Hình đi hội thảo ở Nha trang
Tôi đang ngồi giữa một bên là một bên là biển và một bên là trường đại học Nha trang
Hình kỷ niệm 15 năm thành lập ĐH Luật TPHCM
Mời bạn tham khảo một thoáng về gian hàng trưng bày của khoa Luật Dân sự
Thứ Bảy, 23 tháng 6, 2012
Thứ Ba, 5 tháng 6, 2012
ĐỀ TÀI BÀI KIỂM TRA HNGĐ
1. Chế độ tài sản chung của vợ chồng
2. Chế độ tài sản riêng của vợ chồng
3. Chế độ tài sản của cha mẹ và con
4. Nguồn gốc tài sản trong quan hệ pháp luật HNGĐ
5. Các trường hợp chia tài sản vợ chồng
6. Hạn chế định đoạt tài sản chung vợ chồng
7. Chia tài sản chung của vợ chồng là quyền sử dụng đất
8. Quản lý, định đoạt tài sản của con chưa thành niên
9. Chia tài sản của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân
10. Chế độ tài sản vợ chồng theo pháp luật VN từ năm 1945 đến nay
CHẾ ĐỘ TÀI SẢN TRONG QHPLHNGD
ĐỀ CƯƠNG MÔN HỌC
CHẾ ĐỘ PHÁP LÝ VỀ TÀI SẢN TRONG HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
Mã số:
Số đvht: 2
MÔ TẢ MÔN HỌC
Môn học Chế độ pháp lý về tài sản trong hôn nhân và gia đình có vị trí quan trọng trong pháp luật về chế độ tài sản-một phạm trù thuộc quyền con người. Môn học này là tiền đề lý luận và thực tiễn xác định chế độ sở hữu giữa vợ chồng, quyền của các chủ sở hữu về tài sản và là căn cứ để giải quyết các tranh chấp liên quan như quyền thừa kế, sở hữu chung, riêng..... Việc nghiên cứu và làm sáng tỏ chế độ pháp lý về tài sản trong hôn nhân và gia đình xác định được quan điểm của nhà nước ta về chế độ sở hữu trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình và trên tinh thần đó so sánh chế độ sở hữu trong các ngành luật khác và là căn cứ để giải quyết các tranh chấp liên quan đến tài sản giữa các thành viên trong gia đình.
Môn học này là tiền đề để các học viên có thêm kỹ năng cũng như nhận thức trong việc giải quyết các tranh chấp liên quan đến tài sản giữa các thành viên trong gia đình.
MỤC TIÊU CỦA MÔN HỌC
Yêu cầu học viên nắm được cơ sở lý luận của chế độ tài sản trong pháp luật hôn nhân và gia đình, phân biệt được chế độ tài sản trong hôn nhân với chế độ tài sản trong các ngành luật khác, có kiến thức cơ bản về quan điểm lập pháp về chế độ tài sản trong hôn nhân và gia đình nói riêng và chế độ tài sản trong pháp luật nói chung, nhận biết và giải thích được về những đặc thù của chế độ tài sản trong hôn nhân và gia đình. Môn học này còn giúp học viên có kỹ năng phân tích, bình luận, đánh giá và so sánh về chế độ tài sản trong hôn nhân và gia đình Việt Nam với các chế độ tài sản của một số nước trên thế giới và có khả năng vận dụng những thông tin, kiến thức đã học vào việc nghiên cứu khoa học pháp lý chuyên ngành và ứng dụng thực tiễn hành nghề luật
NỘI DUNG CHI TIẾT MÔN HỌC
Mở đầu: Giới thiệu tổng quan về môn học và các tài liệu cần đọc (2 tiết hướng dẫn và 1 tiết hướng dẫn học tập, nghiên cứu khoa học)
Tài liệu: Các tài liệu giới thiệu trong đề cương môn học
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHẾ ĐỘ TÀI SẢN TRONG QUAN HỆ PHÁP LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
1.1. Khái niệm chế độ tài sản
