của tòa án.
Điều thứ 915 - Nếu trong văn tự do người chủ nợ giữ có ghi là đã trả nợ rồi, sự ghi chú phải tin là đúng thực mặc dầu chủ nợ không ký và không đề ngày tháng.
Nếu chủ nợ đã ghi vào bản thứ hai văn tự hay bản thứ hai tờ biên lai rằng nợ đã trả rồi, sự ghi chú này cũng có giá trị như trên, miễn là bản thứ hai này do người thiếu nợ giữ.
Điều thứ 916 – Trong các chùa chiền, bia, biển, chuông khánh là bằng chứng về những việc tặng dữ, cung tiến đã ghi vào đấy và về nghĩa vụ của người được thụ hửơng, trừ phi có bằng chứng trái lại.


CHƯƠNG THỨ II
Nhân chứng
Điều thứ 917 – Nhân chứng là bằng chứng căn cứ vào lời khai của người đã được biết về những sự việc mà đương sự muốn chứng tỏ.
Điều thứ 918 – Nhân chứng được dùng về bất cứ việc gì, trừ khi luật định khác thì không thể.
Tuy nhiên, khi đã có văn tự làm bằng thì nhân chứng không thể được chấp nhận để chứng tỏ việc gì trái với văn tự hay ngoài giới hạn văn tự, hay việc gì đã làm trước khi, trong khi hay sau khi làm văn tự, khả dĩ thay đổi nôi dung của văn tự.
Dẫu sao có thể chứng minh bằng nhân chứng sự giả tạo, sự nhầm lẫn, sự lừa lọc, sự gian dối hay sự bạo hành đã làm cho văn tự được ký kết.
Điều thứ 919 – Tòa án không bó buộc phải chấp nhận cho viện dẫn nhân chứng làm bằng.
Tuy nhiên, thẩm phán không thể căn cứ vào sự hiểu biết riêng của mình về những sự kiện thuộc việc tranh tụng để cho là khỏi phải truyền cho điều tra về những sự kiện ấy.
Điều thứ 920 – Sự điều tra như trên phải làm theo thể thức đã định trong luật tố tụng dân sự.
Điều thứ 921 – Không cần đương sự phải thỉnh cầu, tòa án có quyền tự ý truyền điều tra, nếu xét sự điều tra cần thiết cho việc xét đoán.
Điều thứ 922 – Tòa án có toàn quyền thẩm lượng lời khai của nhân chứng; trong sự thẩm lượng này, tòa án sẽ chú trọng đến tính chất của các sự kiện được cung khai, xem nhân chứng có thể biết rõ những sự kiện ấy không, - chú trong trừơng hợp đã làm cho nhân chứng được biết về sự kiện mà nhân chứng cung khai, chẳng hạn nhân chứng đã tai nghe mắt thấy mà biết hay chỉ được người khác thuật lại cho biết.
Điều thứ 923 – Tòa án không bao giờ bị bó buộc bởi lời khai của những nhân chứng dẫu rằng những lời khai ấy phù hợp.
Mặc dầu đã có bằng chứng khẩu cung được xuất dẫn, tòa án vẫn có quyền dùng đến một phương pháp dẫn chứng khác làm tài liệu xét xử.

CHƯƠNG THỨ III
Nói về sự suy đoán
Điều thứ 924 – Sự suy đoán là hậu quả của lý luận căn cứ vào một sự việc đã biết rồi để đóan ra một việc chưa biết.
Điều thứ 925 – Có hai loại suy đóan: suy đoán pháp định và suy đoán thực tế.
Điều thứ 926 – Suy đoán pháp định là sự suy đóan do một điều luật đặc biệt đặt ra cho những hành vi hay sự kiện nào đó.
Thuộc vào loại suy đoán này:
1) Những hành vi mà luật pháp coi là vô hiệu vì suy đoán là đã được làm ra để gian lận luật pháp;
2) Tín lực mà luật pháp công nhận cho án văn quyết tụng;
3) Tín lực mà luật pháp công nhận cho lời thú nhận và lời thề;
4) Sự thủ tiêu và sự thủ đắc thời hiệu.
Điều thứ 927 – Án văn chung quyết được coi là đúng với sự thật, không thể còn được tranh nại.
Tuy nhiên, về những án văn chưa thành nhất định có thể không nại theo thể thức và trong thời hạn do luật tố tụng dân sự đã định.
Điều thứ 928 – Khi một án văn đã thành nhất định nếu sự tranh chấp do án văn ấy đã giải quyết lại được nêu ra trước tòa lần nữa do một đơn khởi tố hay do sự kháng biện của một bên đương sự, tòa phải tự ý viện uy lực quyết tụng của bản án trước mà gạt bỏ sự tranh chấp.
Điều thứ 929 – Uy lực quyết tụng chỉ có thể viện dẫn để kháng lại một đơn kiện mới nếu giữa việc kiện mới và đã xử rồi có những sự việc sau này:
1) Hai việc phải cùng một đối tượng;
2) Hai việc phải căn cứ vào cùng một nguyên nhân;
3) Việc sau phải có cùng những nguyên nhân của việc trước; trong hai việc những đương nhân ấy hoặc đại diện của họ phải đã khởi kiện hay theo kiện với cùng một tư cách.
Điều thứ 930 – Uy lực quyết tụng không những được viện dẫn về phần chủ bản văn án mà có thể viện dẫn được cả về những lý lẽ nào quan trọng chính yếu cho phần chủ văn ấy.
Điều thứ 931 – Người nào được ở trong trường hợp được viện dẫn một suy đoán pháp định không cần phải viện dẫn bằng chứng gì khác.
Điều thứ 932 – Suy đoán thực tế là suy đóan không do một điều luật đặc biệt đặt ra, nhưng được luật pháp để cho thẩm phán tùy quyền thẩm lượng.
Điều thứ 933 – Thẩm phán phải thận trọng và để xét xử chỉ được căn cứ vào những suy đoán chính xác, hệ trọng và phù hợp.
Điều thứ 934 – Thẩm phán có toàn quyền thẩm lượng về tính cách chính xác, hệ trọng và phù hợp của những suy đóan thực tế.


CHƯƠNG THỨ IV
Nói về sự thú nhận
Điều thứ 935 – Sự thú nhận do một đương sự hay do ngừơi thụ ủy của đương sự ấy khai ra trước tòa là thú nhận nội tụng.
Sự thú nhận được khai ra do một cơ hội khác là thú nhận ngoại tụng.
Điều thứ 936 – Sự thú nhận do người thụ ủy chỉ có giá trị nếu ngừơi này đã được ủy quyền riêng biệt để thú nhận.
Điều thứ 937 – Sự thú nhận chỉ có giá trị nếu ngừơi thú nhận có năng cách để sử dụng quyền lợi tùy thuộc sự thú nhận.
Điều thứ 938 – Sự thú nhận nội tụng hợp lệ như trên một khi đã được đôi phương thuận nhận hay được tòa án ghi nhận có tín lực hòan toàn chống ngừơi thú nhận và sẽ không thể còn được ngừơi thú nhận thu hồi, trừ phi có sự lầm lẫn về sự kiện đã thú nhận.
Không được viện dẫn sự lầm lẫn về pháp lý để xin thu hồi về sự thú nhận
Điều thứ 939 – Sự thú nhận bất khả phân tách, nghĩa là phải được viện dẫn về toàn thể, không thể bỏ phần này lấy phần kia.
Điều thứ 940 – Sự thú nhận ngoại tụng chỉ có hiệu quả nếu là thú nhận miệng trước mắt đối phương và đã được đối phương chuẩn nhận; - hay trong giấy tờ, thư tín viết cho người này.
Điều thứ 941 – Những điều kiện đã nói trên về tư cách, về sự thu hồi về lầm lẫn, về sự bất khả phân tách cũng áp dụng cho sự thú nhận ngoại tụng.
Điều thứ 942 – Sự thú nhận ngoại tụng dù đã thu hồi cũng làm cho thời tiêu bị gián đoạn; nhưng về thời gian còn lại, thời tiêu lại bát đầu lưu thông kể từ ngày bắt đầu thú nhận.
Điều thứ 943 – Sự thú nhận ngoại tụng bằng lời nói không có hiệu quả gì về những nghĩa vụ mà bằng chứng khẩu cung không được luật pháp chấp nhận.


CHƯƠNG THỨ V
Nói về lời thề hay phát thệ
Điều thứ 944 – Có hai loại lời thề:
1) Lời thề của một đương sự do đối phương thách đố để làm yếu tố quyết định việc kiện: đó là lời thề quyết tụng;
2) Lời thề của một đương sự do tòa án tự ý cho thề để làm yếu tố thẩm xét: đó là lời thề bổ trợ.

T I Ế T I
Lời thề quyết tụng
Điều thứ 945 – Bất cứ vụ kiện nào cũng có thể lấy sự phát thệ quyết tụng làm yếu tố quyết định.
Điều thứ 946 – Sự phát thệ phải nhằm một hành vi của chính người phát thệ hay một hành vi mà ngừơi ấy biết rõ.
Điều thứ 947 – Bên nguyên cũng như bên bị có thể thách đối phương phát thệ trong bât cứ giai đoạn nào của thủ tục dẫu rằng không có bằng chứng gì về đơn thỉnh cầu hay về kháng biện dẫn nại.
Điều thứ 948 – Người bị thách thề có thể: hoặc nhận thề, hoặc thách bên kia đi thề; khi lời thách đã được thuận nhận thì hai bên bị ràng buộc một cách nhất định. Cho đến lúc ấy mỗi bên có quyền rút lại đề nghị của mình.
Tuy nhiên, mặc dầu hai bên đã thuận thề, tòa cũng có quyền không cho phát thệ nếu xét ra không cần ích hay không thích đáng.
Điều thứ 949 – Người bị thách thề mà từ chối lại không thách lại bên kia đi thề; ngừơi bị thách lại mà không nhận thề đều phải bị bác khước về đơn thỉnh cầu hoặc sự khước biện đã dẫn nại, trừ phi theo tình trạng hồ sơ tòa xét đã có tài liệu hay bằng chứng khác để quyết định.
Điều thứ 950 – Người bị thách thề không thể thách lại ngừơi đã thách mình, nếu sự kiện hay hành vi phải thề là một sự kiện hay hành vi chỉ riêng người bị thách trước biết.
Điều thứ 951 – Khi tòa đã tuyên án truyền cho phát thệ, ngừơi đã nhận thề mà không chịu thề sẽ thất kiện.
Điều thứ 952 – Khi một bên đương sự đã thề rồi, đối phương không thể còn nại được rằng ngừơi ấy đã thề gian.
Điều thứ 953 – Lời thề chỉ có giá trị bằng chứng, làm lợi riêng hay hại riêng cho người đã thách; hay lợi riêng hại riêng cho các thừa kế, các thụ quyền của người ấy.
Tuy nhiên, lời thề của một trái hộ do sự thách đố của một chủ nợ liên đới, chỉ giải phóng cho trái hộ riêng về phần trái quyền của người chủ nợ đã thách.
Lời thề của trái hộ chính làm lợi cho cả các người bảo lãnh.
Lời thề của một trái hộ liên đới về điểm món nợ còn hay hết, có lợi cho các các trái hộ liên đới khác.
Lời thề của người bảo đảm về điểm trên có lợi cả cho các trái hộ chính.


T I Ế T II
Lời tuyên thệ bổ trợ
Điều thứ 954 – Tòa có quyền tự ý bắt bên nguyên hay bên bi phải phát thệ nếu những bằng chứng xuất trình tuy không đầy đủ nhưng cũng có thể tin được phần nào.
Điều thứ 955 – Tòa đã truyền cho bên nào phải phát thệ thì bên ấy không được thách lại bên kia.
Điều thứ 956 – Đương sự từ chối không chịu thề, không vì thế mà đương nhiên thất kiện.
Tòa án không bó buộc phải quyết định theo lời thề.
Điều thứ 957 – Dẫu là tuyên thệ quyết tụng hay tuyên thệ bổ trợ, án văn phải ghi rõ văn thức của lời thề, và đương sự phải thề đúng như vậy.
Điều thứ 958 – Người tuyên thệ có quyền xin thề theo nghi thức tôn giáo của mình ở giáo đường hay đình chùa do tòa chỉ định.
Đối phương trong việc tranh tụng phải được gọi đến dự kiến, án văn phải cử một chức dịch hoặc ngừơi canh thủ giáo đường, đình chùa lập biên bản. Biên bản phải ghi chép những nghi lễ tôn giáo đã được thực hiện như thế nào và phải chép lại đúng lời thề do ngừơi tuyên thệ đã đọc.

THIÊN THỨ V
Nói riêng về vài thứ khế ước

CHƯƠNG THỨ NHẤT
Nói về sự sinh thời tặng dữ
Điều thứ 959 – Sự sinh thời tặng dữ là một khế ước do đó người chủ tặng đem một tài sản của mình cho dút khóat một người khác, là ngừơi thụ tặng cũng thuận nhận tài sản ấy.
Điều thứ 960 – Nếu có đủ năng cách để được hưởng tặng dữ chỉ cần đã thành thai khi tặng dữ, những đứa trẻ khi sinh ra phải còn sống, việc tặng dữ mới có hiệu lực.
Điều thứ 961 – Con ngoại hôn thừa nhận hợp pháp không được tặng dữ quá phần đã định trong điều 527 đọan 2. Chỉ có những ty thuộc trực hệ của ngừơi chủ tặng mới được viện dẫn điều luật này.
Điều thứ 962 – Con ngoại tình và con lọan luân không thể được tặng dữ gì ngoài sự cấp dưỡng.
Điều thứ 963 – Vị thành niên dưới 21 tuổi không được đem tài sản cho tặng, trừ phi cho tặng không khế ước hôn sản, với sự ưng thuận của những người đã cho phép thành hôn. Ngừơi bị cấm quyền cũng vậy.
Điều thứ 964 – Vị thành niên đã trưởng thành không được tặng dữ cho giám hộ trước khi công việc giám hộ đã được thanh tóan dứt khóat. Tuy nhiên, có thể tặng dữ cho ngừơi giám hộ nếu người này thuộc vào bậc tôn trưởng.
Điều thứ 965 – Sự tặng dữ có thể vì hảo tâm hay để báo đáp, thưởng công, hay để người thụ tặng thi hành một trách vụ gì đó.
Điều thứ 966 – Tặng dữ một món tiền hay động sản không cần phải theo thể thức gì cả: sự tặng dữ này thực hiện do sự trao tay tiền bạc hay đồ vật của ngừơi chủ tặng cho người thụ tặng.
Điều thứ 967 – Tặng dữ một bất động sản phải làm một công chứng thư, nếu không sự tặng dữ vô hiệu. Chứng thư phải đăng ký vào sổ điền địa.
Điều thứ 968 – Ngừơi thụ tặng một bất động sản sẽ thuận nhận việc tặng dữ ngay trong chứng thư tặng dự, hoặc bằng một chứng thư riêng biệt; trong trường hợp sau, sự thuận nhận phải được tống đạt cho người chủ tặng. Chứng thư thuận nhận phải làm theo hình thức công chứng thư. Người thụ tặng có thể bằng công chứng thư ủy quyền cho một người đệ tam thuận nhận thay mình.
Điều thứ 969 – Sự tặng dữ chỉ hoàn tất khi sự thuận nhận được tống đạt cho người chủ tặng.
Nếu trước khi ấy một trong hai người đã mệnh một, sự tặng dữ coi như không có.
Điều thứ 970 – Cho đến khi sự thuận nhận được tống đạt, người chủ tặng có thể thâu hồi việc tặng dữ bằng cách tống đạt giấy thâu hồi cho ngừơi thụ tặng. Giấy thâu hồi cũng phải là công chứng thư nếu tặng vật là bất động sản.
Điều thứ 971 – Người tặng dữ một bất động sản có thể dành quyền hưởng hoa lợi cho mình hay cho một người đệ tam; cũng có thể buộc người thụ tặng phải thi hành một vài trách vụ.
Các điều kiện không thể thi hành được hay trái luật hoặc trái phong hóa sẽ coi như không có. Nhưng các điều kiện ấy là nguyên nhân quyết định cho sự tặng dữ thì sự tặng dữ ấy vô hiệu.
Điều thứ 972 – Sự tặng dữ đã thuận nhận rồi có tính cách nhầt định, bất khả truất bãi. Tuy nhiên, người chủ tặng không có con cháu có thể dành quyền truất bãi việc tặng dữ; sự dành quyền phải minh thị ghi vào chứng thư tặng dữ.
Điều thứ 973 – Người chủ tặng có thể xin truất bãi việc tặng dữ nếu người thụ tặng không thi hành những trách vụ ghi trong khế ước tặng dữ.
Điều thứ 974 – Sự trúât bãi tặng dữ vì sinh con hay vì khiếm khuyết trách vụ đương nhiên tiêu hủy mọi sự chuyển dịch, mọi quyền đối vật do người thụ tặng đã ưng thuận cho người đệ tam.
Điều thứ 975 – Người chủ tặng cũng còn có thể xin truất bãi việc tặng dữ vì sự vô ơn của người thụ tặng.
Nhưng sự truất bãi này không được làm thiệt hại đến quyền lợi của ngừơi đệ tam đã thủ đắc hợp pháp ở người thụ tặng.
Điều thứ 976 – Người thụ tặng bị coi là vô ơn trong những trường hợp sau đây:
1) Nếu đã xâm phạm đến sinh mạng của ngừơi chủ tặng;
2) Nếu đã hành hạ, ngược đãi hay đã phạm vào một khinh tội đối với ngừơi chủ tặng, hay đã nhục mạ người này khi các hành vi ấy có tính cách hệ trọng;
3) Nếu không chịu cấp dưỡng cho ngừơi chủ tặng trong trường hợp người này thiếu sinh kế;
4) Nếu đã phạm một trong những hành vi có thể làm truất quyền hưởng di sản của một người con.
Điều thứ 977 – Đơn xin truất bãi việc tặng dữ trong mọi trường hợp phải nộp tại tòa án trong thời hạn một năm kể từ ngày hành vi vô ơn được ngừơi chủ tặng hay biết.
Điều thứ 978 – Người chủ tặng có thể dành quyền thu hồi sự tặng dữ trong trường hợp người thụ tặng chết trước hay hay trong trường hợp ngừơi thụ tặng và cả các ty thuộc đều chết trước người chủ tặng. Sự dành quyền này phải minh thị ghi vào chứng thư tặng dữ.
Điều thứ 979 – Sự thu hồi nói ở điều trên có hiệu lực một điều kiện tiêu trừ. Của tặng sẽ hòan nguyên về người chủ tặng, không phải chịu những công nợ và trách vụ mà ngừơi thụ tặng đã cam kết.