Là tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh về tài sản của các thành viên trong gia đình, bao gồm các quy định về căn cứ xác lập tài sản, quyền và nghĩa vụ của các chủ thể về tài sản chung, riêng và các quy định khác liên quan đến chế độ tài sản này
Lý do nhà lập pháp quy định chế độ tài sản này:
- Do tính chất, mục đích của quan hệ pháp luật HNGĐ-tính cộng đồng của quan hệ HNGĐ
- Pháp luật dự liệu về chế độ tài sản để các thành viên trong gia đình thực hiện các quyền và nghĩa vụ, đồng thời khẳng định quyền có tài sản của các chủ thể
- Vì lợi ích của chủ thể thứ ba ngoài các thành viên trong gia đình
- Là cơ sở pháp lý để nhà nước giải quyết các tranh chấp về tài sản giữa các thành viên trong gia đình
1.2. Đặc điểm của chế độ tài sản trong quan hệ pháp luật hôn nhân và gia đình
- Các chủ thể là chủ sở hữu của tài sản có mối liên kết đặc biệt: Kết hôn, sinh đẻ, nuôi con nuôi
- Xuất phát từ vị trí, vai trò quan trọng của gia đình đối với xã hội mà trước hết là nhằm đảm bảo quyền lợi của gia đình
- Căn cứ xác lập, chấm dứt của chế độ tài sản này phụ thuộc vào sự kiện kết hôn, sinh đẻ, nuôi con nuôi
- Chế độ tài sản này mang đặc thù riêng mà trước hết là nhằm đảm bảo lợi ích cho các thành viên trong gia đình
1.3. Vai trò, ý nghĩa của chế độ tài sản trong quan hệ pháp luật hôn nhân và gia đình
1.3.1. Vai trò
- Chế độ tài sản trong quan hệ pháp luật hôn nhân và gia đình được pháp luật quy định nhằm điều chỉnh quan hệ tài sản giữa các thành viên trong gia đình để họ thực hiện các xử sự theo quy định của pháp luật
- Là điều kiện đảm bảo cho các quan hệ nhân thân được thực hiện trên thực tế
- Góp phần điều tiết, ổn định các quan hệ tài sản trong giao lưu dân sự, thương mại
1.3.2. Ý nghĩa
- Là một chế định trong pháp luật HNGĐ được nhà nước quy định thừa nhận quyền có tài sản của gia đình, thể hiện bản chất của nhà nước, pháp luật
- Xác định những loại tài sản giữa gia đình và các loại tài sản khác
- Xác định trách nhiệm tài sản trong HNGĐ với các loại tài sản khác trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt
- Là cơ sở pháp lý giải quyết các tranh chấp
1.4. Các quan điểm về chế độ tài sản trong hôn nhân và gia đình
- Chế độ tài sản trong hôn nhân và gia đình là bộ phận của chế độ tài sản trong pháp luật dân sự
- Chế độ tài sản trong hôn nhân và gia đình là chế độ tài sản độc lập và có mối liên hệ với các chế độ tài sản khác
1.5. Sự phát triển của chế độ tài sản trong pháp luật hôn nhân và gia đình
- Sự phát triển của chế độ tài sản trong pháp luật hôn nhân và gia đình Việt Nam
Sơ lược về sự phát triển của pháp luật Việt Nam về quyền bình đẳng giữa vợ và chồng trong việc chia tài sản.
Thời kì phong kiến.
Bộ quốc triều hình luật (1428).
Không có một điều khoản cụ thể nào quy định quyền sở hữu tài sản của vợ và chồng nhưng qua các điều 374, 375, 376 và một số điều luật khác, chúng ta có thể thấy Bộ luật đã thừa nhận ba loại tài sản:
Tài sản của vợ chồng được thừa kế từ gia đình chồng (phu điền sản)
Tài sản của người vợ được thừa kế từ gia đình chồng (thê điền sản)
Tài sản chung do hai vợ chồng cùng tạo lập được trong thời kì hôn nhân (tần tảo điền sản)
Trong thời kì hồn nhân, cả ba loại tài sản trên đều được coi là tài sản chung. Việc phân định ba loại tài sản như trên chỉ đặt ra khi hôn nhân chấm dứt.
Luật hợp đồng cũng đã thừa nhận quyền sở hữu tài sản của vợ chồng mặc dù còn dành cho người chồng toàn quyền quyết định khối tài sản trong thời kì hôn nhân. Quyền của người vợ chỉ mang tính hình thức, danh nghĩa. Điều này xuất phát từ chế độ gia đình gia trưởng phong kiến “trọng nam khinh nữ), đòi hỏi người vợ phải tuyệt đối tuân theo.
Pháp luật thời kì 1945 – 1975.
Miền Nam
Dưới thời nguỵ quyền Sài Gòn, vấn đề tài sản vợ chồng ở miền Nam chịu sự điều chỉnh của các văn bản pháp luật như:
Dân luật năm 1972
Tài sản chung được quy định tại Điều 151: “khối cộng đồng tài sản cũng bao gồm những tài sản như Điều 54 Sắc luật đã quy định”. “Bất động sản thuộc quyền sở hữu của mỗi vợ chồng ngày lập hôn thú hoặc thủ đắc trong một thời gian hôn thú do sự thừa kế, tặng giữ và di tặng là tài sản riêng của mỗi người” (Điều 152). Đây là điểm tiến bộ trong chế độ tài sản của vợ và chồng, tài sản riêng của mỗi người tuy đã được đề cập đến tuy còn giới hạn trong tài sản là bất động sản.
Pháp luật Nguỵ quyền Sài Gòn còn quy định vấn đề “ly thân”, cho phép vợ chồng có quyền phân chia tài sản khi hôn nhân chưa chấm dứt, quy định “chế độ biệt sản” thể hiện sự tiến bộ so với pháp luật trước đó.
Miền Bắc
Sau thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng 8/1945, Nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà ra đời – một nhà nước của dân, do dân, vì dân đòi hỏi phải có một hệ thống pháp luật tiến bộ và phù hợp với quyền lợi của dân.
Năm 1946, Hiến pháp đầu tiên ra đời đã nêu rõ “quyền bình đẳng của nam và nữ về mọi mặt” (Điều 9), “ chồng và vợ có địa vị bình đẳng trong gia đình, người đàn bà có toàn năng lực về mật hộ” (Điều 5, 6).
Luật hôn nhân và gia đình năm 1959
Điều 15 quy định: “vợ chồng đều có quyền sở hữu và sử dụng ngang nhau đối với tài sản có trước và sau khi cưới”.
Như vậy, Luật đã quy định vợ chồng không có quyền tài sản riêng mà tất cả các tài sản của các bên có được trước khi kết hôn hay trong thời kỳ hôn nhân đều được chuyển hoá thành tài sản chung, không có sự xác định tài sản chung – riêng giữa vợ và chồng.
Ngoài ra, Luật còn quy định việc chia tài sản khi ly hôn có “căn cứ vào sự đóng góp của mỗi bên, vào tình hình tài sản và tình trạng tài sản của gia đình…” (Điều 29). Đây là điểm sáng mà Luật hôn nhân và gia đình năm 1986 đã tiếp tục kế thừa và phát huy.
Luật hôn nhân và gia đình năm 1986
“Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ hoặc chồng tạo ra, thu nhập về nghề nghiệp và những thu nhập hợp pháp khác của vợ và chồng trong thời kỳ hôn nhân, tài sản mà vợ, chồng được thừa kế chung hoặc tặng cho chung” (Điều 14).
“Đối với tài sản mà vợ hoặc chồng có trước khi kết hôn, tài sản được thừa kế riêng hoặc được cho riêng trong thời kỳ hôn nhân thì người có tài sản có quyền nhập hoặc không nhập vào khối tài sản chung của vợ chồng” (Điều 16).
Như vậy, khối tài sản chung của vợ, chồng được xác định căn cứ vào nguồn gốc và thời điểm tạo ra tài sản đó.