CHƯƠNG THỨ II
Nói về sự mãi mại
Điều thứ 980 – Khế ước mãi mại gồm những loại như sau:
1) Mua đứt, bán đút hay đoạn mại;
2) Mua đợ, bán đợ còn gọi là mua thục, bán thục hay điền mại hoặc mãi lai thục;
3) Di nhượng trái quyền;
4) Đấu giá phát mại.
T I Ế T I
Nói về đoạn mại

PHỤ TIẾT I
Tổng tắc
Điều thứ 981 – Đoạn mại là một khế ước do đó người bán di chuyển hay cam kết di chuyển quyền sở hữu về một vật hay một quyền lợi gì cho người mua với giá nhất định bằng tiền bạc mà người mua cam kết phải trả.
Điều thứ 982 – Việc đoạn mại được coi như hòan tất, và quyền sở hữu đương nhiên thủ đắc cho người mua trong sự tương quan đối với người bán, một khi hai bên đã thỏa thuận về vật bán và giá bán, dầu rằng vật bán chưa giao và giá tiền chưa trả.
Điều thứ 983 – Sự hứa hẹn đơn phương mua hay bán buộc người hứa phải lập khế ước theo giá cả và điều kiện đã hứa trong thời hạn đã định.
Quá hạn nếu người được hứa không thuận nhận rõ ràng, sự hứa hẹn đương nhiên bị hủy bỏ không cần thể thức gì khác.
Điều thứ 984 – Nếu không có thời hạn nào được án định cho sự hứa hẹn, ngừơi đã hứa có thể đốc thúc người kia phải cho biết ý định trong một thời gian vừa phải; quá hạn ấy sự hứa hẹn sẽ bị hủy bỏ.
Điều thứ 985 – Trong trừơng hợp người mua đã đưa tiền cọc trước cho ngừơi bán để bảo đảm lời hứa của mình, mỗi bên đều có thể hủy bỏ lời hứa bằng cách: người đã trao tiền cọc bị mất số tiền ấy, người đã nhận tiền phải hòan lại gấp đôi.
Điều thứ 986 – Sự đoạn mại có thể thực hiện đơn thuần hoặc với điều kiện giải tiêu hay đình chỉ.
Đoạn mại cũng có thể bao gồm hai hay nhiều sở vật luân lưu, nghĩa là vật nọ có thể thay thế vật kia.
Trong các trường hợp kể trên, hậu quả của sự đoạn mại được quy định theo những nguyên tắc tổng quát về khế ước.
Điều thứ 987 - Khi hàng hóa không bán cả lô mà chỉ bán một phần sẽ cân, sẽ đo hay sẽ đếm trong lô ấy, thì việc đoạn mại chưa hoàn tất nếu chưa cân, chưa đo hay chưa đếm: cho đến lúc ấy, mọi sự rủi ro người bán phải chịu. Nhưng ngừơi nua có quyền đòi người bán phải giao hàng, hoặc đòi bồi thường, nếu ngừơi bán không thi hành sự cam kết.
Trái lại, nếu hàng hóa bán cả lô, thì mặc dầu chưa cân, chưa đo, hay chưa đếm việc đoạn mại đã hoàn tất và mọi sự rủi ro người mua phải chịu.
Điều thứ 988 – Việc đoạn mại với điều kiện dùng thử tùy theo trường hợp, sẽ coi là đoạn mại: a) với điều kiện đình chỉ là sự thuận tình của người mua; hay b) với điều kiện giải tiêu là sự từ chối của người này.
Việc đoạn mại thực phẩm mà có lệ ngừơi mua được nếm thử được coi là đoạn mại với điều kiện đình chỉ là sự thuận mua.
Điều thứ 989 – Giá bán phải do hai bên ấn định và nêu rõ.
Tuy nhiên, hai bên cũng có thể quy chiếu vào chỉ giá hiện thời hay chỉ giá sẽ định trong thương trường cho những hàng hóa cùng thứ.
Hai bên cũng có thể, trong khế ước dành sự định giá cho một ngừơi đệ tam ước lượng, nhưng nếu người này không nhận hay không bỏ giá được thì việc mua bán sẽ không thành.
Điều thứ 990 – Những phí tổn giấy tờ và phí tổn phụ thuộc vào việc đoạn mại do người mua phải chịu, nếu không có ước định khác.
Điều thứ 991 – Việc đoạn mại bất động sản chưa được đặt dưới chế độ điền thổ của sắc lệnh ngày 21-7-1925 phải làm bằng công chính chứng thư hay chứng thư thị thực, và chỉ đối kháng được với ngừơi đệ tam kể từ ngày văn tự đã đăng ký vào địa bộ hay sổ nào khác dành cho sự đăng ký theo luật.
Nếu một bất động sản đã bán rồi, lại được chủ cũ đem bán lần nữa, mà cả hai việc đoạn mại đều không đăng ký người mua nào có văn tự đã thủ đắc nhật ký xác thực trước sẽ loại người kia.

Điều thứ 992 – Nếu một động sản được đem bán hai lần, người mua nào đã chiếm hữu truớc sẽ loại ngừơi kia. Nếu cả hai người đều chưa chiếm hữu, ai có văn tự đã thủ đắc nhật ký xác thực trước sẽ loại ngừơi kia.


PHỤ TIẾT II
Những ngừơi có quyền mua bán
Điều thứ 993 – Tất cả những ngừơi có năng cách lập ước đều có quyền mua bán, trừ trường hợp luật định khác.
Điều thứ 994 – Tuy nhiên:
1) Giám hộ không được mua tài sản của vị thành niên do mình quản trị;
2) Người thụ ủy không được mua tài sản của người chủ đã ủy thác cho mình đoạn mại;
3) Chức dịch, luật sư, công lại không được mua tài sản do những người ấy có phận sự đứng bán;
4) Công chức không được mua tài sản của làng, xã hay công sở do các ngừơi ấy quản trị;
5) Thẩm phán, lục sự, luật sư, công lại không được mua lại những quyền lợi đang tranh tụng trước tòa án nơi tại chức.
Những việc tạo mãi trái với luật này đều vô hiệu dù là tạo mãi dưới tên người khác.

PHỤ TIẾT II
Những vật có thể được mua bán
Điều thứ 995 – Tất cả các vật trên thương trường đều có thể đem mua bán, trừ phi có vật riêng ngăn cấm.
Điều thứ 996 – Việc đoạn mại vô hiệu nếu tài sản đoạn mại là của người khác; trong trường hợp này người mua ngay tình được hoàn lại gia tiền và có thể được bồi thường.
Điều thư 997 – Công điền, công thổ không thể được đoạn mại, ngoại trừ thể lệ riêng biệt về việc đặc nhượng công thổ.
Điều thứ 998 – Không được đoạn mại di sản vị lại của một người còn sống; dầu rằng ngừơi ấy ưng thuận việc đoạn mại cũng vô hiệu.
Điều thứ 999 – Nếu vào lúc đoạn mại, sở vật đã hoàn toàn tiêu thất rồi thì việc đoạn mại sẽ vô hiệu.
Nếu sở vật chỉ tiêu thất một phần, người mua có thể xin hủy bỏ việc đoạn mại hoặc giảm bớt giá tiền theo tỷ lệ sự tiêu thất để bảo lưu việc đoạn mại.

PHỤ TIẾT IV
Nghĩa vụ của người bán
Điều thứ 1000 – Người bán phải minh định rõ ràng nghĩa vụ cam kết.
Điều khoản nào không rõ ràng sẽ giải thích lợi cho người mua.
Điều thứ 1001 – Không kể sự di chuyển quyền sở hữu là hậu quả đương nhiên của việc đoạn mại, ngừơi bán có ba nghĩa vụ là: phải giữ gìn đố vật đã bán, phải giao nạp đồ vật và phải bảo đảm cho người mua.
1.- Nghĩa vụ gìn giữ
Điều thứ 1002 – Người bán phải giữ gìn cẩn trọng đề vật cho đến lúc giao nạp cho người mua.
Điều thứ 1003 – Người bán không được thay đổi hay sửa đổi đồ vật đã bán trong thời gian đã ước hẹn sẽ giao cho người mua.
Điều thứ 1004 – Trong thời gian ấy, ngươi bán phải chịu trách nhiệm về mọi sự rủi ro có thể xẩy đến cho đồ vật.
Điều thứ 1005 – Việc đoạn mại sẽ bị tiêu thấy hay hư hại nặng trứơc ngày giao. Người bán phải bồi thường nếu vì lỗi của mình mà đồ vật bị tiêu thất hay hư hại.
2.- Nghĩa vụ giao nạp
Điều thứ 1006 – Giao nạp là di chuyển đồ vật cho người mua chấp hữu để thuộc quyền người này.
Điều thứ 1007 – Thể thức giao nạp tùy hai bên ấn định; hoặc giao tại nơi cư sở của người mua, hay người này phải đến lấy ở nhà người bán.
Nếu không có ước định riêng, đồ vật ở đâu sẽ giao ngay ở đấy.
Điều thứ 1008 – Người bán có thể giữ đồ vật lại cho đến khi người mua trả tiền, trừ phi đã có ấn định thời hạn để trả.
Tuy nhiên, dẫu có thời hạn được ấn định, ngưới bán cũng có thể giữ đồ lại không giao, nếu người mua trở nên vô tư lực hay đã giấu giấm tình trạng vô tư lực của mình khi mua.
Điều thứ 1009 – Người bán phải giao đồ vật đã bán trong tình trạng lúc bán, gồm cả đồ phụ thuộc.
Kể từ ngày bán, hoa lợi thuộc về người mua.
Điều thứ 1010 – Về bất động sản, sự giao nạp được thể hiện bằng cách giao cho ngừơi mua chìà khóa hay văn tự, bằng khóan về bất động sản đã đoạn mại.
Điều thứ 1011 – Về thuyền bè, súc vật có ký bạ sự giao nạp được thể hiện bằng cách giao cho người mua giấy tờ ký bạ.
Điều thứ 1012 – Người bán phải giao ngay khi bán hay đúng hạn đã định trong khế ước, ngoại trừ trường hợp đã nói ở diều 1008.
Điều thứ 1013 – Phí tổn về giao nạp do người bán phải chịu, trừ phi có điều giao ước trái lại.
Điều thứ 1014 – Nếu người bán không giao nạp đúng hạn, người mua có thể, tùy ý, xin tiêu hủy việc đoạn mại, hay buộc người bán phải giao, miễn là sự chậm trễ do người bán.
Đìêu thứ 1015 – Người bán phải bồi thường nếu vì giao nạp chậm trễ người mua bị thiệt hại.
Điều thứ 1016 – Về những bất động sản chưa đặt dưới chế độ điền thổ của sắc lệnh ngày 21-7-1925, nếu văn tự đoạn mại có ghi rõ diện tích và giá tiền mỗi thước hay mỗi sào v.v... mà thực sự diện tích ít hơn, người bán phải chịu giảm bớt giá tiền theo diện tích bị thiếu, dẫu rằng khi bán đã không nhận bảo đảm về diện tích.
Nếu diện tích thực sự lại nhiều hơn diện tích ghi trong văn tự, người mua phải trả thêm tiền về diện tích thặng dư.
Điều thứ 1017 – Cũng về những bất động sản nói trên, nếu văn tự có ghi diện tích bất động sản nhưng giá bán được định cho tòan thể bất động sản thì dẫu, thực sự diện tích có ít hơn, người bán cũng không phải giảm bớt giá tiền, trừ phi người ấy đã cố ý khai gian về diện tích hay đã cam kết đảm bảo về diện tích, hay sự thiếu hụt tới 1/20 diện tích đã khai trong khế ước.
Sự ghi chú trong khế ước rằng diện tích chỉ được phỏng lượng hay không được bảo đảm không giảm bớt trách nhiệm của ngừoi bán nếu người này gian tình.
Về phía người mua, người này chỉ phải trả thêm tiền nếu số diện tích thặng dư tói 1/20 diện tích ghi trong khế ước.
Điều thứ 1018 – Nếu hai địa sản, có xây cất hay không cùng được bán bằng một văn tự theo một giá tiền duy nhất ấn định cho cả hai và đã ghi rõ diện tích của mỗi địa sản, mà khi đo đạc, diện tích lại bên thừa bên thiếu, thì sẽ lấy giá tiền tính theo mỗi thước của bên này trừ vào bên kia, sau đó, nếu số tiền thừa hay thiếu tới 1/20 giá bán, người bán phải hoàn lại hay người mua sẽ trả thêm.
Điều thứ 1019 – Trong trường hợp người mua được giảm bớt giá tiền như đã định trên, người ấy có thể đòi bồi thường hay tiêu hủy khế ước, nếu diện tích thực sự không đủ dùng cho công việc của người ấy trừ phi có ước khỏan vô bảo đảm về diện tích.
Tong trường hợp có sự thặng dư về diện tích làm cho người mua phải trả thêm tới 1/20 giá bán, người này có thể xin hủy bỏ việc đoạn mại.
Điều thứ 1020 – Mọi tố quyền xin thêm bớt giá bán hay bồi thường hoặc tiêu hủy việc đoạn mại phải sử hành trong hạn một năm kể từ ngày lập ước cho bất động sản và một tháng cho động sản.
Thời hạn này là thời hạn tiên định, không bị đình chỉ hay gián đoạn.

3.- Nghĩa vụ bảo đảm
Điều thứ 1021 – Nghĩa vụ bảo đảm của người bán nhằm hai mục đích: bảo đảm cho ngừơi mua được chấp hữu yên ổn vật mua và bảo đảm về những hà tỳ về những vật ấy.
A.- Bảo đảm chấp hữu
Điều thú 1022 – Người bán có nghĩa vụ không được có hành vi gì cản trở người mua trong sự hưởng dụng vật mua.
Mọi điều giao ước miễn cho người bán nghĩa vụ này đều vô hiệu.
Điều thứ 1023 – Người bán phải bảo đảm cho người mua khỏi bị truất đoạt và quấy rối bởi người đệ tam.
Điều thứ 1024 – Quấy rối là mọi hành vi của người đệ tam làm cản trở người mua trong sự an hưởng đồ vật đã tạo mãi.
Truất đoạt là tình trạng của người mua mà quyền lợi do mình đã tạo mãi bị tòa án công nhận cho người đệ tam.
Điều thứ 1025 – Sự truất đoạt có thể tòan phần hay một phần, tùy theo người tạo mãi bị mất tất cả hay một phần quyền lợi.
Điều thứ 1026 – Người bán đương nhiên phải bảo đảm cho người mua khỏi bị truất đoạt, dẫu rằng khế ước đoạn mại không nói đến sự bảo đảm ấy.
Tuy nhiên, hai bên có thể do khế ước gia giảm hay miễn cho người bán nghĩa vụ bảo đảm.
Điều thứ 1027 – Mặc dầu đã có sự thỏa thuận không bảo đảm về sự truất đoạt, người bán vẫn phải hoàn lại tiền bán, trừ phi khi kết ước người mua đã biết trước là có thể bị truất đoạt, hay đã thuận nhận mọi rủi ro.
Điều thứ 1028 – Người bán không phải bảo đảm nếu sự quấy rối của người đệ tam chỉ là một sự bạo hành mà không căn cứ vào một quyền nào trên vật mãi mại.
Điều thứ 1029 – Một khi có người đệ tam tranh nại về quyền lợi của người tạo mãi, người này tức khắc có quyền đòi người bán thi hành nghĩa vụ bảo đảm.
Điều thứ 1030 – Ngoại trừ trường hợp định ở điều 1027 người mua, bị truất đọat, có quyền đòi người bán:
1) Phải hoàn lại giá tiền;
2) Phải hòan lại hoa lợi nếu chính người ấy cũng phải hoàn lại cho người đệ tam thắng kiện;
3) Phải hòan lại án phí tụng lệ về vụ kiện bảo đảm và về vụ kiện truất đoạt.
4) Phải bồi thường thiệt hại và hòan lại phí tổn bình thường về khế ước đoạn mại.
Điều thứ 1031 – Nếu khi bị truất đoạt, đồ vật đã bị giảm giá, hay bị hư hại, không cứ vì duyên cứ gì, dù là sơ suất của người mua, người bán vẫn phải hoàn lại tất cả giá bán.
Tuy nhiên, nếu sự hư hao do chính người mua đã gây ra mà có lợi cho người ấy, người bán có quyền trừ vào giá bán một số tiền tương xứng với lợi ấy.
Điều thứ 1032 – Nếu lúc bị truất đọat mà vật đã bán lại tăng, dầu không do công lao của người mua, người bán cũng phải trả cho người mua số tiền tăng giá ấy.
Điều thứ 1033 – Nếu người mua đã có tu sửa vào đồ vật làm cho thêm phần tiện ích, người đệ tam phải hoàn lại cho người mua phí tổn về sự tu sửa ấy theo thời giá vào ngày truất đoạt. Người bán phải bảo đảm cho người mua sự bồi hoàn này.
Điều thứ 1034 – Nếu sự tu sửa có tính cách xa phí người truất đoạt có quyền được hưởng không phải bồi thường, nhưng với điều kiện là những công trình tu sửa không thể tháo gỡ đi được mà không làm hư hại đến đồ vật. Trong trường hợp này người mua có thể đòi người bán bồi thường theo điều 1030, nếu người này đã gian tình khi bán.
Nếu những công trình tu sửa có thể tháo gỡ đi được, người truất đoạt muốn giữ lại phải hòan tiền phí tổn cho người mua.
Điều thứ 1035 – Người mua chỉ bị truất đọat một phần cũng có thể xin tiêu hủy việc đoạn mại, nếu phần bị truất đoạt là chủ yếu đối với người mua.
Điều thứ 1036 – Trong trường hợp bị truất đọat một phần địa sản và nếu việc đoạn mại không bị tiêu hủy người mua sẽ được bồi thường theo thời giá phần đất lúc bị truất đọat.
Điều thứ 1037 – Nếu địa sản đoạn mại có chịu địa dịch ẩn khuất mà khi đoạn mại không được khai ra, người mua có thể đòi bồi thường hay đòi hủy việc đoạn mại, nhưng trong trừơng hợp sau phải có điều kiện là dịch địa có tính cách qúan trọng khiến người mua, nếu biết trước, tất đã không mua.
Điều thứ 1038 – Nghĩa vụ bảo đảm về sự truất đọat nói trên chấm dứt một khi người mua đã để vụ kiên kết thúc bằng một án văn chung thẩm, hay đã để quá hạn kháng cáo, mà không gọi người bán ra bảo đảm, nếu người này chứng minh được có đủ phương cách để xin bác khước đơn truất đoạt.

B.- Bảo đảm hà tỳ
Điều thứ 1039 – Hà tỳ của đồ vật là những khuyết điểm làm giảm giá trị hoặc lợi ích cùa đồ vật hay làm cho đồ vật thành vô dụng.
Điều thứ 1040 – Người bán phải bảo đảm những ẩn tỳ - nghĩa là những khuyết điểm không thể nhận thấy bên ngoài làm cho đồ vật không đúng được theo sở thích khi mua hay mất nhiều ích lợi đến nỗi người mua, nếu biết trước, tất sẽ không mua hoặc chỉ mua với một giá hạ hơn.
Điều thứ 1041 – Người bán không phải bảo đảm những hà tỳ hiển hiện mà người mua có thể tự mình nhận thấy.
Điều thứ 1042 – Người bán phải bảo đảm những ẩn tỳ, dẫu rằng người ấy không biết, trừ phi đã giáo kết là người bán không phải bảo đảm về ẩn tỳ.
Điều thứ 1043 – Trong trường hợp nói ở hai điều 1040 và 1042, người mua có quyền lựa chọn; hoặc trả lại đồ vật để lấy lại cả giá tiền, hoặc giữ đồ vật và lấy lại một phần giá tiền.
Điều thứ 1044 – Nếu khi bán đã biết những hà tỳ của đồ vật, người bán còn phải bồi thường, ngoài việc hoàn lại giá bán cho người mua.
Điều thứ 1045 – Nếu không biết những hà tỳ của đồ vật, người bán chỉ hòan lại giá bán và phí tổn về việc đoạn mại.
Điều thứ 1046 – Nếu vì những hà tỳ mà đồ vật bị tiêu hủy, sự thiệt hại sẽ do người bán phải chịu: người này phải hoàn lại giá tiền và còn có thể bồi thường như đã định trên.
Nhưng nếu đồ vật bị tiêu hủy vì một duyên cớ ngẫu nhiên sự thiệt hại do người mua phải chịu.
Điều thứ 1047 – Những tố quyền căn cứ vào những hà tỳ nói trên phải sử hành trong thời hạn một năm cho bất động sản, và ba tháng cho động sản kể từ ngày hà tỳ được phát giác, trừ phi có luật lệ riêng định khác.
Điều thứ 1048 – Người mua không có tố quyền ấy nếu đã mua trong một cuộc đấu giá phát mại hay tư pháp phát mại.