Điểm tiến bộ trong Luật HN&GĐ năm 1986 về xác định tài sản giữa vợ và chồng
THỨ NHẤT
Luật năm 1986 quy định quyền và nghĩa vụ ngang nhau giữa vợ và chồng đối với tài sản chung (hợp nhất) việc mua, bán, trao đổi, cho vay, mượn và những giao dịch khác liên quan đến quan hệ tài sản có giá trị lớn thì phải được sự thoả thuận của vợ và chồng.
Bộ Quốc Triều Hình Luật có quy định quyền của người vợ đối vói tài sản chung nhưng điều này chỉ mang tính hình thức vì trong xã hội mang nặng tư tưởng trọng nam khinh nữ, gia đình gia trưởng, chưa xoá được lối sống “phu xướng, phụ tuỳ”.
Hai bộ Dân luật Bắc và Dân luật Trung có đề cập đến sự ưng thuận của vợ chồng trong việc định đoạt tài sản chung nhưng lại phân biệt sự ưng thuận của người vợ (không cần ghi chép).
Luật Gia đình năm 1959 có quy định việc định đoạt tài sản của vợ chồng tương đối bình đẳng nhưng khối tài sản chung lại được phép dùng để trả những nợ của vợ hoặc chồng đã có trước khi lập hôn thú… những nợ do hành vi trái pháp luật của vợ hay chồng. Điều này chưa phát huy được hết các quyền của vợ, chồng đối với tài sản chung, bởi lẽ luật đã quy định “ cái chung” được phép chi dùng cho “cái riêng” thì dù một trong hai bên không muốn cũng không có cơ sở để ngăn cản sự định đoạt này.
Sắc luật 23 – 7 – 1964 cũng quy định tương tự như trên.
Bộ Dân luật 1972 lại cho phép người vợ thay thế quyền hành đối với tài sản chung khi người chồng “không có năng lực pháp lý, bị thất tung, đi xa lâu ngày” (Điều 15). Nghĩa là khi người chồng không mắc phải một trong những trường hợp trên thì có quyền quản trị và định đoạt tài sản chung còn người vợ không được quyền đó.
Luật HN&GĐ năm 1959 quy định quyền và nghĩa vụ của vợ và chồng đối với tài sản chung nhưng tài sản lại bao gồm cả tài sản riêng của mỗi người có trước và sau khi cưới.
THỨ HAI
Luật 1986 cho phép vợ, chồng được chia tài sản chung khi hôn nhân đang tồn tại (Điều 18). Điều này có ý nghĩa to lớn đối với việc giải phóng quan hệ tài sản giữa vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân chưa chấm dứt.
Pháp luật của chính quyền Sài Gòn đã đề cập đến vấn đề “ly thân” cho phép vợ chồng có quyền chia tài sản chung khi hôn nhân chưa chấm dứt. Nhưng việc phân chia tài sản theo quy định này đi đôi với vấn đề “ly thân”, nghĩa là khi có “ly thân” pháp luật mới thừa nhận vấn đề chia tài sản. Luật năm 1986 không đồng nhất vấn đề “ly thân” với vấn đề chia tài sản khi hôn nhân đang tồn tại, bởi lẽ: quan hệ nhân thân giữa vợ và chồng vẫn đang tiếp tục (không sống ly thân), quy định này chỉ giải quyết thuần tuý về mặt tài sản.
THỨ BA
Luật năm 1986 quy định về việc xác định tài sản của vợ chồng khi ly hôn trong trường vợ chồng không còn sống chung với gia đình chồng (vợ). Đây là điểm hoàn toàn phù hợp với thời sống xã hội hiện nay.
THỨ TƯ
Luật năm 1986 quy định về việc chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn không căn cứ vào lỗi của mỗi người mà tài sản chung được xem xét một cách hợp lý đến tình trạng cụ thể của mỗi bên. Ngoài ra, Luật còn đề cập đến những trường hợp hôn nhân bị huỷ do kết hôn trái pháp luật, tài sản chung không bị chia đôi mà dựa vào công sức đóng góp của mỗi bên, quyền lợi chính đáng của bên bị lừa dối hoặc cưỡng ép kết hôn được bảo vệ.