PHỤ TIẾT IV
Nghĩa vụ của người mua
Điều thứ 1049 – Nghĩa vụ chính của người mua là phải trả giá tiền vào ngày và nơi đã định.
Điều thứ 1050 – Nếu hai bên không định ngày nào để trả tiền, người mua phải trả vào lúc giao nạp đồ vật.
Nếu theo hợp đồng sự giap nạp được trì hoãn thì sự trả tiền đương nhiên cũng được trì hoãn.
Nếu người bán được tòa án cho ân hạn để giao nạp, người mua đương nhiên cũng được ân hạn ấy để trả tiền, ngược lại nếu người mua được tòa cho ân hạn để trả tiền, người bán cũng đương nhiên được ân hạn để giao nạp.
Điều thứ 1051 – Nếu hai bên không ấn định một nơi nào khác, người mua phải trả tiền tại nơi đồ vật được giao nạp nếu là động sản.
Nếu là bất động sản hay trái quyền, người mua phải trả tiền tại nơi được giao bằng khóan hay văn tự.
Nếu đã có giao ước phải trả tiền trước hay sau khi giao nạp thì người mua phải trả tại nơi cư sở của người bán.
Điều thứ 1052 – Cho đến khi trả đủ giá tiền, người mua đương nhiên phải chịu tiền lời kể từ ngày giao nạp nếu đồ vật có sinh lời hay đã có cam kết chịu tiền lời. Nếu không người mua chỉ phải chịu lời kề từ ngày bị đốc thúc.
Điều thứ 1053 - Nếu bị quấy rối bởi một tố quyền đối vật hay có lý do chính đáng sợ rằng bị quấy rối, người mua có thể đình chỉ việc trả tiền cho đến khi người bán làm cho sự quấy rối chấm dứt hay đã cung cấp bảo đảm dể hoàn lại giá tiền nếu có sự truất đoạt.
Điều thứ 1054 – Nếu người mua không trả tiền, người bán có quyền xin tiêu hủy việc đoạn mại.
Điều thứ 1055 – Tòa án có thể cho người mua được ân hạn trả tiền, nếu không có tình trạng nguy cấp làm cho người bán bị mất vật đã bán mà không lấy lại được giá tiền, nhưng tòa phải tuyên cáo tiêu hủy sự đoạn mại nếu quá ân hạn ban cấp tiền vẫn chưa được trả.
Điều thứ 1056 – Việc đoạn mại bất động sản dẫu đã được giao ước là sẽ đương nhiên giải tiêu nếu người mua không trả tiền trong thời hạn ấn định, người này vẫn có thể được tòa cho ân hạn, trừ phi đã bị người bán đốc thúc.
Điều thứ 1057 – Việc đoạn mại đồ vật động sản hay thực phẩm đương nhiên bị tiêu hủy lỗi về người mau không cần đốc thúc, nếu người mua không đem hàng đi trong hạn giao ước.
Điều thứ 1058 – Nếu việc đoạn mại bị tiêu hủy, mỗi bên phải hoàn lại tài vật đã nhận của bên kia.
Người mua phải hòan lại đồ vật, nhưng không phải hòan lại hoa lợi đã thâu được, nếu ngay tình.
Người bán phải hoàn lại giá tiền, nhưng không phải trả tiền lời, nếu không có lỗi.

T I Ế T II
Nói về điền mại hay mãi lai thục
Điều thứ 1059 – Điển mại hay mãi lai thục là một khế ước do đó người bán di nhượng quyền sở hữu về một bất động sản cho người mua, nhưng dành quyền hòan lại giá bán để chuộc lại bất động sản trong một thời gian nhất định.
Điều thứ 1060 – Khế ước đoản mại phải làm theo hình thức công chứng thư hay chứng thư thị thực.
Điều thứ 1061 – Khi chuộc lại, người bán, ngoài giá tiền đã nhận được, còn phải hòan lại cho người mua tiền phí tổn về việc đoạn mại, tiền phí tổn sửa chữa tu bổ và tiền phí tổn đã làm cho bất động sản tăng giá trị, nhưng chỉ đến mức độ sự thặng dư giá trị mà thôi.
Người chuộc phải làm trọn các nghĩa vụ nói trên rồi mới được chấp hưởng bất động sản điển mại.
Điều thứ 1062 – Thời hạn để chuộc không được ấn định trên mười năm và dưới hai năm kể từ ngày bán thục; thời hạn ước định trên mười năm hay dưới hai năm sẽ đương nhiên rút xuống còn mười năm hay tăng lên cho đủ hai năm.
Nếu hai bên không ước định một thời hạn nào, thời coi như đã chấp nhận thời hạn mười năm.
Hai bên có thể ước định một thời hạn trong đó chưa có thể chuộc được, song thời hạn này không được quá hai năm, trong trường hợp này người bán cũng phải được một thời hạn ít nhất là hai năm để chuộc kề từ ngày mãn hạn trên.
Điều thứ 1063 – Quá hạn chuộc, người mua đương nhiên thành sở hữu chủ.
Điều thứ 1064 – Các thời hạn nói ở điều trên sẽ lưu thông đối với tất cả mọi người kể cả vị thành niên và những người vô năng cách.
Điều thứ 1065 – Nếu tòan thể một bất động sản được bán thục, khi chuộc phải chuộc lại toàn thể bất động sản ấy.
Nếu người bán đã chết và để lại nhiều thừa kế, một trong những người thừa kế này có quyền xin chuộc, nhưng bất động sãn coi như một tài sản vị phân trong di sản của người mệnh một cho đến khi hết hạn chuộc.
Trong trường hợp người mua đã chết và để lại nhiều thừa kế, người bán phải đòi tất cả các thừa kế này để xin chuộc, nếu bất động sản vẫn là của chung giữa họ với nhau.
Điều thứ 1066 – Trong trường hợp đoạn 2 điều trên, người thừa kế đã chuộc bất động sản có quyền riêng mình hưởng hoa lợi.
Thừa kế nào khác đã bày tỏ ý kiến và đề cung trả kỷ phần của mình trong số tiền chuộc sẽ được chi hoa lợi theo tỷ lệ kỷ phần ấy, kể từ ngày đề cung.
Quá hạn chuộc bất động sản sẽ thành của riêng của thừa kế đã chuộc và những người đã đề cung dự phần chuộc.
Điều thứ 1067 – Nếu có nhiều người cùng bán thục, một bất động sản, mọi người đều có quyền xin chuộc toàn thể bất động sản, nhưng bất động sản vẫn coi là một tài sản vị phân.
Tương quan giữa người đã chuộc và các cộng chủ khác được quy định tại điều 1066 ở trên.
Điều thứ 1068 – Người bán có thể đòi chuộc trong tay người đã mua lại của người mua thục, dẫu rằng giữa hai người này, khế ước không nói rõ là bất động sản đã được mua thục và có thể được chuộc lại.
Điều thứ 1069 – Ngoài người bán thục và các thừa kế của người này, các chủ nợ vẫn có quyền xin chuộc.
Điều thứ 1070 – Trong thời hạn điển mại người mua có đủ quyền trên bất động sản y như người bán.
Điều thứ 1071 – Trong trường hợp người bán chuộc lại thì việc điển mại bị tiêu trừ, và sự chuyển dịch tư hữu coi như không bao giờ có.
Do hậu quả của sự chuộc lại, quyền lợi của người mua hoàn toàn tiêu diệt và cả những vật quyền do người ấy đã ưng thuận cho người đệ tam cũng hoàn toàn tiêu diệt. Chỉ những khế ước thuê mướn hợp lệ và ngay tình không quá năm năm được tiếp tục thi hành.
Điều thứ 1072 – Khế ước điển mại cũng phải đăng bộ như khế uớc đoạn mại.

T I Ế T III
Về sự đấu giá phát mại
Điều thứ 1073 – Khi nào phải phân chia một tài sản chung, sẽ phân chia theo bản thể, trong mọi trường hợp có thể phân chia theo phương thức ấy.
Điều thứ 1074 – Nếu không thể phân chia được theo bản thể, mà không có sự bất tiện hay thiệt hại, tài sản sẽ đem bán tương thuận hay bán đấu giá để lấy tiền chia cho các cộng chủ,
Điều thứ 1075 – Nếu có cộng chủ không đồng ý bán tương thuận hay nếu trong các cộng chủ có người vắng mặt hay vô năng cách, việc bán đấu giá sẽ bắt buộc phải do tòa án quyết định.
Điều thứ 1076 – Án văn cho phép bán sẽ không được kháng cáo.
Điều thứ 1077 – Thể thức đấu giá phát mại do luật dân sự tố tụng ấn định.


T I Ế T IV
Di nhượng trái quyền
Điều thứ 1078 – Di nhượng trái quyền là một khế ước do đó người chủ nợ nhường quyền lấy nợ của mình cho một người khác.
Người nhượng quyền gọi là chủ nhượng.
Người được nhượng quyền gọi là thu nhượng.
Người thiếu nợ bị đổi chủ gọi là bị nhượng.
Điều thứ 1079 – Giữa chủ nhượng và người thu nhượng việc di nhượng được hoàn tất một khi hai bên đã thỏa thuận.
Để thi hành nghĩa vụ giao nạp, chủ nhượng phải giao cho người thu nhượng văn khế về món nợ di nhượng.
Điều thứ 1080 – Đối với người thiếu nợ, người thu nhượng chỉ được coi là đã thực sự thu nhượng khi nào sự di nhượng đã tống đạt cho người thiếu nợ hay người này đã thuận nhận sự di nhượng.
Điều thứ 1081 – Nếu trước khi được tống đạt, người bị nhượng đã trả nợ cho chủ nhượng, sự trả nợ ấy hữu hiệu và con nợ được giải trách.
Điều thứ 1082 – Việc di nhượng trái quyền gồm cả những đảm phụ của trái quyền như bảo lãnh, để đương và quyền ưu tiên.
Điều thứ 1083 – Người chủ nhượng có nghĩa vụ bảo đảm sự hữu thực của trái quyền vào lúc di nhượng, mặc dầu sự di nhượng đã được thỏa thuận không bảo đảm.
Điều thứ 1084 – Chủ nhượng chỉ phải bảo đảm tư lực trả nợ của người mắc nợ nếu đã cam kết như vậy và trong mọi trường hợp, chỉ phải bảo đảm đến mức giá tiền nợ di nhượng mà thôi.
Điều thứ 1085 – Nếu chủ nhượng có bảo đảm tư lực của người thiếu nợ, cũng chỉ có tư lực hiện thời được bảo đảm, trừ phi có nói rõ ràng là tư lực sau này cũng được bảo đảm.
CHƯƠNG THỨ III
Nói về sự thay đổi
Điều thứ 1086 – Sự trao đổi là một khế ước đo đó hai bên kết ước đổi đồ vật hay quyền lợi của bên này thành của bên kia.
Điều thứ 1087 – Sự đánh đổi thành tựu và hoàn tất do sự thỏa thuận của hai bên cũng như sự mãi mại.
Điều thứ 1088 – Hai bên trao đổi đều có nghĩa vụ bổ tương bảo đảm về mọi sự quấy rối cũng như sự truất đọat.
Điều thứ 1089 – Bên nào bị truất đọat vật hay quyền của bên kia đổi cho mình có thể lựa chọn hoặc đòi bên kia phải trả một số tiền tương đương, hoặc xin tiêu hủy khế ước để lấy lại vật của mình đã giao.
Ngoài ra có thể được bồi thường.
Điều thứ 1090 – Nếu sau khi nhận được vật trao đổi người nhận có bằng cớ là vật này không phải của người kia, thì chỉ hoàn lại vật ấy chớ không bị buộc phải giao vật của mình.
Điều thứ 1091 – Những điều khoản khác về sự mãi mại được áp dụng cho sự thay đổi.

CHƯƠNG THỨ IV
Nói về sự thuê mướn

T I Ế T I
Tổng tắc
Điều thứ 1092 – Không kể khế ước lao động thuộc luật lao động, khế ước thuê mướn chia làm hai loại:
1) Khế ước thuê mướn đồ vật;
2) Khế ước thuê khoán công tác.
Điều thứ 1093 – Khế ước thuê mướn đồ vật là một khế ước do đó một bên cam kết để cho bên kia được hưởng dụng một đồ vật trong một thời gian, với một giá tiền thỏa thuận ấn định.
Điều thứ 1094 – Khế ươc thuê mướn là một khế ươc do đó một bên nhận làm khóan cho bên kia một công tác với một giá đã được hai bên thỏa thuận, người làm không phải chịu dưới sự chỉ huy của người mướn.


T I Ế T II
Thuê mướn đồ vật
Điều thứ 1095 – Tất cả các thứ động sản và bất động sản đều có thể cho thuê mướn.
Điều thứ 1096 – Những điều khoản dưới đây là phổ thông luật pháp cho việc thuê mướn: nhưng đặc chế hiện hành về việc thuê nhà để ở hay để làm thương mại và về việc thuê mướn ruộng đất vẫn tiếp tục áp dụng.

P H Ụ T I Ế T I
Điều lệ chung cho việc thuê mướn
Đất thành thị và thuê nông trại vườn đất thôn quê
Điều thứ 1097 – Thuê mướn không cần phải làm giấy tờ, trừ phi thời hạn thuê mướn quá hai năm.
Ngoài ra khế ước cho thuê quá ba năm phải đăng bộ mới đối kháng được với người đệ tam.
Điều thứ 1098 – Trong trường hợp không làm giấy tờ mà việc thuê mướn bị một bên chối cãi, bên kia có thể lấy khẩu cung để chứng minh việc thuê mướn nhưng chỉ tới hạn hai năm mà thôi.
Điều thứ 1099 – Nếu không làm giấy tờ mà có sự tranh nại về giá thuê, sẽ căn cứ vào thực trạng thực tế để ấn định; tòa cũng có thể cử giám định viên để ấn định.
Điều thứ 1100 – Giá thuê có thể ấn định bằng tiền hay sản vật của điền địa.
Điều thứ 1101 – Người thuê có quyền cho thuê lại hay nhường hẳn khế ước thuê mướn cho người khác, trừ phi những việc ấy bị cấm trong khế ước.
1.- Nghĩa vụ của người cho thuê
Điều thứ 1202 – Người cho thuê đương nhiên có nghĩa vụ:
1) Phải giao bất động sản cho người thuê;
2) Phải tu bổ bất động sản sao cho lúc nào cũng thích ứng với mục đích của việc thuê mướn;
3) Phải làm cho người thuê được yên hưởng bất động sản trong thời gian thuê mướn.
Điều thứ 1103 – Người cho thuê phải giao bất động sản trong tình trạng tốt; mọi sự hư hỏng, nếu có, phải đã được sửa sang rồi.
Điều thứ 1104 – Ngoài ra trong thời gian thuê mướn, người cho thuê còn phải làm những việc sửa chữa cần thiết có tính cách đại tu bổ, những việc sửa chữa thông thường khác do người thuê phải chịu như sẽ định ở điều 1221 dưới đây.
Sự phân biệt sửa chữa đại tu bổ với sửa chữa tiểu tu bổ sẽ theo như luật này đã định trong điều 432 thuộc tiết 2 (chương I, thiên 3, quyển 2) về “nghĩa vụ của người dụng ích.”
Nếu trong thời hạn thuê bất động sản ngẫu nhiên bị hư hại tòan phần, việc thuê mướn sẽ đương nhiên được hủy bãi nếu chỉ bị hư hại một phần, người thuê có thể tùy nghi hoặc xin giảm giá thuê họăc xin hủy bãi khế ước. Trong cả hai trường hợp người cho thuê không phải bồi thường.
Điều thứ 1105 – Người cho thuê phải bảo đảm cho người thuê về mọi hà tỳ hay hư hại làm cho bất động sản không dùng được, dẫu rằng khi kết ước người cho thuê không biết.
Nếu người cho thuê bị thiệt hại về những hà tỳ hay hư hại ấy, người cho thuê phải bồi thương, trừ phi những hà tỳ hay hư hại nói trên rõ rệt, và người cho thuê phải nhìn thấy.
Điều thứ 1106 – Nếu trong thời kỳ thuê mướn, bất động sản phải sửa chữa khẩn cấp, không đợi được đến lúc mãn hạn, người thuê phải để cho chủ nhà sửa chữa, dầu có bất tiện cho mình và dầu trong khi sửa chữa sẽ không được hưởng dụng toàn phần cho bất động sản.
Tuy nhiên, nếu việc sửa chữa kéo dài quá một tháng, người thuê có quyền đòi trừ bớt tiền thuê ngoài thời gian ấy về phần bất động sản không được hưởng dụng.
Nếu việc sửa chữa làm cho người thuê không thể lưu ngụ đươc, người này có thể xin tiêu hủy khế ước.
Điều thứ 1107 – Ngừơi thuê có thể xin tòa cấp thẩm cử giám định viên xét định việc sửa chũa có tính cách khẩn cấp hay không.
Nếu người cho thuê cố ý, dụng tâm gây bất tiện quá đáng cho ngừơi thuê để gián tiếp buộc người này phải dọn đi, người thuê có thể xin tòa cấp thẩm cử giám định viên đôn đốc việc sửa chữa.
Ngừơi thuê cũng có thể, nếu muốn, tạm đời đi nơi khác để sẽ trở lại chiếm cứ bất động sản khi công việc sửa chữa hòan thành.
Điều thứ 1108 – Người cho thuê không phải bảo đảm về những sự bạo hành do người đệ tam quấy rối trong quyền hưởng dụng của ngừơi thuê, người này, nếu muốn, phải tự truy tố kẻ bạo hành.
Điều thứ 1109 – Nhưng nếu kẻ bạo hành tự cho là có quyền trên bất động sản, kiện người thuê đòi giao trả tất cà hay một phần bất động sản, ngừơi thuê phải đòi ngừoi chủ nhà, chủ đất ra bảo đảm và phải được đặt ra ngoài vụ một khi đã chỉ danh chủ nhà hay chủ đất.
Trong turờng hợp này, người thuê có thể xin giảm tiền thuê theo sụ quấy rối quan trọng nhiều hay ít.
2.- Nghĩa vụ của người thuê
Điều thứ 1110 – Người thuê có ba nghĩa vụ chính:
1) Phải dùng bất động sản một cách cẩn trọng như thể của mình và dùng theo dụng ích đã định trong khế ước hay ước đoán theo tình trạng thực tế, nếu không có khế ươc;
2) Phải trả tiền thuê đúng hạn đã định;
3) Phải trả lại bất động sản khi hết hạn thuê.
Điều thứ 1111 – Nếu người thuê dùng bất động sản trái với dụng ích ước định hay làm hại cho chủ bất động sản, người này có thể xin tiêu hủy khê ước.
Điều thứ 1112 – Người thuê nhà phải trang trí nơi thuê bằng đồ đạc đủ đảm bảo ba tháng tiền nhà, hay có một bảo đảm tương đương nào khác, nếu không chủ nhà xin hủy khế ườc.
Điều thứ 1113 – Người thuê nông trại phải có tại nơi thuê đủ súc vật, dụng cụ canh tác và phải trồng trọt theo đụng đích của nông trại, nếu không, người chủ có thể xin tiêu hủy khế ước.
Điều thứ 1114 – Ngừơi thuê lại chỉ chịu trách nhiệm với với mức giá tiền thuê lại, nhưng nếu có trả trứơc cho ngừơi thuê chính thì việc trả trước này không đối kháng được với người chủ, trừ phi có khế ước nhật ký chắc chắn hay tục lệ địa phương buộc phải trả trước.
Điều thứ 1115 – Nếu giữa ngừơi chủ và người thuê có làm bản kê khai hiện trạng, ngừơi thuê phải trả lại bất động sản theo tình trạng ấy, trừ những cái gì đã bị tiêu hủy, hư hại vì quá cũ hay vì trường hợp bất khả kháng.
Điều thứ 1116 – Nếu hai bên không làm bản kê khai hiện trạng người thuê phải coi như đã nhận được bất động sản trong tình trạng tốt và phải hòan lại như vậy, trừ phi có bằng chứng trái lại.
Điều thư1117 – Người thuê có quyền tùy ý trồng trọt hay xây cất ở nơi thuê, nhưng hết hạn thuê phải lập lại tình trạng cũ, ngoại trừ trường hợp người chủ muốn giữ những cây cối đã trồng trọt, những kiến trúc đã xây dựng thoe điều 394 bộ luật này.
Điều thứ 1118 – Người thuê phải chịu trách nhiệm về những hư hại, tiêu thất xẩy ra trong thời gian hưởng dụng của mình, của người thuê lại, và ngừơi thụ hưởng khế ước thuê mướn, trừ phi chứng tỏ được rằng không phải của họ gây ra.
Tuy nhiên, nếu việc thuê lại hay nhượng lại đã được ngừơi chủ chấp nhận mặc nhiên hay minh thị, thì chỉ riêng ngừơi thuê lại, người thụ nhựong phải chịu trách nhiệm.
Điều thứ 1119 – Người thuê phải chịu trách nhiệm về hỏa hoạn, trừ phi chứng tỏ được rằng hỏa hoạn xẩy ra vì một duyên cớ ngẫu nhiên, một trường hợp bất khả kháng, vì kiến trúc có khuyết điểm, hay vì lửa cháy ở nhà bên cạnh lan sang.
Điều thứ 1120 – Nếu có nhiều người cùng thuê những phần riêng biêt trong bất động sản, tất cả phải chịu trách nhiệm về hỏa hoạn tùy theo giá trị thuê mướn của phần nhà mình chiếm ngự.
Nhưng nếu chứng tỏ được rằng hỏa hoạn đã phát khởi từ nơi ở của một người trong bọn, thì chỉ người này phải chịu trách nhiệm.
Nếu một số người thuê chứng tỏ được rằng hỏa hoạn không thể đã phát khởi từ nơi thuê của họ, thì chỉ riêng những người này không phải chịu trách nhiệm.
Điều thứ 1121 – Người thuê phải đài thọ sở phí những việc sửa chữa thông thường, trừ phi vì tình trạng quá cũ hay vì trường hợp bất khả kháng mà phải sửa chũa thì không kể.
Điều thứ 1122 – Người thuê phải trả tiền thuê vào thời kỳ đã định trong khế ước, hoặc theo thông lệ địa phương. Nếu không có giao ước hay thông lệ rõ ràng, sẽ được trả sau khi mỗi kỳ đáo hạn, chứ không phải trả trước.
Điều thứ 1123 – Tùy theo sự giao ước giữa hai bên, có thể người thuê phải mang tiền thuê đến nhà người chủ để trả, hay ngừơi chủ phải đến nhà người thuê để đòi. Nếu không có giao ước rõ ràng, người thuê chỉ phải trả khi nào người chủ đến đòi.
Điều thứ 1124 – Về thuế thổ trách và các thứ thuế đảm phụ người chủ phải trả, trừ phi có giao ước trái lại.
3.- Chấm dứt khế ước thuê mướn
Điều thứ 1125 – Khế ước có hạn định đương nhiên hết hiệu lực khi mãn hạn, không cần phải báo thôi.
Tuy nhiên, nếu sau khi hết hạn, người thuê vẫn ở yên tại chỗ, không có sự phản kháng của người chủ, khế ước được đương nhiên tái tục theo những điều kiện cũ, ngoại trừ về thời hạn: ngừơi thuê có thể bị trục xuất, nhưng đã phải bị tống cư hợp lệ theo điều 1128 dưới đây.
Điều thứ 1126 – Khế ước thuê mướn bất động sản không bị tiêu hủy, mặc dầu người chủ hay ngừơi thuê mệnh một.
Điều thứ 1127 - Nếu bất động sản ngẫu nhiên bị tiêu hủy hòan toàn, khế ước sẽ đương nhiên chấm dứt. Nếu chỉ tiêu hủy có một phần ngừơi thuê có quyền tùy ý xin giảm bớt tiền thuê hay tiêu hủy khế ước.
Nhưng trong cả hai trường hợp, ngừơi thuê không thể được bồi thường.
Điều thứ 1128 – Nếu khế ước không hạn định về thời gian, mỗi bên đều có quyền chấm dứt bất cứ lúc nào, nhưng phải báo cho bên kia biết trước ba tháng, không phân biệt việc thuê mướn có tác dụng thương mại hay cư trú.
Nếu là đất thuê trống ở thành thị hay ở thôn quê, thời hạn báo thôi sẽ là sáu tháng.
Nếu là nông trại, vườn đất có canh tác sinh lợi, sẽ sử dụng điều 1130 dưới đây.
Điều thứ 1129 – Khế ước thuê mướn có thể bị tiêu hủy, nếu ngừơi chủ hay người thuê khiếm khuyết nghĩa vụ.
Điều thứ 1130 – Trong trường hợp ngừơi chủ đọan mại bất động sản, ngừơi thuê không thể bị người mua trục xuất;
1) Nếu có một khế ước trên ba năm đã đăng ký vào địa bộ;
2) Hoặc có một khế ước dưới ba năm nhưng chưa mãn hạn và có nhật ký chắc chắn, trừ khi trong khế ước thuê mướn đã dự liệu rằng người thuê có thể bị trục xuất nếu ngừơi chủ bán bất động sản mặc dầu lúc bán khế ước chưa mãn hạn.
Người mua có thể xin trục xuất người thuê, nếu khế ước không có nhật ký chắc chắn.
Điều thứ 1131 – Ngừơi mua thuc bất động sản mà chưa thành sở hữu chủ thiệt thọ vì chưa hết hạn chuộc, chưa có quyền xin trục xuất ngừơi thuê.
Điều thứ 1132 – Vẫn đươc giữ lại các qui chế đặc biệt như dụ số 4 ngày 2-4-1953, dụ số 17 ngày 3-6-1853 cùng các văn kiện liên thuộc.

PHỤ TIẾT II
Điều lệ riêng cho việc thuê mướn nông trại,
Vườn đất canh tác ở nông thôn
Điều thứ 1133 – Bộ luật này chỉ quy định việc thuê mướn thường luật, không thay đổi gì về quy chế tá điền ấn định do dụ số 20 ngày 4-6-1953 và số 2 ngày 8-1-1955, cùng các văn kiện bổ túc phụ thuộc.
Điều thứ 1134 – Nếu người thuê nông trại bỏ hoang không trồng trọt, hay đem dùng vào một việc khác, hay không thi hành các điều khỏan ước định do đó gây thiệt hại cho người chủ, ngừơi này có thê xin tiêu hủy khế ước
Điều thứ 1135 – Người thuê phải báo cho ngừơi chủ biết về mọi xâm lấn của ngừơi đệ tam, nếu không sẽ phải bồi thường.
Điều thứ 1136 – Trong trường hợp tất cả hoa lợi hay ít ra là phần nửa bị mất vì một duyên cớ ngẫu nhiên hay vì trường hợp bất khả kháng, ngừơi thuê có thể xin giảm bờt tiền thuê.
Điều thứ 1137 – Người chủ cho thuê cả súc vật sẽ được chia một nửa số súc vật sinh sản, nhưng cũng phải chịu một nửa về sự thất thác xẩy ra không vì lỗi của ngừơi thuê, trừ phi có giao ước trái lại.
Người chủ chỉ được chia số súc vật sinh sản còn lại sau khi số súc vật bị chết đã được thay thế bằng súc vật mới sinh.
Điều thứ 1138 – Khế ước thuê mướn nông trại, vườn đất canh tác ở thôn quê, nếu không ấn định thời gian, sẽ có hiệu lực tối thiểu là một năm.
Nếu hết hạn ấy, ngừơi thuê vẫn tiếp tục chiếm cứ, không có sự phản kháng của ngừơi chủ, khế ước được coi như tái tục thêm một năm nữa.

PHỤ TIẾT III
Thuê mướn động sản
Điều thứ 1139 – Việc thuê mướn động sản cũng theo những nguyên tắc đã quy định ở trên cho việc thuê mướn bất động sản.
Điều thứ 1140 – Ngừơi thuê mướn súc vật phải chịu trách nhiệm về mọi sự thất thác xẩy ra trong thời gian thuê mướn, trừ phi có giao ước trái lại hay chứng minh được rằng nguyên nhân của sự thất thác đã có sẵn từ trước khi thuê hoặc sự thất thác là do thế bất khả kháng.
Nếu trong thời cho thuê con vật có sinh sản, người chủ được hưởng những con vật mới sinh.
Điều thứ 1141 – Người thuê ghe thuyền cũng phải chịu trách nhiệm như trên, nếu thuyền bị mất, bị đắm.
Ngừơi thuê dụng cụ kỹ nghệ cũng phải chịu trách nhiệm như trên về mọi sự hư hại, phải giữ gìn dụng cụ trong tình trạng tốt và phải làm mọi việc tu sửa cần thiết.
Điều thứ 1142 – Thuê mướn động sản mà không có giấy tờ thì chỉ được coi như thỏa thuận trong thời hạn một năm là cùng.


T I Ế T III
Thuê mướn công tác
Điều thứ 1143 – Người làm khóan có nghĩa vụ làm công việc đúng như đã định trong khế ước.
Điều thứ 1144 – Nếu công việc không làm đúng khế ước, ngừơi thuê có thể từ chối tiếp nhận, hoặc bắt sửa đổi lại cho đúng, hoặc tiếp nhận nhưng giảm bớt tiền đã định.
Điều thứ 1145 – Nếu công việc không làm xong như trong thời gian đã ước định, khế ước có thể bị tiêu hủy và người làm khoán còn phải bồi thường thiệt hại, nhưng khỏi phải bồi thường nếu sự chậm trễ là do một duyên cớ ngẫu nhiên hay một trường hợp bất khả kháng.
Điều thứ 1146 – Trong trường hợp người làm khóan tự cung cấp cả vật liệu, ngừơi này phải chịu trách nhiệm nếu đồ vật bị tiêu hủy hay hư hao không có là vì duyên cớ gì trước khi giao, trừ phi ngừơi thuê làm bị đốc thúc để tiếp nậhn đồ vật.
Điều thứ 1147 – Trong trường hợp ngừơi thuê làm cung cấp vật liệu, ngừơi làm khóan chỉ phải chịu trách nhiệm nếu chính mình có lầm lỗi làm cho đồ vật bị tiêu hủy hay hư hao.
Điều thứ 1148 – Trong trường hợp đồ vật bị tiêu hủy hay hư hao dù không phải vì lỗi của người thầu, ngừơi này cũng không được tiền công, nếu ngừơi thuê làm chưa tiếp nhận, trừ phi đồ vật bị tiêu hủy hay hư hao vì ngừơi làm thuê đã cung cấp vật liệu xấu.
Điều thứ 1149 – Nếu một tòa nhà xây cát khóan bị sụp đổ, một phần hay tòan thể trong năm năm sau khi tiếp nhận, vì xây cất có khuyết điểm hay vì đất lún, ngừơi thầu và kiến trúc sư đều có trách nhiệm, ngoại trừ quyền khiếu tố của ngừơi này đối với ngừơi kia.
Điều thứ 1150 – Người thầu hay kiến trúc sư nhận xây cất một tòa nhà theo một họa đồ đã thỏa thuận với chủ đất không được viện lẽ nhân công, vật liệu lên giá hay có thay đổi, xây cất thêm để đòi tăng tiền công theo thời giá nhân công và vật liệu hay thỏa thuận về mọi sự thay đổi, xây cất thêm, vào họa đồ theo một giá ấn định.
Điều thứ 1151 – Ngừơi thuê làm khoán lúc nào cũng có thể hủy bỏ khế ước trước khi công việc hoàn tất, với điều kiện phải đền bồi cho người thầu mọi khoản chi tiêu, phải trả công và giá tiền về phần đã làm rồi, cùng tiền lợi bị thất thâu trong công tác thầu.
Điều thứ 1152 – Trong sự tương quan với ngừơi thuê khoán, người lãnh khoán phải chịu trách nhiệm về những kẻ do mình dùng để làm việc, kể cả ngừơi thầu lại và cai thầu đã lập ước với mình.
Điều thứ 1153 – Người thuê làm đã trả tiền công tức đã thuận nhận công việc của ngừơi lãnh khóan.
Điều thứ 1154 – Nếu sau khi ngừơi thuê đã thuận nhận và trả tiền lại phát lộ những sự hư hỏng hay khuyết điểm trong công việc, người thuê làm có thể đòi lại một phần tiền, tùy theo sự quan trọng của những khuyết điểm, nhưng chỉ trong hạn một năm kể từ ngày thuận nhận, ngoại trừ trừơng hợp đã định ở điều 1149.
Điều thứ 1155 – Khế ước thuê khoán bị tiêu hủy, nếu người lãnh khóan mệnh một, nhưng ngừơi thuê pbải trả tiền các công tác đã làm với giá tiền các vật liệu đã mua sắm, nếu các công tác và các vật liệu ấy có lợi cho mình.


CHƯƠNG THỨ V
Nói về các khế ước vay mượn
Điều thứ 1156 – Có hai loại khế ước vay mượn:
1) Vay mượn vật không bị tiêu thất vì sự hành dụng: đó là khế ước mượn dùng;
2) Vay mượn vật nếu đã dùng sẽ không còn nữa: đó là khế ước vay nợ.

T I Ế T I
Nói về sự mượn dùng
Điều thứ 1157 – Khế ước mượn dùng là một khế ước do đó một bên đương sự giao cho bên kia một vật để dùng, với nghĩa vụ phải hoàn lại sau khi đã dùng xong.
Điều thứ 1158 – Khế ước mượn dùng là một khế ước vô thừong.
Điều thứ 1169 – Người cho mượn vẫn là sở hữu chủ vật cho mượn.
Điều thứ 1160 - Tất cả những vật đem giao dịch được, nếu là vật không bị tiêu thất, đều có thể là sở vật cho khế ước mượn dùng.
Điều thứ 1161 – Những điều am kết trong khế ước mượn dùng có hiệu lực ràng buộc thừa kế của người mượn cũng như thừa kế của người cho mượn.
Tuy nhiên, nếu ngừơi chủ chỉ muốn cho riêng một người mượn, thì thừa kế của người này không được tiếp tục hưởng dụng vật cho mượn.

PHỤ TIẾT I
Nói về nghĩa vụ của người mượn
Điều thứ 1162 – Người mượn phải giữ gìn vật cẩn trọng và chỉ được dùng theo tác dụng của vật cho mượn và trong thời gian ước định; nếu làm trái, có thể phải bồi thường.
Điều thứ 1163 – Nếu được đem dùng vào một tác dụng khác, hay dùng ngoài thời gian ước định ngừơi mượn phải bồi thường, dù là tiêu thất vì một trường hợp ngẫu nhiên hay bất khả kháng.
Điều thứ 1164 – Nếu vật đã được trị giá khi cho mượn thì người mượn phải chịu trách nhiệm về sự tiêu thất, dầu là tiêu thất vì trường hợp ngẫu nhiên hay bất khả kháng, trừ phi có giao ước trái lại.
Điều thứ 1165 – Nếu vật bị hư hại, hao mòn chỉ vì đem dùng theo tác dụng, ngừơi mượn không phải đền bù sự hư hại, hao mòn ấy.
Điều thứ 1166 – Người mượn không có quyền giữ lại để trừ nợ.
Điều thứ 1167 – Người không được bồi hoàn về những phí tổn đã xuất ra để dùng đồ vật.
Điều thứ 1168 – Nếu có nhiều người cùng mượn chung một đồ vật, tất cả phải chịu trách nhiệm liên đới đối với ngừơi chủ.

PHỤ TIẾT II
Nghĩa vụ của người cho mượn
Điều thứ 1169 – Ngừơi chủ chỉ có thể lấy lại đồ vật sau khi hết hạn đã thuận nhận cho mượn, hay nếu không có giao ước về thời hạn, sau khi đồ vật đã được dùng xong vào chủ đích của việc cho mượn.
Điều thứ 1170 – Tuy nhiên, nếu trước khi ấy, ngừơi chủ bất thần cần dùng đến đồ vật, tòa án có thể, tùy trường hợp, buộc ngừơi mượn phải giao trả.
Điều thứ 1171 – Nếu trong thời gian mượn dùng, để giữ cho vật được toàn vẹn, người mượn phải xuất ra một món chi tiêu bất thường, cần thiết, không cần báo cho ngừơi chủ, ngừơi này sẽ phải hoàn lại phí tổn ấy cho người mượn.
Điều thứ 1172 – Người chủ phải chịu trách nhiệm, nếu biết là đồ vật có tỷ tích có thể gây thiệt hại cho ngừơi mượn, mà không nói trước cho người mượn biết rõ tình trạng ấy.

T I Ế T II
Nói về sự vay mượn

PHỤ TIẾT I
Nói về bản chất khế ước vay nợ
Điều thứ 1173 – Khế ước vay nợ là một khế ước trong đó, một bên đương sự giao cho bên kia một số đồ vật sẽ bị tiêu thất do sự tiêu thụ, ngừơi vay khi tới hạn sẽ phải hòan lại đúng số lượng, cùng loại, cùng hàng như đồ vật đã vay, mặc dầu đồ vật ấy tăng hay sụt giá.
Điều thứ 1174 – Người vay thành sở hữu chủ vật đã vay, và nếu vật bị tiêu thất, không cứ vì duyên cớ gì, người vay vẫn có bổn phận hoàn trả.
Điều thứ 1175 – Nếu vì trường hợp ngẫu nhiên hay bất khả kháng, người vay không thể trả lại được vật cùng loại đã vay, tòa án có thể cho một ân hạn nếu sự cản trở chỉ có tính cách tạm thời, hoặc cho được trả một sồ tiền tương đương thay cho đồ vật.
Điều thứ 1176 – Người vay tiền có nghĩa vụ phải trả đúng số tiền được ghi trong khế ước, mặc dầu tiền tăng giá hay sụt giá.
Điều thứ 1177 – Nếu vay thực phẩm hay vàng bạc bằng thỏi, nên, người vay phải trả đúng số lượng, và cùng hạng, không hơn không kém, mặc dầu thời giá có thay đổi.