Luật HN&GĐ năm 1986 và Luật HN&GĐ năm 2000 đều chỉ tập trung quy định về một chế độ tài sản pháp định. Nhà lập pháp không dự liệu bất kỳ điều khoản nào cho phép vợ chồng lập hôn ước, những cũng không ấn định những quy định cấm. Trong bối cảnh đó, nhìn chung, giới luật gia và những người áp dụng pháp luật đều cho rằng chế độ hôn sản pháp định có hiệu lực áp dụng đối với tát cả các quan hệ hôn nhân hợp pháp, do vậy, mọi thoả thuận của vợ chồng trái với các quy định của chế độ hôn sản pháp định cần bị tuyên bố là vô hiệu khi có tranh chấp xảy ra.
Tuy nhiên, trong trường hợp xảy ra sự kiện chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân, Nghị định số 70 của Chính phủ ngày 03 tháng 10 năm 2001 quy định chi tiết thi hành Luật HN&GĐ năm 2000 đã đem đến một yếu tố mới, mà chúng ta thấy có khả năng xuất hiện một chế độ tài sản của vợ chồng khác với chế độ pháp định.
Khoản 2 Điều 8 Nghị định 70/2001/NĐ – CP quy định: “Thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của mỗi bên sau khi chia tài sản chung là tai sản riêng của vợ, chồng, trừ trường hợp vợ chồng có thoả thuận khác”. Mặt khác, các quy định ở Điều 9 và Điều 10 về “khôi phục chế độ tài sản chung của vợ chồng” đòi hỏi vợ chồng đã chia tài sản chung mà sau đó muốn khôi phục lại chế độ tài sản chung thì phải lập thành văn bản có người làm chứng hoặc được công chứng, chứng thực.
Việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân có thể xảy ra theo hai trường hợp: chia một phần hoặc chia toàn bộ. Có lẽ các quy định kể trên nhằm vào trường hợp thứ hai. Các quy định này đã bị chỉ trích mạnh mẽ bởi nhiều chuyên gia về Luật hôn nhân và gia đình vì cho rằng chúng mâu thuẫn với Điều 27 Luật HN&GĐ năm 2000. Ở đây tác giả không phan tích sự mâu thuẫn hay không giữa các quy định mà chỉ đề cập đến ý tưởng của những người soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật. Thực tế, Bộ Tư pháp là đơn vị chủ trì soạn thảo Luật HN&GĐ nam 2000, mà cũng chính cơ quan này tiếp tục các công việc đối với Nghị định số 70 để hướng dẫn thi hành Luật. Các quy định ở Khoản 2 Điều 8 và Điều 9, 10 thể hiện sự lôgíc của một ý tưởng mới về những quan hệ tài sản giữa vợ và chồng theo thoả thuận. Vậy thì chúng ta có thể đưa ra một giả thuyết rằng, chính người soạn thảo văn bản luật đã muốn có một sự mềm dẻo trong việc thừa nhận chế độ hôn sản theo thoả thuận của vợ chồng trong những trường hợp cần thiết. Nếu giả thiết này đúng thì đây quả thực là một bước đệm quan trọng cho việc thiết lập những quy định về hôn ước trong Luật HNGĐ tương lai. Mặt khác, vì Nghị định 70 vẫn đang có hiệu lực, chắc chắn, sau khi chia hết tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân, vợ chồng có thể thực hiện một chế độ tách riêng tài sản. Tuy nhiên, trong trường hợp này, việc đóng góp của các bên vợ, chồng vào đời sống chung của gia đình cần được các văn bản pháp luật dự liệu cụ thể.
1. Chế độ hôn nhân và gia đình VN từ 8 - 1945 đến 1959
Sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời. Nhà nước đã ban hành Hiến pháp đầu tiên ngày 9.11.1946 trong đó khẳng định đất nước đã độc lập, tự do, “tất cả quyền binh trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo”, đất nước Việt Nam là thống nhất. Tất cả công dân Việt Nam đều ngang quyền về mọi phương diện: chính trị, kinh tế, văn hoá, bình đẳng trước pháp luật, đều được tham gia chính quyền và công cuộc kiến quốc tuỳ theo tài năng và đức hạnh của mình.