PHỤ TIẾT II
Nghĩa vụ của người cho vay
Điều thứ 1178 – Người cho vay không có quyền đòi lại trước khi đến hạn đã định cho người vay phải trả. Nếu không có thời hạn nào được ấn định cho sự trả nợ, tòa án sẽ ấn định tùy theo trường hợp.
Nếu hai bên chỉ ước hẹn rằng ngừơi vay có thể trả khi nào trả được, tòa án sẽ tùy theo tình tiết mà định một hạn cho ngừoi vay.
Điều thứ 1179 – Điều 1172 về việc mượn dùng được áp dụng cho việc vay nợ.

PHỤ TIẾT III
Nghĩa vụ của người vay
Điều thứ 1180 – Đến hạn đã định, người vay phải trả lại đồ vật cùng số lượng và cùng hạng như đã vay.
Điều thứ 1181 – Gặp trường hợp không thể kiếm được đồ vật cùng lọai để trả lại, người vay phải hoàn lại bằng tiền, theo giá trị vào lúc phải trả và ở nơi phải trả.
Nếu không có thời hạn nào và nơi nào được ấn định cho việc trả nợ, sẽ căn cứ vào lúc vay và nơi vay để trị giá.
Điều thứ 1182 – Nếu không có ước định nơi trả nợ, người vay phải trả nơi cư sở hay trú quán của trái chủ.
Điều thứ 1183 – Nếu đến hạn, ngừơi vay không trả sẽ phải chịu tiền lãi kể từ ngày bị đốc thúc hay bị kiện.

T I Ế T III
Nói về sự vay lãi
Điều thứ 1184 – Trong việc vay nợ tiền bạc, thực phẩm hay bất cứ động sản nào khác, hai bên có thể định một số tiền lãi cho ngừơi chủ nợ được hưởng.
Điều thứ 1185 – Chủ nợ chỉ có thể đòi tiền lãi nếu đã có ước định rằng nợ sinh lãi.
Nếu văn tự chỉ nói rằng ngừơi vay phải trả lãi mà không định rõ lợi xuất, thì người vay chỉ phải trả theo lợi xuất pháp định.
Ngừơi vay đã tự ý trả lãi mặc dầu khế ước không bắt buộc sẽ không đòi lại được số lãi đã trả trong giới hạn pháp định, cũng không khấu trừ được số lãi ấy vào tiền vốn.
Điều thứ 1186 – Lợi xuất pháp định cho việc vay nợ dân sự cũng như thương sự sẽ do một bản văn riêng biệt qui định.
Điều thứ 1187 – Lợi xuất ước định về nợ dân sự và thương sự cũng sẽ được qui định như nói ở điều trên.
Điều thứ 1188 – Lợi xuất dân sự nếu ấn định quá 12% và lợi xuất thương sự nếu ấn định quá 24% sẽ phải rút xúông cho bằng mức ấy và số lãi trả thừa sẽ được hoàn lại hoặc khấu trừ vào tiền vốn.
Điều thứ 1189 – Nếu chủ nợ lấy lãi bất hợp pháp và giấu giếm sự trạng ấy bằng cách viết tăng số vốn trong văn tự, hoặc bằng cách nào khác, số lãi ấy không phải trả: nếu trái hộ đã trả rồi, có thể đòi lại hoặc trừ vào tiền vốn, chưa kể chủ nợ có thể bị truy tô về tội cho vay nặng lãi.
Điều thứ 1190 – Lợi ích ước định phải có giấy tờ chứng tỏ.
Điều thứ 1191 – Chủ nợ đã biên nhận tiền vốn mà không dành quyền về tiền lãi phải coi như đã được trả lãi rồi, không cứ vốn, lãi phải trả là tiền bạc hay là thực phẩm.
Điều thứ 1192 – Tiền lãi diên kỳ phải trả theo điều kiện đả định trong khế ước kể từ ngày món nợ đáo hạn cho đến ngày trả hết nợ; hay từ ngày trái hộ bị kiện, bị đốc thúc và theo lợi xuất pháp định cho đến ngày trả hết nợ.
Điều thứ 1193 – Tiền lãi có thể lại sinh lãi, nhưng phải là tiền đã lưu động trong một năm không trả và phải đã có giao ước rõ ràng như thế.
Điều thứ 1194 – Số lãi, không cứ bằng tiền bạc hay bằng thực phẩm, bị tiêu diệt thời hiệu sau năm năm kê từ ngày đáo hạn.


CHƯƠNG THỨ VI
Nói về sự ký thác và cung thác
Điều thứ 1195 – Ký thác là một khế ước trong đó một người nhận lãnh một vật gì của người khác với nghĩa vụ phải gìn giữ và hoàn lại chính đồ vật ấy.
Điều thứ 1196 – Sự ký thác chỉ hoàn tất khi nào đồ vật đã giao cho người thụ ký.
Điều thứ 1197 – Sự ký thác có hai loại: ký thác thực sự và cung thác.

T I Ế T I
Sự ký thác thực sự
Điều thứ 1198 – Sự ký thác là một khế ước vô thường và chỉ động sản có thể là sở vật của sự ký thác.
Điều thứ 1199 – Khi người chủ tự ý đem gửi vật cho một người khác giữ hộ thì đó là sự tự ý ký thác.
Nếu hoàn cảnh bó buộc ký thác thì đó là sự cưỡng bách ký thác.

1.- Sự tỏ ý ký thác
Điều thứ 1200 – Trong sự tự ý ký thác, người chủ tự mình chọn người thụ ký, và thời gian, địa điểm cho sự ký thác.
Điều thứ 1201 – Không riêng người sở hữu chủ mà người nào có lợi cho sự giữ gìn bảo toàn một đồ vật đều có thể đem vật ấy ký thác.
Điều thứ 1202 – Sự ký thác chỉ có thể thành lập giữa các người có đủ năng cách pháp lý để lập ước, ngoại trừ sự áp dụng điều 1203 dưới đây.
Điều thứ 1203 – Nếu đồ vật được một người vô năng cách giao cho một người có đủ năng cách để giữ hô, người này phải chịu tất cả nghĩa vụ của người thụ ký.
Nếu ngược lại, đồ vật được một người có năng cách giao cho một người vô năng cách, người giao chỉ truy hoàn được đồ vật khi nào đồ vật còn do người vô năng cách giữ, hay chỉ đòi được bồi hoàn đến mức độ mà sự ký thác đã làm lợi cho người vô năng cách.
Điều thứ 1204 – Người thụ ký phải giữ gìn bảo toàn đồ vật như của chính mình.
Điều thứ 1205 – Tuy nhiên, trách nhiệm của người thụ ký sẽ phải xét định chặt chẽ hơn:
1) Nếu chính người ấy đã tự mình xin nhận việc ký thác;
2) Hay nếu đặc biệt người ấy có được trả tiền công;
3) Hay nếu sự ký thác chỉ có lợi riêng cho người thư ký;
4) Hay nếu hai bên đã giao ước là người ký thác phải chịu trách nhiệm về tất cả mọi sự lầm lỗi bất phân lớn nhỏ.
Điều thứ 1206 – Người thụ ký không phải chịu trách nhiệm về những tai nạn xẩy ra vì trường hợp bất khả kháng, trừ phi, trước đây, đã bị đốc thúc phải hoàn lại đồ vật.
Điều thứ 1207 – Người thụ ký không được dùng đồ vật vào việc riêng của mình nếu không được người chủ cho phép mặc nhiên hay minh thị.
Điều thứ 1208 – Nếu đồ vật đưa giữ đựng kín trong bao, trong thùng, người thụ ký không được mở những bao thùng ấy.
Điều thứ 1209 – Đồ vật đưa giữ như thế nào, người thụ ký phải trả y nguyên như vậy.
Điều thứ 1210 – Người chủ phải chịu những sự hư hao không do người thụ ký gây ra. Người này chỉ phải trả lại đồ vật theo tình trạng lúc giao hòan.
Điều thứ 1211 – Nếu đồ vật bị tước đoạt vì một nguyên nhân bất khả kháng, mà người thụ ký có nhận được một số tiền hay một vật gì khác thay thế, người thụ ký phải đem số tiền hay đồ vật ấy giao lại cho người ký thác.
Điều thứ 1212 - Nếu thừa kế của người thụ ký, vì không biết, ngay tình đem bán mất đồ vật ký thác thì chỉ phải trả lại giá tiền, nếu người mua chưa trả tiền, người ký thác có thể kiện thẳng người này để đòi giá tiền ấy
Điều thứ 1213 – Nếu vật ký thác có sinh hoa lợi, người thụ ký phải hoàn lại cho người ký thác; tuy nhiên, về tiền bạc ký thác, người thụ ký không phải trả lãi; nếu đã bị đốc thúc sẽ chỉ phải trả tiền lời từ ngày đốc thúc.
Điều thứ 1214 – Người thụ ký phải trả vật ký thác cho người đã gửi, hay người nào được người ta nhân danh ký gửi, hay cho người nào đã được chỉ danh để thụ lãnh đồ vật.
Điều thứ 1215 – Người thụ ký không được bó buộc người đã ký thác phải chứng tỏ quyền sở hữu.
Điều thứ 1216 – Tuy nhiên nếu người thụ ký khám phá ra rằng đồ vật là đồ lấy trộm và biết ai là sở hữu chủ, thì phải báo cho người này biết và đốc thúc phải đòi đồ vật trong một thời hạn phải chăng. Đốc thúc này phải tống đạt cho người ký thác.
Nếu có kiện tụng thì người thụ ký sẽ giữ đồ vật cho đến khi có quyết định của tòa án, hay đến khi có sự điều đình giữa người ký thác và sở hữu chủ.
Quá thời hạn trong đốc thúc làm theo đoạn nhất, nếu sở hữu chủ bị đốc thúc không nhận lại đồ vật ký thác, người thụ ký có quyền giao trả đồ vật cho người ký thác, và được giải nhiệm từ ngày giao hoàn thực sự.
Điều thứ 1217 – Nếu người ký thác mệnh một, đồ vật chỉ có thể trả cho thừa kế. Nếu có nhiều thừa kế, những người này phải thỏa thuận vời nhau để lấy mỗi người một phần tài sản ký thác hoặc chỉ định một người trong bọn được thụ lãnh tài sản ấy.
Điều thứ 1218 – Nếu khế ước ký thác có chỉ định một địa điểm để giao trả đồ vật, người thụ ký phải mang đến nơi để trả, nhưng người ký thác phải chịu phí tổn chuyên chở.
Nếu không có nơi nào khác được chỉ định, đồ vật sẽ được giao trả ở ngay nơi ký thác
Điều thứ 1219 – Nếu người ký thác đã đòi, người thụ ký phải giao trả đồ vật ngay tức khắc, dẫu rằng khế ước có ấn định một thời hạn giao trả mà thời hạn ấy chưa tới; trừ phi, người thụ ký đã được tống đạt sai áp chế chỉ về đồ vật ký thác, hoặc một phản kháng hợp lệ cấm sự giao hòan hay xê dịch đồ vật ký thác.
Điều thứ 1220 – Người ký thác phải hòan lại cho người thụ ký những chi phí về sự giữ gìn bảo toàn đồ vật và bồi thường mọi sự tổn hại do sự ký thác gây ra.
Điều thứ 1221 – Người thụ ký có quyền lưu trì đô vật cho đến khi nào được trả đủ mọi phí khoản thuộc về sự ký thác.
Tuy nhiên, nếu người ký thác cho rằng người thụ ký gia tăng quá đáng những phí khoản đồ vật ký thác, thì có thể yêu cầu tòa án khẩn cấp truyền cho người thụ ký giao trả tức khắc đồ vật, sau khi người ký thác cung thác một số tiến phí khỏan hợp lý do tòa án khẩn cấp tạm thời ước lượng, để chờ đợi chính vụ được giải quyết.
2.- Sự ký thác cưỡng bách
Điều thứ 1222 – Sự ký thác được coi là vì tình thế cưỡng bách khi nào vì gặp một tai nạn hiểm nghèo, bất thần mà người chủ đồ vật phải đem gửi giữ hộ, để tránh cho đồ vật khỏi bị tiêu hủy.
Điều thứ 1223 – Các điều khỏan trên đây vì sự tự ý ký thác đều áp dụng cho sự cưỡng bách ký thác.
Điều thứ 1224 – Những người chủ nhà trọ, chủ khách sạn, chủ tiệm ăn phải chịu trach nhiệm như người thụ ký vầ hành trang, đồ vật của khách hàng. Sự ký thác những hành trang, đồ vật này coi như một sự cưỡng bách ký thác.
Điều thứ 1225 – Chủ nhà trọ, chủ khách sạn, chủ tiệm ăn phải chịu trách nhiệm về việc trộm cắp, hư hại hành trang, đồ vật của khách hàng, dù kẻ trộm hay kẻ làm hư hại là gia nhân, thừa sai, khách hàng hay người lạ ra vào nơi đó.
Tuy nhiên, trách nhiệm trên đây chỉ giới hạn đến 100.000$00 cho tiền bạc, hay đồ trang sức, đồ vật quí giá đã thực sự không giao tay cho người chủ giữ hộ.
Điều thứ 1226 – Chủ nhà trọ, chủ khách sạn, chủ tiệm ăn không phải chịu trách nhiệm về những vụ trộm cướp có vũ khí.


T I Ế T II
Sự cung thác hay quyền trữ
Điều thứ 1227 – Sự cung thác có thể do hai bên đương sự thỏa thuận, đó là cung thác tương thuận; hay do tòa án quyềt định: đó là tư pháp cung thác.
Điều thứ 1228 – Khi nhiều người tự nhận là sở hữu chủ hay cùng đòi chấp hữu một đồ vật, họ có thể thỏa thuận giao đồ vật ấy cho một người đệ tam coi giữ cho đến khi sự tranh chấp được giải quyết để người đệ tam trả cho người nào được công nhận là có quyền. Sự ký thác vật tương tranh trong tay người đệ tam như vậy, là sự cung thác hay quyền trữ.
Điều thứ 1229 - Sự cung thác có thể được trả tiền công hay không có tiền công.
Điều thứ 1230 – Động sản cũng như bất động sản đều có quyền cung thác.
Điều thứ 1231 – Trước khi sự tranh chấp chấm dứt, cung thác viên chỉ có thể được giải trừ nhiệm vụ do sự thỏa thuận của các đương sự hay nếu có duyên cớ được xét là chính đáng.
Điều thứ 1232 – Sự cung thác hay quyền trữ cũng có thể do tòa án quyết định, nếu xét cần, nhất là:
1) Về những động sản sai áp của một trái hộ;
2) Về động sản hay bất động sản mà quyền sở hữu hay sự chấp hữu bị tranh chấp giữa nhiều người;
3) Về những vật mà trái hộ đề nghị trả để được giải thích.
Điều thứ 1233 – Cung thác viên nếu còn được giao nhiệm vụ quản trị tài sản cung thác, phải thu hoạch lợi ích nếu có, để sau này thanh toán.
Điều thứ 1234 – Ngoài ra các điều khoản về sự ký thác đều áp dụng cho sự cung thác.

CHƯƠNG THỨ VII
Nói về những khế ước bất trắc
Điều thứ 1235 – Khế ước bất trắc là khế ước song phương mà hậu quả - làm lợi hay làm thiệt cho những người kết ước – tùy thuộc vào một biến cố không chắc chắn.
Bài bạc, đánh cuợc (đánh cá) là những khế ước bất trắc.
Điều thứ 1236 – Luật pháp không công nhận một tố quyền nào để dòi nợ đánh bạc hay cá cược.
Điều thứ 1237 – Điều luật trên đây không áp dụng cho những trò chơi luyện tập thể dục, nhưng tòa vẫn có thể bác đơn nếu món tiền đòi trong đơn khởi tố xét ra quá đáng.
Điều thứ 1238 – Nếu người thua trong các khế ước bất trắc đã thuận ý trả tiền rồi thì không được đòi lại, trừ phi, người thắng đã dùng mưu chước gian dối để thắng.

CHƯƠNG THỨ VIII
Nói về khế ước ủy quyền (hay ủy thác)

T I Ế T I
Hình thức và tính chất của khế ước ủy quyền
Điều thứ 1239 – Ủy quyền là một khế ước do đó một người trao quyền cho một người khác để nhan danh mình làm một hành vi gì.
Khế ước chỉ hoàn thành khi nào được trao quyền đã thuận nhận.
Người trao quyền gọi là người chủ ủy.
Ngưòi nhận quyền gọi là thụ ủy.
Điều thứ 1240 – Có thể ủy nhiệm bằng văn thư hoặc khẩu ước.
Sự thuận nhận có thể mặc nhiên, khi người thụ ủy đã thi hành nhiệm vụ được ủy thác.
Điều thứ 1241 - Sự ủy quyền có tính cách vô thường nhưng hai bên có thể giao ước trái lại.
Điều thứ 1242 – Sự ủy quyền có thể được đặc định tức là chỉ nhằm riêng một việc hay một số công việc nhất định, hoặc tổng quát tức là bao gồm tất cả công việc của người chủ ủy.
Điều thứ 1243 – Sự ủy quyền, nếu được ưng thuận một cách đại cương, chỉ cho phép người thụ ủy làm những hành vi quản trị: muốn đoạn mai, cầm cố hay làm hành vi gì thuộc về quyền tư hữu, người thụ ủy phải được ủy thác rõ rệt.
Điều thứ 1244 – Người thụ ủy không được làm hành vi gì ngoài phạm vi sự ủy quyền.

T I Ế T II
Nghĩa vụ của người thụ ủy
Điều thứ 1245 – Người thụ ủy, còn được ủy thác, phải thi hành nhiệm vụ đã được ủy thác và phải chịu trách nhiệm về mọi thiệt hại xẩy ra vì những lỗi lầm trong sự thi hành đã đảm nhiệm. Dầu bất thần người thụ ủy mệnh một, người thụ ủy vẫn phải tiếp tục thi hành nếu sự thi hành không thể bỏ đở được.
Điều thứ 1246 – Người thụ ủy không những phải chịu trách nhiệm về sự gian trá của mình, mà còn phải chịu trách nhiệm cả về những lỗi lầm trong khi thi hành nhiệm vụ.
Tuy nhiên, trách nhiệm về những lỗi lầm của người thụ ủy không được thù lao sẽ được xét định khoan hồng hơn là đối với người thụ ủy có thù lao.
Điều thứ 1247 – Khi sự ủy quyền đã chấm dứt, hay bất cứ lúc nào, nếu người chủ ủy yêu cầu, người thụ ủy phải tường trình về công việc đã làm.
Điều thứ 1248 – Người thụ ủy phải hoàn lại tất cả tiền bạc hay tài vật đã nhận thay cho người chủ ủy nhận sự ủy quyền, nhưng được khấu trừ đi những số tiền chi phí về sự thi hành ủy thác.
Điều thứ 1249 – Người thụ ủy tự tiện dùng tiền bạc của người chủ ủy vào việc riêng của mình, phải đương nhiên chịu tiền lời kể từ ngày dùng, chưa kể phải bồi thường thiệt hại, nếu có.
Điều thứ 1250 – Nếu nhờ người khác thay thế mình, người thụ ủy phải chịu trách nhiệm về hành vi của người này:
1) Nếu giấy tờ không minh thị dự liệu rằng người ấy được nhờ người khác thay thế;
2) Và mặc dầu giấy ủy quyền có cho phép, nếu người thụ ủy đã chọn một người hiển nhiên thiếu khả năng hay vô tư sản để thay thế.
Trong mọi trường hợp, người chủ ủy đều có quyền trực tố người thay thế cho người thụ ủy.
Điều thứ 1251 – Khi nhiều người cùng được ủy quyền bằng một chứng thư, họ chỉ chịu trách nhiệm liên đới nếu giấy ủy quyền có nói rõ.
Điều thứ 1252 – Người thụ ủy không phải chịu trách nhệim bản thân đối với người đệ tam về những hành vi đã làm với người này nhân danh người chủ ủy, trừ phi người thụ ủy đã cam kết chịu trách nhiệm hay đã tự nhận là có quyền ủy thác để hành động mà thực ra không có.
Nếu sự khước từ không có lý do cần thiết hay chính đáng và làm thiệt hại cho người chủ ủy, người thụ ủy phải bồi thường.
Đìều thứ 1253 – Nếu người thụ ủy không biết rằng người chủ ủy đã mệnh một mà cứ tiếp tục công việc, những hành vi này đều hữu hiệu, nhưng người thụ ủy phải chứng tỏ rằng vào lúc đó, không biết rằng người chủ ủy đã mệnh một.

CHƯƠNG THỨ IX
Khế ước lập hội

T I Ế T I
Tổng tắc
Điều thứ 1264 – Khế ước lập hội là khế ước theo đó hai hay nhiều người đồng ý góp công, góp của để hoạt động với mục đích kiếm được lời cùng chia, nhưng nếu thua lỗ cùng chịu.
Điều thứ 1265 – Hội đoàn thành lập như trên có tính cách dân sự hay thương sự tùy theo mục tiêu của hội đoàn là những hành vi dân sự hay hành vi thương mại.
Điều thứ 1266 – Tuy nhiên, những hội đoàn thành lập dưới một trong những hình thức dưới đây đều là hội buôn, bất kể mục tiêu của hội đoàn có tính cách dân sự hay thương sự:
1) Công ty cổ phần,
2) Công ty trách nhiệm hữu hạn.
Điều thứ 1267 – Chương này chỉ áp dụng cho các hội buôn về những điểm không trái với luật lệ thương mại.
Điều thứ 1268 – Tiền bạc, tài sản hay công lao của mỗi hội viên góp vào hội là phần hùn của hội viên ấy.
Phần hùn của các hội viên có thể không đồng đều.
Điều thứ 1269 – Hội đoàn nào cũng phải có mục tiêu hợp pháp, và thành lập nhằm quyền lợi chung của tất cả các hội viên.
Điều thứ 1270 – Lập hội phải làm văn tự nếu số vốn trên 100.000$00. Phần hùn bằng công lao sẽ phải trị giá theo sự thỏa thuận của các người lập hội, để ước lượng số vốn của hội.
Nếu có phần hùn bằng bất động sản, khế ước phải làm theo hình thức công chứng thư và phải đăng ký vào sổ bộ điền thổ.
Điều thứ 1271 – Nếu lập hội có văn tự thì, bất kể số vốn là bao nhiêu, không được viện dẫn nhân chứng để chứng tò sự việc gì trái với văn tự.


T I Ế T II
Quyền lợi và nghĩa vụ của các hội viên
Điều thứ 1272 – Hội khởi đầu từ ngày ký khế ước, nếu không ấn định ngày khác.
Cùng ngày ấy mỗi hội viên phải mang phần hùn góp cho hội, nếu không, phải đương nhiên chịu lãi hay hoa lợi của phần hùn, chưa kể phải bồi thường mọi sự thiệt hại khác, nếu có.
Điều thứ 1273 – Hội viên đã cam kết góp công lao vào hội mà khiếm khuyết nghĩa vụ, phải bồi thường cho hội về sự khiếm khuyết ấy.
Điều thứ 1274 – Hội viên nào đã cam kết góp vào hội một đồ vật thực thể, không cừ là động sản hay bất động sản – sẽ có trách vụ phải bảo đảm cho hội, cũng như một người bán, về mọi sự truất đoạt, quấy rối, về số lượng, diện tích và ẩn tì của đồ vật.
Nếu hội viên chỉ cam kết cho hội được hưởng dụng đồ vật thì sẽ có trách vụ bảo đảm của một người cho thưê.
Điều thứ 1275 – Mỗi hội viên có quyền hùn hiệp với người đệ tam về kỷ phần của mình trong hội, nhưng không có quyền đem người đệ tam ấy nhập hộ, nếu không có sự ưng thuận của các hội viên khác.
Điều thứ 1276 – Đều vô hiệu những điều khoản nào dành riêng cho một hội viên hay một số hội viên tất cả lời lãi của hội, hay miễn cho họ không phải chịu một phần thua lỗ nào.
Điều thứ 1277 – Nếu khế ước không phân định kỷ phần lỗ lãi cho mỗi hội viên, kỷ phần ấy sẽ tính theo tỷ lệ phần hùn của mỗi người đã góp vào hội.
Đối với người đã góp phần hùn bằng công lao, phần này sẽ coi như phần hùn nhỏ nhất bằng tài sản.

T I Ế T III
Sự quản trị hội đòan
Điều thứ 1278 – Cách quản trị hội đoàn phải chiếu theo khế ước lập hội, nếu khế ước thiếu sót thì sẽ áp dụng các thể lệ sau đây:
Điều thứ 1279 – Hội viên nào được khế ước lập hội chỉ định làm quản lý, có quyền làm tất cả những việc thuộc về quản trị, dẫu rằng các hội viên khác không đồng ý, miễn là không hành động cách giản dị.
Điều thứ 1280 – Người quản lý được chỉ định trong khế ước lập hội chỉ có thể bị truất bãi, nếu có nguyên nhân chính đáng.
Nhưng nếu được chỉ định do một văn thư khác, sau khi hội đã thành lập, người quản lý lúc nào cũng có thể bị truất quyền như một người thụ ủy.
Điều thứ 1281 – Nếu có nhiều người cùng được cử làm quản lý mà chức vụ của mỗi người không ấn định rõ ràng và hội quy cũng không bắt buộc họ cùng phải đồng ý mới được hành động, mỗi người đều có quyền riêng để làm những công việc thuộc về quản trị.
Điều thứ 1282 – Nếu những người quản lý đã được chỉ định với điều kiện phải cùng nhau thỏa thuận hành động thì không người nào được quyền tự quyết bất kể trong trường hợp nào, dẫu rằng người đồng quản lý bị cản trở không tham dự được vào việc quản trị cũng vậy.
Trừ phi có sự giao ước mới cho phép một quản lý được riêng mình hành động.
Điều thứ 1283 – Nếu giữa các hội viên không có sự giáo ước gì về công việc quản trị, mỗi hội viên đều có quyền làm những việc ấy: hành động của hội viên này có hiệu lực đối với các hội viên khác, nhưng mỗi người đều có quyền phản kháng trước khi công việc được làm để hội quyết định theo đa số hội viên dự bàn.
Mỗi hội viên có quyền dùng tài sản của hội, miễn là không hành động trái với quyền lợi của hội và không cản trợ quyền lợi của hội viên khác.
Mỗi hội viên có quyền buộc các hội viên khác phải góp phần vào những chi tiêu cần thiết cho sự bảo tồn của hội.
Điều thứ 1284 – Ngoài công việc quản trị, những biện pháp phải sử dụng để thi hành hội quy đều do đa số hội viên dự bàn quyết định như thay thế quản trị viên mệnh chung, từ chức hay bị truất bãi.
Điều thứ 1285 – Tất cả những sửa đổi hội quy và những công việc không có dự liệu trước trong hội quy đều phải do tòan thể hội viên quyết định.
Trừ phi hội quy hay luật pháp có định khác.
Điều thứ 1286 – Bất kể hội viên nào, dầu là quản trị hay không, phải bồi thường cho hội về những thiệt hại do sự lầm lỗi hay sơ xuất của người ấy đã gây ra cho hội.
Những sự thiệt hại ấy không được bù trừ với những lợi lộc mà hội viên có thể mang lại cho hội về những công việc khác, trừ phi những công việc bị thiết và những công việc được lợi có liên hệ với nhau.
Điều thứ 1287 – Hội viên nào đã lãnh việc quản trị chỉ vì không có quản lý được chỉ định, chỉ phải chịu trách nhiệm về những lỗi lầm của mình nếu đã trông nom, quản trị công việc không được cẩn trọng như công việc của chính mình.
Điều thứ 1288 – Dù là quản trị viên hay không, hội viên nào cũng có quyền hoàn lại mọi số tiền đã ứng trước để chi tiêu cho hội, hoặc buộc hội phải duyệt y những khế ước mà ngay tình họ đã ký kết để làm lợi cho hội.

Hội viên cũng có quyền được bồi hoàn về mọi sự thiệt hại đã phải chịu nhân sự quản trị của hội.
T I Ế T IV
Nói về sự tan rã hội đoàn
Điều thứ 1289 – Hội đoàn tan rã:
1) Khi nào khế ước lập hội mãn hạn;
2) Khi nào mục tiêu của hội đã đạt hay vì tình thế không thể đạt được;
3) Khi vốn của hội đã hoàn toàn tiêu thất;
4) Do sự mệnh một, khánh tận hay cấm quyền của một hội viên, trừ phi hội quy đã quy định trước rằng luật sẽ tiếp tục với các thừa kế, hay tiếp tục giữa các hội viên còn lại;
5) Do sự tiêu thất tài sản của một hội viên phải góp vào hội, nếu tài sản ấy chưa được giao cho hội;
6) Do ý định của toàn thể hội viên.
Điều thứ 1290 – Sự triển kỳ thời hạn của hội doàn cũng theo những thể lệ đã dặt cho việc lập hội.
Tuy nhiên sự triển kỳ được coi như mặc nhiên, nếu sau khi hết hạn, cá hội viên đều vẫn tiếp tục hoạt động về công việc của hội.
Điều thứ 1291 – Hội viên chỉ có thể xin giải tàn hội đoàn trước khi mãn hạn nếu có lý do chánh đáng, chẳng hạn khi có hội viên không chịu thi hành nghĩa vụ của mình, hay vì bệnh tật không thi hành được nhiệm vụ của hội giao cho, hay có sự bất hòa giữa các hội viên làm cản trở công việc của hội, hay vì một lý do gì khác tùy sự thẩm lượng của thẩm phán.
Điều thứ 1292 – Trong một hội vô hạn định, một hay nhiều hội viên đều có quyền xin ra hội,, hội đoàn tiếp tục với số hội viên còn lại, trừ phi chỉ còn lại một hội viên, hoặc hội quy đã định trước rằng hội đoàn phải tan rã.
Điều thứ 1293 - Hội viên muốn xin ra hội trong trường hợp nói trên tại điều luật trên phải tống đạt ý định của mình cho tất cả các hội viên khác. Các hội viên này có thể không chấp thuận nếu xét rằng việc ra hội có nguyên nhân gian tình hay có hậu quả bất lợi cho hội.
Điều thứ 1294 – Việc ra hội có tính cách gian tình khi nào hội viên xin ra hội để riêng mình làm lấy và hưởng lợi về một công việc do người ấy đang làm dở dang cho hội.
Điều thứ 1295 – Trong trường hợp một hội viên mệnh một mà hội đoàn tiếp tục giữa các hội viên còn lại, các thừa kế của người mệnh một chỉ được hưởng:
1) Quyền lợi của người này theo tình trạng của đôi khi mệnh một;
2) Quyền lợi nào của người quá cố là hậu quả trực tiếp và tất nhiên của những công việc mà hội đã làm trước khi mệnh một.
Điều thứ 1296 – Nếu hội quy đã định rằng hội đoàn tiếp tục với các thừa kế của người mệnh một, các thừa kế này đương nhiên thành hội viên, dẫu rằng trong số các thừa kế có người còn vị thành niên.


T I Ế T V
Nói về sự thanh toán và phân chia hội đoàn
Điều thứ 1297 – Sau khi giải tán, hội đòan phải thanh toán và phân chia. Phải thanh toán trước rồi phân chia sau. Sự thanh tóan và phân chia sẽ được làm chiếu theo quyết định hội quy hoặc nếu hội quy không dự liệu, theo sự thỏa thuận của các hội viên. Nếu không thỏa thuận được với nhau, sự thanh toán và phân chia được làm theo các điều luật sau.
Điều thứ 1298 – Sự thanh toán gồm có những việc:
a) Hoàn tất những công việc đang làm dở dang;
b) Trả những trái vụ, tức trả những công nợ do hội còn thiếu của người đệ tam và thu những trái quyền, tức là thu những món nợ do người đệ tam thiếu của hội;
c) Kết thúc tình trạng kế toán riêng của mỗi hội viên đối với hội;
d) Ấn định phần lãi của mỗi hội viên được hưởng, hoặc phần lỗ của mỗi hội viên phải chịu.
Điều thứ 1299 – Sự thanh toán sẽ do tất cả các hội viên cùng làm, hay do một vài người đảm nhận, hoặc do một người đệ tam được chỉ định theo đa số hội viên dự bàn.
Nếu các hội viên không hiệp ý được để lựa chọn người thanh tóan, một hội viên có thể theo thủ tục cấp thẩm xin tòa chỉ định.
Điều thứ 1300 – Trong mọi trường hợp, thanh toán viên phải bán những tài sản nào dễ bị hư hại không giữ được lâu.
Đều thứ 1301 – Nếu cần để trả nợ, thanh toán viên có thể bán những bất động sản thừơng dùng.
Nếu cần bán bất động sản hay chứng khóan, hoặc điều đình về một điều gì, thanh tóan viên phải được đa số hội viên cho phép – đa số này là đa số hội viên dự bàn để quyết định về việc đoạn mại hay điều đình.
Điều thứ 1302 – Thanh toán viên có quyền làm những hành vi bảo tồn quyền lợi của hội, khởi tố và theo kiện trước tòa án nhân danh hợi coi như còn tồn tại trong thời gian thanh toán.
Điều thứ 1303 – Sau khi hoàn tất, việc thanh tóan phải được tường trình cho tất cả các hội viên trong một buổi đại hội do thanh toán viên triệu tập để chuẩn y.
Hội viên sẽ biểu quyết theo đa số những ngừơi dự bàn.
Hội viên vắng mặt có thể ủy quyền cho một hội viên khác biểu quyết.
Có thể biểu quyết về toàn thể phúc trình của thanh toán viên, hoặc biểu quyết riêng về mỗi vấn đề trong phúc trình.
Điều thứ 1304 – Trách nhiệm của thanh toán viên là trách nhiệm của người thụ ủy. Hiệu lực những hành vi của thanh toán viên, đối với các hội viên và đối với người đệ tam là hịệu lực hành vi của người thụ ủy.
Điều thứ 1305 – Sau khi thanh toán, những tài sản còn lại sẽ được thanh tóan viên phân chia cho các hội viên theo hội quy và lâm thời, theo thể lệ đã định trong luật này về việc phân chia di sản.


CHƯƠNG THỨ X
Nói về sự điều đình
Điều thứ 1306 – Điều đình là một khế ước theo đó các đương sự nhượng bộ lẫn nhau để chấm dứt một sự tranh chấp đã pháp sinh hay để phòng ngừa một sự tranh chấp có thể xẩy đến.
Điều thứ 1307 – Muốn điều đình phải có đủ năng cách pháp lý để sử dụng quyền lợi và tài sản, mục tiêu của sự điều đình.
Người giam hộ chỉ có thể điều đình thay mặt cho vị thành niên hay người bị cấm quyền, theo những thể thức đã định ở điều 325 bộ luật này.
Người giám hộ chỉ có thể điều đình với vị thành niên đã trưởng thành, về công việc giám hộ, hai tháng sau khi đã giao cho người này bản khai trình kế tóan về việc giám hộ theo điều 329 cùng giấy tờ minh xác.
Điều thứ 1308 – Việc điều đình phải được xác nhận bằng văn tự. Nếu điều đình về bất động sản, văn tự phải làm dưới hình thức công chứng thư.
Điều thứ 1309 – Có thể điều đình về quyền lợi dân sự phát sinh do một sự phạm pháp, nhưng không thể điều đình về chính sự phạm pháp, cũng như về tất cả những vấn đề liên quan đến trật tự công cộng.
Điều thứ 1310 – Trong văn thư điều đình, hai bên có thể dự liệu sự trừng phạt để áp dụng cho bên nào không chịu tuân hành.
Điều thứ 1311 – Điều đình về việc gì thì chỉ riêng việc ấy chấm dứt: sự khước từ quyền lợi được nêu lên trong văn thư điều đình chỉ có nghĩa là khước từ những quyền lợi liên quan đến việc tranh chấp do sự điều đình chấm dứt.
Điều thứ 1312 – Sự điều đình với một đương sự không có hiệu lực đối với những đương sự khác và những người này cũng không nại được sự điều đình.
Điều thứ 1313 – Giữa các người đã điều đình với nhau, sự điều đình có uy lực quyết tụng của một án văn chung thẩm; không bên nào còn có thể viện lẽ bị thiệt thòi hay bị lầm lẫn về pháp lý để khiếu tố nữa.
Điều thứ 1314 – Tuy nhiên, sự điều đình có thể bị tiêu hủy nếu có lầm lẫn về đối tượng của việc điều đình; hay nếu một bên đã dùng bạo hành; hoặc mưu gian chước dối để điều đình.
Điều thứ 1315 – Sự điều đình cũng có thể bị tiêu hủy nếu là điều đình về quyền lợi xuất phát ở một văn thư vô hiệu, trừ phi hai bên có điều đình cả về sự vô hiệu ấy.
Điều thứ 1316 – Sự điều đình sẽ hoàn toàn vô hiệu nếu căn cứ vào những giấy tờ sau này xét ra là giấy tờ giả mạo.
Điều thứ 1317 – Sự điều đình về một vụ tranh tụng kết liễu bằng một án văn đã thành nhất định cũng vô hiệu, nếu khi điều đình hai bên chưa biết án văn ấy.
Tuy nhiên, đương sự được một án văn nhất định có thể điều đình để tránh những sự khó khăn về chấp hành án văn ấy.
Điều thứ 1318 – Nếu sau khi điều đình xong, lại tìm thấy giấy tờ do một bên dụng tâm giữ lại vì có lợi cho bên kia, sự điều đình sẽ vô hiệu.
Điều thứ 1319 – Nếu giấy tờ mới tìm thấy chứng tỏ rằng một bên đương sự không có quyền lợi gì hết để điều đình, thì mặc dầu giấy tờ không do bên nào giữ lại sự điều đình cũng vô hiệu.
Tuy nhiên, sự điều đình sẽ được giữ nguyên nếu là điều đình vầ tât cả các việc tranh chấp hiện có giữa hai bên và nếu một bên đương sự chỉ không có quyền lợi riêng về một khỏan điều đình.
Điều thứ 1320 – Những sự sai lầm về tóan số trong văn thư điều đình có thể được sửa lại.