Với tính chất là công cụ pháp lý điều chỉnh các quan hệ xã hội, pháp luật hôn nhân và gia đình, pháp luật hôn nhân và gia đình được nhà nước chú ý, coi trọng và từng bước ban hành những văn bản pháp luật nhằm cũng cố và điều chỉnh các quan hệ hôn nhân và gia đình.
Nhằm xóa bỏ các quy định lạc hậu, áp đặt trong hôn nhân và gia đình ngày 22.5.1950, Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã ban hành Sắc lệnh số 97-SL khẳng định:
-Quyền dân sự của công dân được bảo vệ bằng pháp luật, xóa bỏ các quy định lạc hậu về dân sự trong các tất cả các điều khoản trong dân pháp điển Bắc kỳ, dân pháp điển Trung kỳ, Pháp quy giản yếu 1883 (sắc lệnh ngày 3 tháng 10 năm 1883) thi hành ở Nam kỳ, và những những quy định lạc hậu khác.
-Công nhận quyền kết hôn của công dân. Công dân có quyền tự mình quyết định việc kết hôn: “Người con đã thành niên không bắt buộc phải có cha mẹ bằng lòng mới kết hôn được” (điều 2). Quyền kết hôn của công dân không phụ thuộc vào thời kỳ tang chế: “Trong thời kỳ tang chế vẫn có thể lấy vợ lấy chồng được. Song người vợ goá chỉ có thể lấy chồng sau 10 tháng kể từ ngày chồng chết. Nhưng trong thời hạn ấy, người vợ hoá vẫn có thể tái giá nếu chứng rõ được rằng mình không có thai, hoặc là đã có thai với chồng trước để tránh sự lẫn lộn về con cái” (điều 3).
-Về quan hệ vợ chồng, Sắc lệnh khẳng định quyền bình đẳng của vợ chồng trong hôn nhân và gia đình: “Chồng và vợ có địa vị bình đẳng trong gia đình”, “Người đàn bà có chồng có toàn năng lực về mặt hộ (điều 5,6). Đối với các giao dịch mà làm phương hại đến gia đình thì được xác định là vô hiệu: “Khi lập ước mà có sự tổn thiệt do sự bóc lột của một bên vì điều kiện kinh tế của hai bên chênh lệch thì khế ước có thể coi là vô hiệu” (điều 13).
-Về quyền của con cái, Sắc lệnh đã có những quy định tiến bộ công nhận quyền độc lập của con, thừa nhận sự bình đẳng giữa con trong và ngoài giá thú, quyền xác định cha mẹ của con. Con đã thành niên có đầy đủ các quyền của công dân: “Người vị thành niên là con trai hay con gái chưa đủ 18 tuổi. Khi đã đến tuổi thành niên thì dù còn ở với cha mẹ, người con cũng có quyền tự lập” (điều 7). Quyền yêu cầu Tòa án xác định cha mẹ cho mình là một quyền quan trọng của con ngoài giá thú, được pháp luật ghi nhận: “Người con hoang vô thừa nhận được phép thưa trước toà án để truy nhận cha hoặc mẹ của mình”(điều 9). Đặc biệt nhằm chống lại phương pháp giáo dục con trong thời kỳ phong kiến là dùng sức mạnh, trong Sắc lệnh đã quy định cụ thể: “Cha mẹ không có quyền xin giam cầm con cái” (điều 8).
-Về quyền thừa kế, Sắc lệnh đã ghi nhận quyền thừa kế của người còn sống là vợ chồng, các con không phân biệt giới tính và không hạn chế quyền thừa kế: “Trong lúc còn sinh thời người chồng goá vợ hay vợ goá, các con đã thành niên có quyền xin chia phần tài sản thuộc quyền sở hữu của người chết, sau khi đã thanh toán tài sản chung” (điều 11).