THIÊN THỨ VI
Nói về những khế ước bảo chứng
Và những vật quyền phụ thuộc
Điều thứ 1321 – Khế ước bảo chứng là những khế ước có mục đích bảo đảm quyền lợi cho chủ nợ trong trường hợp trái hộ lâm vào tình trạng vô tư lực không trả được nợ.
Muốn được hữu hiệu, khế ước bảo chứng phải làm bằng văn tự, ngoại trừ về thể lệ riêng về luật thương mại.
Điều thứ 1322 – Sự bảo chứng có thể thành tựu:
1) Do một người nhận bảo lãnh cho trái hộ và cam kết sẽ trả nợ thay thế cho người này nếu người này không trả;
2) hay do trái hộ đem một hoặc nhiều tài sản sung dụng riêng vào việc trả nợ.
- Trường hợp thứ nhất là sự bảo chứng đối nhân tức là sự bảo lãnh.
- Trường hợp thứ hai là sự bảo chứng đối vật, tạo ra cho chủ nợ một vật quyền trên tài sản đã sung dụng đễ trả nợ: đó là sự điển áp hay thế chấp và sự để đương.

CHƯƠNG THỨ NHẤT
Nói về sự bảo lãnh

T I Ế T I
Tính chất và giới hạn của sự bảo lãnh
Điều thứ 1323 – Người nào nhận bảo lãnh một nghĩa vụ tức là cam kết với trái chủ sẽ thi hành nghĩa vụ ấy, nếu chính trái hộ không thi hành.
Điều thứ 1324 – Sự bảo lãnh chi có giá trí nếu nghĩa vụ chính cũng có nghĩa vụ.
Tuy nhiên, sự bảo lãnh vẫn có giá trị mặc dầu nghĩa vụ chính vô hiệu về một nguyên nhân riêng biệt về phần người giám hộ vì dụ vì người này còn vị thành niên.
Điều thú 1325 – Sự bảo lãnh không thể được suy đoán mà phải có sự cam kết minh thị rõ ràng.
Điều thứ 1326 – Sự bảo lãnh không thể vượt quá phạm vi nghĩa vụ chính, cũng không thể được ghép vào những điều kiện nặng nề hơn nghĩa vụ chính.
Nhưng có thể chỉ bảo lãnh một phần món nợ, hoặc với những điều kiện dễ dãi, nhẹ nhàng hơn nghĩa vụ chính.
Sự bảo lãnh quá phạm vi nghĩa vụ chính, hay nặng nề hơn nghĩa vụ chính không vì thế mà vô hiệu; sẽ phải chỉ giảm bớt đi cho vừa tầm nghĩa vụ chính.
Điều thứ 1327 – Có thể bảo lãnh cho một người mà không cần ngưới này biết.
Cũng có thể bảo lãnh cho một người bảo lãnh khác.
Điều thứ 1328 – Sự bảo lãnh vô hạn định bao gồm cả nghĩa vụ chính và các phụ khoản, kể cả các tụng phí.
Điều thứ 1329 – Nếu người bảo lãnh trở nên vô tư lực, trái hộ phải tìm một người khác thay thế, trừ phi người trước đã do chính phủ nợ lựa chọn.


T I Ế T II
Hậu quả của sự bảo lãnh
1.- Hậu quả giữa chủ nợ với người bảo lãnh
Điều thứ 1330 – Người bảo lãnh không thể bị đòi hỏi trước khi món nợ đáo hạn. Dẫu trái hộ bị truất hạn kỳ, người bảo lãnh vẫn được hưởng hạn kỳ ấy.
Điều thứ 1331 – Chủ nợ có thể truy sách người bảo lãnh đồng thời với trái hộ chính, hoặc trước hay sau trái hộ chính.
Tuy nhiên, trong hai trường hợp trên, người bảo lãnh có quyền viện dẫn biệt lợi hậu truy.
Điều thứ 1332 – Viện dẫn biệt lợi hậu truy là đòi trái chủ phải truy sách người trái hộ chính trước.
Muốn vậy người bảo lãnh phải viện dẫn khước biện này ngay sau khi bị truy sách và phải chỉ định cho chủ nợ biết những tài sản nào của trái hộ có thể chấp hành được để trả nợ.
Những tài sản này phải là những tài sản ở trong quản hạt tòa thượng thẩm nơi phải trả nợ và không bị người nào tranh chấp.
Điều thứ 1333 – Nếu người bảo lãnh đã chỉ định tài sản theo điều trên mà chủ nợ không truy sách, chủ nợ sẽ phải chịu thiệt riêng, tới mức giá trị những tài sản ấy, không còn trách cứ được người bảo lãnh nếu xẩy ra trường hợp trái hộ trở thành vô tự lực.
Điều thứ 1334 – Những điều 1332, 1333 sẽ không áp dụng cho người bảo lãnh đã từ khước biệt lợi hậu truy hay đã cam kết liên đới với trái hộ chính.
Điều thứ 1335 – Nếu có nhiều người cùng bảo lãnh một món nợ, mỗi người phải chịu trách nhiệm về tất cả món nợ.
Điều thứ 1336 – Tuy nhiên, mỗi người bảo lãnh đều có quyền đòi chủ nợ phân chia món nợ giữa các người bảo lãnh, trừ phi họ đã khước từ biệt lợi phân chia này.
Điều thứ 1337 – Nếu chủ nợ đã tự ý phân chia sự truy sách giữa các người bảo lãnh thì không thể còn thay đổi ý kiến đòi riêng người bảo lãnh nào phải trả tất cả món nợ.
2.- Hậu quả giữa trái hộ với người bảo lãnh
Điều thứ 1338 – Người bảo lãnh đã trả nợ có quyền khiếu tố đòi trái hộ chính tiền vốn, tiền lời và phí tổn.
Điều thứ 1339 – Người bảo lãnh đã trả nợ được kế vị chủ nợ trong tất cả quyền lợi của người này.
Điều thứ 1340 – Nếu có nhiều trái hộ liên đới trong cùng một món nợ và cùng được bảo lãnh, người bảo lãnh có quyền khiếu tố riêng từng người để đòi lại tất cả số tiền người ấy đã trả cho chủ nợ.
Điều thứ 1341 – Người bảo lãnh, nếu trả tiền cho chủ nợ mà không báo cho chủ nợ biết để người này lại trả một lần thứ hai, sẽ không khiếu tố được trái hộ mà chỉ có thể đòi chủ nợ phải hòan lại.
Người bảo lãnh không bị truy sách lại trả tiền cho chủ nợ không báo cho trái hộ biết, sẽ không khiếu tố được người này, nếu vào lúc nợ được trả, trái hộ ở vào trường hợp có thể nại rằng món nợ đã tiêu trừ, nhưng cũng có thể đòi chủ nợ phải hoàn lại.
Điều thứ 1342 – Người bảo lãnh dầu chưa trả nợ, cũng có thể kiện trái hộ để đòi trái hộ bồi thường:
1) Nếu người bảo lãnh đã bị chủ nợ kiện đòi nợ;
2) Nếu trái hộ bị khánh tận hay vỡ nợ dân sự;
3) Nếu trái hộ đã cam kết sẽ giải trừ nghĩa vụ cho người bảo lãnh trong một thời gian àno đó;
4) Nếu món nợ đã đáo hạn.

3.- Hậu quả giữa các người bảo lãnh
Điều thứ 1343 – Nếu nhiều người cùng bảo lãnh cho một người cùng về một món nợ, người bảo lãnh nào đã trả nợ có quyền khiếu tố những người kia để đòi mỗi người phần mà họ phải trả.


T I Ế T III
Nói về sự tiêu trừ bảo lãnh
Điều thứ 1344 – Sự bảo lãnh bị tiêu trừ do tất cả những nguyên nhân làm tiêu trừ nghĩa vụ.
Điều thứ 1345 – Nếu có sự hỗn nhập tư cách của trái hộ chính với người bảo lãnh vì người nọ được thừa kế người kia, chủ nợ vẫn có thể truy sách người đã nhận bảo lãnh cho người bảo lãnh.
Điều thứ 1346 – Người bảo lãnh có thể đem đối kháng với chủ nợ tất cả những khước biện liên thuộc vào món nợ mà trái hộ chính có thể viện dẫn, nhưng không nại được những khước biện nào hòan toàn thuộc về cá nhân người trái hộ.
Điều thứ 1347 – Người bảo lãnh được giải trừ nghĩa vụ nếu chủ nợ có sự sơ xuất hay lầm lỗi làm cho người bảo lãnh không còn được kế vị người chủ nợ để hưởng quyền lợi của người này.
Điều thứ 1348 – Nếu chủ nợ đã nhận một tài sản gì của trái hộ để trả nợ thay món nợ chính, người bảo lãnh cũng được giải trừ nghĩa vụ, dẫu rằng sau này chủ nợ có bị truất đoạt mất tài sản ấy.
Điều thứ 1349 – Nếu chủ nợ gia hạn cho trái hộ chính, người bảo lãnh không vì thế mà được giải trừ nghĩa vụ, nhưng cũng được hưởng sự gia hạn như trái hộ chính.

CHƯƠNG THỨ II
Nói về sự thế chấp

T I Ế T I
Nói về sự thế chấp động sản hay cầm đồ
Điều thứ 1350 – Cầm đồ là khế ước do đấy, trái hộ giao cho chủ nợ một động sản để bảo đảm cho món nợ.
Do sự bảo đảm này, chủ nợ được quyền ưu tiên lấy nợ trước các chủ nợ khác trên đồ vật đã cầm.
Điều thứ 1351 – Khế ước cầm đồ phải có văn tự xác nhận mới có giá trị, nếu món nợ trên hai chục ngàn đồng (20.000$00).
Văn tự phải ghi rõ số tiền vay và đồ vật cầm là đồ vật gì.
Không những thế, việc cầm đồ chỉ được hoàn tất, và chủ nợ chỉ được quyền ưu tiên nếu đồ vật đã giao cho chủ nợ và cần được chủ nợ chấp hữu.
Tuy nhiên, hai bên cũng có thể thỏa thuận giao đồ vật cho một người đệ tam chấp hữu.
Điều thứ 1352 – Nếu đồ vật đem cầm là một động sản vô hình, như một trái quyền, khế ước phải được tống đạt cho người nợ trái quyền áy.
Điều thứ 1353 – Một người đệ tam có thể đem một đồ vật của mình đem cho chủ nợ làm vật bảo đảm cho người vay nợ.
Điều thứ 1354 – Nếu khế ước không định thời hạn trả nợ, thời hạn này sẽ là một năm.
Điều thứ 1355 - Chủ nợ không được hưởng hoa lợi, cũng không đươc dùng đồ cầm trừ phi có giao ước trái lại.
Điều thứ 1356 – Chủ nợ phải giữ và phải chăm nom đồ vật, đem cầm, nếu vì sơ xuất hay lỗi lầm để cho đồ vật bị mất hay bị hư hại, sẽ phải chịu trách nhiệm.
Ngược lại, người vay nợ, phải bồi hoàn cho chủ nợ những chi tiêu nào xét ra là cần ích để giữ gìn đồ vật.
Điều thứ 1357 – Khi món nợ đáo hạn, chủ nợ, nếu đã được trả, phải hoàn lại đồ vật. Nếu chưa được trả, chủ nợ có quyền cứ giữ đồ vật.
Điều thứ 1358 – Nếu chủ nợ lạm dụng đồ cầm, vi phạm những điều 1355 và 1356 trên đây, trái hộ có quyền đòi chủ nợ phải giao trả lại đồ vật.
Điều thứ 1359 – Chủ nợ không đương nhiên thành sở hữu chủ vật cầm. Nếu không được trả nợ khi đáo hạn chủ nợ phải xin đấu giá phát mại đồ vật ấy, hoặc xin tòa cử giám định viên trị giá đồ vật để cho phép chủ nợ giữ lại đồ vật mà trừ nợ tới giá ước lượng; nếu đồ vật được trị giá cao hơn, chủ nợ cũng có thể được giữ đồ vật và trả thêm cho trái hộ số sai biệt.
Điều thứ 1360 – Đồ vật đem cầm không thể được đem chia, dẫu rằng món nợ được phân chia giữa các thừa kế của chủ nợ hay trái hộ.
Một thừa kế của trái hộ, dẫu đã trả phần nợ mà người ấy phải đảm trách, cũng không có quyền đòi kỷ phần trong đồ vật cầm cố, nếu nợ chưa trả đủ.
Ngược lại, một thừa kế của chủ nợ dẫu đã được trả kỷ phần trong trái quyền được hưởng, cũng không có quyền giao trả đồ cầm cho trái hộ để làm thiệt hại cho các thừa kế khác chưa được trả nợ.
Điều thứ 1361 – Những điều khoản trên đây không áp dụng cho những tiệm cầm đồ, đã có thể lệ riêng.

T I Ế T II
Nói về thế chấp bất động sản
Điều thứ 1362 – Thế chấp bất động sản là giao cho chủ nợ một bất động sản để bảo đảm cho một món nợ: cho đến khi được trả đủ nợ, chủ nợ có quyền giữ bất động sản làm tin.
Điều thứ 1363 – Bất động sản có thể giao cho chủ nợ một cách thực sự cho người ấy chấp hữu, hay chỉ giao một cách giả định bằng cách đưa bằng khóan cho chủ nợ, hay đem văn tự tạo mãi nếu bất động sản chưa có bằng khoán.
Điều thứ 1364 – Sự thế chấp phải do một công chính chứng thư tạo lập.
Có thể thỏa thuận thế chấp ngay trong khế ước chính hay trong một văn thư riêng bệit.
Chứng thư phải đăng ký vào sổ điền địa, sự thế chấp mới đối kháng được với người đệ tam.
Điều thứ 1365 – Một bất động sản không được thế cháp cho nhiều chủ nợ, trừ phi là chủ nợ liên đới, một bất động sản đã để đương rồi cũng không thể được thế chấp.
Điều thứ 1366 – Nếu bất động sản được thực sự giao cho chủ nợ chấp hữu, người này được hoàn toàn hưởng dụng bất động sản: được cầy cấy, khai khẩn, hưởng mọi hoa lợi; nhưng phải chịu các thứ thuế và đảm phụ đồng niên về lợi tức, và phải đài thọ mọi sự sửa chữa cần ích.
Điều thứ 1367 – Chủ nợ, nếu không ưng chịu những nghĩa vụ trên này, có thể buộc người vay phải lấy lại quyền hưởng dụng bất động sản.
Điều thứ 1368 – Chủ nợ thế chấp phải giữ gìn bất động sản, nếu sơ xuất hay lầm lỗi để cho bất động sản giảm giá trị sẽ phải chịu trách nhiệm.
Điều thứ 1369 – Chủ nợ thế chấp có thể nhượng quyền thế chấp vô thường hay hữu thường cho người đệ tam, nhưng phải được người vay ưng thuận.
Sự nhượng quyền cũng phải lập chứng thư và đăng ký như đã định cho việc thế chấp.
Điều thứ 1370 – Tùy theo sự giao ước của hai bên, những hoa lợi do chủ nợ thu hoạch sẽ coi là tiền lãi trong thời kỳ hưởng dụng, hoặc được trừ vào tiền vốn và tiền lời.
Nếu không có giao ước rõ ràng, hoa lợi sẽ chỉ coi là tiền lãi.
Điều thứ 1371 – Thời hạn của sự thế chấp là thời hạn của nghĩa vụ chính; nếu không có thời hạn được ấn định cho nghĩa vụ này, thời hạn thế chấp sẽ là mười năm.
Điều thứ 1372 – Trong mọi trường hợp, và không cứ thời hạn thế chấp là bao nhiêu, chủ nợ thế chấp cũng không vì người vay không trả nợ mà có thể thành sở hữu chủ bất động sản đã thế chấp.
Mọi giao ước trái với điều khỏan trên đây đều tuyệt đối vô hiệu.
Điều thứ 1373 – Đến hạn đã định, nếu người vay trả nợ, chủ nợ phải hòan lại bất động sản, hay bằng khóan hoặc văn tự tạo mãi: nếu không, tất cả hoa lợi thu hoạch về sau phải hoàn lại cho người vay, chưa kể có thể phải bồi thường.
Điều thứ 1374 – Nếu có sự thỏa thuận cho ngườì vay được trả nợ trước hạn định thì kể từ ngày đề cung trả nợ, người vay không còn phải trả lời.
Điều thứ 1375 – Nếu quá hạn mà nợ không trả, chủ nợ có quyền không cứ lúc nào, đem cưỡng chế phát mại bất động sản thế chấp.
Trong trường hợp này, cũng như trong trường hợp bất động sản bị cưỡng chế phát mại do một chủ nợ khác, ngừơi chủ nợ thế chấp, để thay vào quyền lưu trí không còn nữa, được quyền ưu tiên lấy nợ trước tất cả các chủ nợ khác, kể cả các chủ nợ để đương mà quyền lợi phát sinh và đăng ký sau sự thế chấp.
Chủ nợ thế chấp cũng có quyền ưu tiên như trên trong trừơng hợp bất động sản bị truất hữu vì lợi ích công cộng.
Điều thứ 1376 – Nếu người vay do sự thỏa thuận giữa hai bên, trả nợ, trứơc khi đến hạn, chủ nợ vẫn được quyền thu hoạch mùa màng chưa gặt hái do người ấy xuất công của làm ra.
Điều thứ 1377 – Người chủ nợ không phải hoàn lại những hoa lợi đã thu hoạch sau khi món nợ đáo hạn nếu người vay để quá hạn ấy mới trả nợ.
Điều thứ 1378 – Mọi phí tổn về việc thành lập hay hủy bỏ khế ước thế chấp do người vay phải chịu, nếu không có ước định khác.


CHƯƠNG THỨ III
Nói về quyền để đương
Điều thứ 1379 – Quyền để đương là một vật quyền thành lập trên bất động sản được sung dụng để bảo đảm cho sự thi hành một nghĩa vụ.
Quyền này bất khả phân chia, nếu đã thành lập trên nhiều bất động sản, sẽ bao trùm toàn thể những bất động sản ấy, cũng như toàn thể mỗi bất động sản và mỗi phần của mỗi bất động sản.
Điều thứ 1380 – Chủ nợ để đương có quyền, khi nợ đáo hạn, truy sách bất động sản sung dụng không cứ ở tay người nào, để phát mại mà ưu tiên lấy nợ.
Điều thứ 1381 – Bất động sản nào có thể được sử dụng đều có thể đem để đương về quyền tư hữu cũng như về quyền dụng ích hay quyền thuê trường kỳ trong thời gian những quyền ấy.
Điều thứ 1382 – Chỉ bất động sản mới có thể để đương.
Quyền để đương phải được định rõ về ngân số trái quyền (vốn, lời và phụ thuộc) cũng như về bất động sản hay vật quyền sung dụng cho sự để đương.
Điều thứ 1384 – Nếu quyền lợi đem để đương là một quyền lợi có thể bị bãi tiêu hay lệ thuộc vào một điều kiện đình chỉ hoặc một điều kiện tiêu trừ thì mọi nguyên nhân đình chỉ hay tiêu hủy quyền lợi này cũng chi phối luôn cả quyền để đương.
Điều thứ 1385 – Quyền để đương thành lập trên một bất động sản bao gồm cả những tu bổ sau này cho bất động sản ấy.
Điều thứ 1386 - Một bất động sản có thể đem để đương cho nhiều chủ nợ khác nhau, mỗi người sẽ có thứ bực riêng về quyền ưu tiên lấy nợ tùy theo thứ tự ngày tháng của sự đăng ký,
Điều thứ 1387 – Quyền để đương có thể được tương thuận hay bị cưỡng bách.
Để đương tương thuận là do sự thỏa thuận của chủ nợ và trái hộ thành lập.
Để đương cưỡng bách là do một quyết định tư pháp thành lập, không có sự ưng thuận của trái hộ, trong những trường hợp riêng biệt quy định ở bộ luật này.


T I Ế T I
Nói về quyền dể đương tương thuận
Điều thứ 1388 - Để đương tương thuận chỉ có thể được tạo lập do người có năng cách pháp lý sử dụng bất động sản hay quyền lợi đem để đương.
Điều thứ 1389 - Những quyền lợi của người vô năng cách (vị thành niên hay bị cấm quyền) chỉ có thể đem để đương vì những nguyên nhân và theo những thể thức mà quy chế về thân trạng của họ đã định: quyền lợi của ngừơi thất tung muốn đem để đương phải được tòa án cho phép, nếu sự doãn chấp những quyền lợi ấy còn có tính cách tạm thời.
Điều thứ 1390 – Sự thành lập quyền để đương phải do một công chính chứng thư, nếu không, sẽ vô hiệu.
Trong chứng thư này cả hai đương sự đều phải tuyển định cư sở.
Điều thứ 1391 - Sự thành lập quyền để đương chỉ có thể là một điều khoản phụ thuộc vào một khế ước chính để bảo đảm việc trả nợ.
Có thể thỏa thuận để đương ngay trong khế ước chính hay trong một văn thư riêng biệt.
Điều thứ 1392 – Thời hạn để đương cùng là một với thời hạn của nghĩa vụ chính.
Điều thứ 1393 – Sở hữu chủ cũng như người chấp hữu bất động sản hay quyền lợi đã đem để đương mà không phải là trái hộ, có thể trả nợ cho trái chủ để giải tỏa cho bất động sản hay quyền lợi ấy. Trong trường hợp này, người trả nợ sẽ kế vị người chủ nợ và được hưởng tất cả quyền lợi của người này.


T I Ế T II
Nói về quyền để đương cưỡng bách
Điều thứ 1394 – Nếu không có để đương tương thuận, quyền để đương cưỡng bách có thể được tòa án ban cấp trong những trường hợp sau đây:
1) Cho người bán một bất động sản, trên bất động sản ấy, để bảo đảm giá bán chưa được trả hay mới trả một phần;
2) Cho người đổi một bất động sản lấy một bất động sản khác, trên bất động sản đánh đổi để bảo đảm số tiền bù mà người cộng phân chưa trả.
Điều thứ 1395 – Quyền để đương bách sẽ được ban cấp do một án văn tòa hộ nơi bất động sản tọa lạc, bị đơn phải được gọi ra trước tòa để đối tụng.
Án tòa sẽ chỉ định rõ bất động sản nào phải chịu để đương và tới số tiền nào.


T I Ế T III
Đăng ký quyền để đương
Điều thứ 1396 – Quyền để đương muốn đối kháng với người đệ tam, phải được đăng ký vào sổ điền địa để công bố cho người đệ tam được biết; chủ nợ để đương phải khai rõ trong sổ điền địa cư sở tuyển trách của mình.
Điều thứ 1397 – Giữa các chủ nợ ngày đăng ký quyền để đương vào sổ điền địa ấn định thứ tự về quyền ưu tiên lấy nợ.
Tất cả các chủ nợ đăng ký cùng một ngày đều ở cùng một thứ bậc, không phân biệt sự đăng ký đã làm vào buổi sáng hay buổi chiều.
Điều thứ 1398 – Bất động bị tịch biên không thể đem để đương được.


T I Ế T IV
Quyền lợi của chủ nợ để đương
Điều thứ 1399 – Nếu đến hạn không được trả nợ, tất cả chủ nợ để đương, không cứ ở thứ bậc nào, đều có quyền cưỡng chế phát mại bất động sản hay quyền lợi đã để đương.
Điều thứ 1400 – Chủ nợ phải chấp hành những bất động sản không được để đương của trái hộ.
Điều thứ 1401 – Sự cưỡng chế phát mại sẽ làm theo thể thức quy định do bộ luật dân sự tố tụng.
Điều thứ 1402 – Nếu bất động sản hay quyền lợi để đương bị người mắc nợ đem sử dụng sau khi để đương, người đệ tam chấp hữu phải để cho chủ nợ để đương cưỡng chế phát mại, nhưng có thể, để tránh sự truất hữu, trả nợ cho chủ nợ theo điều 1303 trên đây.
Điều thứ 1403 – Người chấp hữu có thể bồi thường cho chủ nợ nếu vì sơ xuất, lầm lỗi, đã làm hư hai bất động sản; nhưng cũng được bồi hoàn những chi tiêu tu bổ bất động sản, cho tới mức sự thặng dư giá trị.


T I Ế T V
Sự tiêu trừ quyền để đương
Điều thứ 1404 – Quyền để đương bị tiêu trừ:
1) Do sự tiêu trừ nghĩa vụ chính;
2) Do sự khước từ minh thị của chủ nợ;
3) Do thủ tục thanh tiêu.
Điều thứ 1405 – Người mua hay người tặng dữ một bất động sản bị để đương, muốn tránh sự sai áp của chủ nợ, có thể thanh tiêu quyền để đương theo thủ tục dưới đây.
Điều thứ 1406 – Sở hữu chủ mới phải tống đạt cho tất cả các chủ nợ ở cư sở tuyển định đã đăng ký, chậm lắm là một tháng sau khi bị chủ nợ đốc thúc:
1) Trích lục văn tự đoạn mại hay tặng dữ trong đó phải ghi ngày tháng văn tự, tên họ, địa chỉ của người chủ bán, chủ tặng và người chủ mua hay người thụ tặng; sau nữa bất động sản phải được chỉ định rỏ ràng cùng với giá bán, hoặc giá trị được ước lượng nếu sự di chuyển là do sự tặng dữ;
2) Trích lục về sự đăng ký văn tự đoạn mại hay tặng dữ;
3) Bản liệt kê các chủ nợ để đương chia ra là ba cột: cột nhất dành cho tên họ trú quán tuyển định của các chủ nợ; cột nhì dành cho ngày tháng thành lập quyền để đương cùng ngày tháng đăng ký; cột ba dành cho số nợ được bảo đảm.
Điều thứ 1407 – Đồng thời với sự tống đạt trên đây, người sở hữu chủ mới phải đề nghị trả các món nợ và đảm phụ để đương, bất luận là đã đáo hạn hay chưa đáo hạn, tới mức giá tiền mua hay giá trị được ước lựơng của bất động sản.
Điều thứ 1408 – Các chủ nợ có quyền buộc các sở hữu chủ mới phải ký thác số tiền này tại phòng lục sự tòa án nơi bất động sản tọa lạc hay tại quỹ tồn trữ.
Điều thứ 1409 – Mọi quyền để đương sẽ được thanh tiêu nếu trong hạn hai tháng, chủ nợ không phản kháng, trừ phi sở hữu chủ mới bị đốc thúc mà không ký thác số tiền đề nghị.
Điều thứ 1410 – Nếu có sự thanh tiêu như trên, số tiền ký thác sẽ đem phân chia theo thứ bậc cho các chủ nợ.
Điều thứ 1411 – Trong hạn hai tháng nói trên, mặc dầu có chủ nợ khác đã đốc thúc sở hữu chủ mới phải ký thác số tiền đề nghị, mỗi chủ nợ mà quyền để đương đã được đăng ký đều có quyền đòi cưỡng chế phát mại bất động sản nhưng phải:
1) Tống đạt cho chủ mới và cho chủ cũ là người mắc nợ chính việc đòi cưỡng chế phát mại;
2) Ký tên vào bản chính và bản sao giấy tống đạt;
3) Ký quỹ tại phòng lục sự tòa án nơi phát mại số tiền phí tổn về việc phát mại.
Tất cả phải đủ nếu không thì vô hiệu và bị coi như không phản kháng
Điều thứ 1412 – Bất động sản sẽ đem phát mại với giá đặt là giá bán hay giá ước lượng nói tại điều 1406, 1 / thêm mười phần trăm. Người mua phải chịu hết các phí tổn. Nếu không có ai trả giá, chủ nợ đứng ra xin cưỡng chế phát mại phải chịu hết phí tổn về việc phát mại, và mọi sự trở lại tình trạng cũ như không có việc cưỡng chế phát mại.
Điều thứ 1413 – Nếu khi phát mại, vẫn ngừơi thụ tặng hay người đã mua trước của người thiếu nợ lại mua được, những người này không phải đăng ký án văn phát mại.
Điều thứ 1414 – Nếu người khác mua được, mọi thứ thuế trước bạ về khế ước đoạn mại hay tặng dữ cho ngừơi chủ cũ, sẽ do công quỹ hoàn lại cho người này.


THIÊN THỨ VII
Nói về những quyền đặc ưu

CHƯƠNG THỨ NHẤT
Tổng tắc
Điều thứ 1415 – Tất cả những tài sản hiện hữu và hậu lai của người mắc nợ, động sản cũng như bất động sản, đều là vật bảo đảm cho chủ nợ.
Điều thứ 1416 – Những tài sản ấy là bảo đảm chung cho tất cả các chủ nợ và giá tiền sẽ phân chia cho các chủ nợ theo tỷ lệ trái quyền của mỗi nguời, trừ phi có chủ nợ có quyền đặc ưu.
Điều thứ 1417 – Những quyền đặc ưu là những đặc quyền minh định dưới đây, không kể những đặc quyền khác được công nhận trong các đạo luật đặc biệt.
Điều thứ 1418 – Quyền đặc ưu hay đặc quyền là quyền do luật pháp công nhận cho một chủ nợ, vì tính chất trái quyền của người này, được lấy nợ trước các chủ nợ khác, kể cả chủ nợ để đương hay thế chấp.
Điều thứ 1419 – Giữa các chủ nợ cũng có đặc quyền, quyền ưu tiên của mỗi người để lấy nợ sẽ tùy theo thứ tự pháp định của những đặc quyền ấy.
Điều thứ 1420 – Các chủ nợ có đặc quyền cùng thứ bậc được trả tiền theo tỷ lệ trái quyền của mỗi người.
Điều thứ 1421 – Đặc quyền có thể được sử hành trên động sản hay trên bất động sản.

CHƯƠNG THỨ II
Đặc quyền trên động sản
Điều thứ 1422 – Những đặc quyền trên động sản có thể là những đặc quyền tổng quát, sử hành trên toàn thể động sản của người trái hộ hay là những đặc quyền biệt định, chỉ sử hành riêng trên một vài động sản nhất định.
Điều thứ 1423 – Chủ nợ có đặc quyền biệt định được trả trước chủ nợ có đặc quyền tổng quát trên giá bán các đặc sản. Nhưng tiền án phí có lợi ích chung cho các chủ nợ có đặc quyền bao giờ cũng được trả trước.


T I Ế T I
Đặc quyền tổng quát
Điều thứ 1424 –Về những trái quyền dưới đây, chủ nợ được hưởng đặc quyền trên toàn thể động sản của người thiếu nợ theo thứ tự như sau:
1) Tiền án phí;
2) Tiền phí tổn tống táng;
3) Tiền phí tổn chữa bệnh về căn bệnh cuối cùng của người mệnh một;
4) Tiền công của gia nhân về năm qua và tiền công còn thiếu về năm đang làm việc; tiền công trong sáu tháng cuối của tất cả các công nhân, không cứ về dịch vụ gì; tiền bồi thường cho nạn nhân hay ngừơi thụ quyền của nạn nhân về tai nạn lao động;
5) Giá tiền thực phẩm bán cho người mắc nợ và cho gia đình người mắc nợ trong sáu tháng cuối cùng.

T I Ế T II
Đặc quyền biệt định
Điều thứ 1425 – Những chủ nợ dưới đây được hưởng đặc quyền biệt định:
1) Chủ nhà, đất, ruộng, trại về tiền thuê, địa tô đã đáo hạn; và tiền bồi thường chiếm cứ sau khi khế ước đã mãn hạn, đặc quyền này sử hành trên những mùa màng trong năm và trên tất cả đồ đạc trang trí nhà, trại cho thuê, cùng dụng cụ, súc vật dùng để khai khẩn nông trại.
Sở hữu chủ các bất động sản trên có quyền sai áp những đồ đạc trang trí nhà, trại, dẫu rằng những đồ đạc này được di chuyển đi nơi khác không có sự ưng thuận của người ấy.
Muốn giữ đặc quyền trên những đồ đạc này và đòi mang trả lại nơi thuê, sở hữu chủ phải khởi tố người thuê và người đệ tam giữ những đồ đạc đã di chuyển trong hạn một tháng kể từ ngày di chuyển;
2) Chủ nợ cầm đồ được đặc quyền trên đồ vật đã cầm cho người ấy;
3) Người nào đã giữ gìn hay sửa chữa để bảo toàn một đồ vật được nguyên vẹn, được đặc quyền trên đồ vật ấy về tiền phí tổn và tiền công;
4) Người bán chịu đò vật, quần áo được đặc quyền trên vật bán nếu những vật ấy còn do người mua giữ, không cứ là người này được hưởng kỳ hạn hay không được hưởng kỳ hạn để trả tiền;
Nếu người mua không được hưởng kỳ hạn để trả tiền, người bán còn có thể lấy lại vật bán miễn là vật này còn do người mua giữ và còn nguyên vẹn như lúc bán, nhưng phải xin truy hoàn như vậy trong hạn một tháng kể từ ngày bán.
Đặc quyền của người bán đồ vật, quần áo đựoc xếp hạng sau đặc quyền về tiền thuế, địa tô và tiền bồi thường chiếm cứ sở hữu chủ nhà, trại, ruộng, đất cho thuê, trừ phi sở hữu chủ đã biết rằng những đồ vật trang trí không phải của người thuê;
5) Chủ trọ, chủ khách sạn, được đặc quyền về những cung khoản như thức ăn, chỗ ở cùng dịch vụ cho khách hàng: đặc quyền này sử hành trên hành trang của khách hàng đem đến nhà trọ hay khách sạn;
6) Người chuyên chở được đặc quyền trên đồ vật chuyên chở về giá tiền chuyên chở và phí tổn phu thuộc;
7) Nạn nhân một tai nạn, hay những người thụ quyền của nạn nhân, được đặc quyền về tiền bồi thường trên số tiền mà hãng bảo hiểm đã thuận trả hay bị xử phải trả theo khế ước bảo hiểm.
Nếu hãng bảo hiểm chưa trả cho nạn nhân mà đã trả cho khách hàng. Sự trả tiền này không có hiệu lực giải nợ cho hãng bảo hiểm đối với nạn nhân.


CHƯƠNG THỨ III
Đặc quyền trên bất động sản
Điều thứ 1426 – Những chủ nợ dưới đây được hưởng đặc quyền trên bất động sản:
1) Người cho vay tiền được hưởng đặc quyền trên bất động sản bằng tiền cho vay, nhưng phải có công chính chứng thư xác nhận rằng tiền vay, để mua bất động sản; và biên lai của người bán nhận rằng đã được trả bằng tiền vay ấy;
2) Các kiến trúc sự, thầu khóan, thợ thuyền xây cất, sửa chữa những công trình kiến trúc được đặc quyền trên những kếin trúc ấy, về tiền công và tiền vật liệu cung cấp, sau khi đã làm xong và giao cho sở hữu chủ tiếp nhận bằng một chứng thư có thị thực chữ ký; nếu vì một lý do gì, các đương sự bỏ dở công việc, đặc quyền trên đây chỉ được hưởng nếu có biên bản của một giám định viên do tòa cử, nhận xét những công việc đã được làm rồi, trị giá những vật liệu, nhân công và việc thù lao cho công việc ấy;
3) Ngườ cho vay tiền để trả công thợ về việc xây cất, được hưởng đặc quyền trên các kiến trúc xây cất về số tiền cho vay nhưng phải có công chứng thư xác nhận rằng tiền vay là để trả kiến trúc sư, thầu khóan hay thợ thuyền và biên lai của những người này nhận tiền.


CHƯƠNG THỨ IV
Những đặc quyền chung trên
Động sản và bất động sản
Điều thứ 1427 – Những đặc quyền tổng quát được công nhận ở điều 1424 đượ sử hành cả trên động sản và trên bất động sản, nhưng trên động sản trước đã.
Điều thứ 1428 – Nếu vì giá bán động sản không đủ để trả nợ, những chù nợ có đặc quyền tổng quát của điều 1424 phải cạnh tranh lấy nợ với những chủ nợ được đặc quyền trên một bất động sản, những chủ nợ của điều 1421 sẽ được trước những chủ nợ của điều 1426.


CHƯƠNG THỨ V
Đăng ký đặc quyền
Điều thứ 1429 – Đặc quyền trên bất động sản chỉ có hiệu lực nếu đã đăng ký vào sổ điền địa.
Điều thứ 1430 – Tuy nhiên, những đặc quyền theo điều 1424 không cần phải đăng ký.
Điều thứ 1431 – Những chủ nợ được đặc quyền theo điều 1426 muốn xin đăng ký phải xuất trình những chứng thư đã nói trong điều ấy:
1) Người cho vay để mua bất động sản văn tự cho vay và biên lai của người bán bất động sản;
2) Kiến trúc sư, thầu khóan, thợ thuyền: chứng thư của sở hữu chủ tiếp nhận kiến trúc đã xây cất hoặc biên bản của giám định viên;
3) Người cho vay để trả công thợ xây cất bất động sản: văn kiện cho vay và biên lai của kiến trúc sư, thầu khóan hay thợ thuyền.
Điều thứ 1432 – Viên chức giữ sổ điều địa sẽ ghi rằng đương sự xin đăng ký đặc quyền của họ quy chiếu điều 1426, và lược biên những chứng từ xuất trình vào sổ.
Điều thứ 1433 – Sự đăng ký phải làm trong hạn một tháng.
1) Trong trường hợp thứ nhất điều 1431 trên đây kể từ ngày người bán nhà đã cấp biên lai cho người mua;
2) Trong trường hợp thứ hai, kể từ ngày sở hữu chủ cấp chứng thư chấp nhận đã xây cất kiến trúc hay từ ngày giám định viên đã báo cho đương sự biết việc đệ nạp phúc trình;
3) Trong trường hợp thứ ba, kể từ ngày kiến trúc sư, thầu khóan hay thợ thuyền cấp biên lai về tiền công được trả.
Quá hạn nói trên nếu không đăng ký đặc quyền không còn nữa. Tuy nhiên, sự đăng ký quá hạn vẫn có thể được chấp nhận, nhưng chủ nợ chỉ có quyền để đương kể từ ngày đăng ký.