Về vấn đề ly hôn ngày 17.11.1950, Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã ban hành Sắc lệnh số 159-SL quy định căn cứ ly hôn, thủ tục và hậu quả của ly hôn. Sắc lệnh này công nhận quyền ly hôn của vợ chồng, xóa bỏ sự phân biệt về ly hôn của vợ chồng. Vợ chồng có quyền ly hôn khi có một trong các căn cứ sau: Ngoại tình; một bên can án phát giam; một bên mắc bệnh điên hoặc một bệnh khó chữa khỏi; một bên bỏ nhà đi quá hai năm không có duyên cớ chính đáng và vợ chồng tính tình không được hoặc đối xử với nhau đến nổi không thể sống chung được. Việc ly hôn có thể do một bên yêu cầu hoặc thuận tình ly hôn.
Về thủ tục ly hôn, Sắc lệnh quy định đơn giản và có hoạt động hòa giải khi giải quyết vấn đề ly hôn tại Tòa án: “Khi xử việc ly hôn, toà án áp dụng thủ tục tố tụng thường như xử các việc hộ khác. Tuy nhiên, trong trường hợp hai vợ chồng thuận tình xin ly hôn, nếu toà án nhân dân huyện hay thị xã hoà giải không thành, và nếu sau đó một tháng hai vợ chồng vẫn giữ ý kiến xin ly hôn, thì toà án nhân dân huyện hay thị xã sẽ chính thức công nhận sự ly hôn” (điều 4). Khi ly hôn nếu người vợ có thai thì: “Vợ hay chồng có thể xin Toà hoãn đến sau kỳ sinh nở mới xử việc ly hôn” (điều 5).
Về hậu quả của ly hôn, việc giải quyết giao con cho cha hoặc mẹ nuôi do Tòa án quyết định căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con. Vợ chồng có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con sau khi ly hôn: “Toà án sẽ căn cứ vào quyền lợi của các con vị thành niên để ấn định việc trông nom, nuôi nấng và dạy dỗ chúng. Hai vợ chồng đã ly hôn phải cùng chịu phí tổn về việc nuôi dạy con, mỗi người tuỳ theo khả năng của mình” (điều 6).
Trường hợp nếu việc ly hôn do lỗi của một bên vợ, chồng thì bên đó có nghĩa vụ phải bồi thường thiệt hại cho bên kia: “Trong trường hợp xét xử một bên có lỗi thì toà án có thể bắt bên đó bồi thường phí tổn cho bên kia” (điều 7).
2.2. Chế độ hôn nhân và gia đình VN từ 1960 đến 1986
Tiếp tục hoàn thiện pháp luật hôn nhân và gia đình, Quốc hội khóa 1, kỳ họp thứ 11 chính thức thông qua ngày 29.12.1959 và được Chủ tịch nước công bố ngày 13.01.1960. Cũng trong thời gian này, ngày 31.12.1959 Quốc hội Việt Nam đã ban hành Hiến pháp mới.
Hiến pháp 1959 khẳng định: “Nhà nước của ta là Nhà nước dân chủ nhân dân, dựa trên nền tảng liên minh công nông, do giai cấp công nhân lãnh đạo. Hiến pháp mới quy định chế độ chính trị, kinh tế và xã hội của nước ta, quan hệ bình đẳng giúp nhau giữa các dân tộc trong nước, bảo đảm đưa miền Bắc nước ta tiến lên chủ nghĩa xã hội, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân, xây dựng miền Bắc vững mạnh làm cơ sở cho cuộc đấu tranh hoà bình thống nhất nước nhà”.
Hiến pháp 59 tiếp tục khẳng định quyền bình đẳng giữa các công dân, quyền của phụ nữ, trẻ em và chính sách bảo hộ hôn nhân và gia đình: “Phụ nữ nước Việt Nam dân chủ cộng hoà có quyền bình đẳng với nam giới về các mặt sinh hoạt chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội và gia đình. Cùng việc làm như nhau, phụ nữ được hưởng lương ngang với nam giới. Nhà nước bảo đảm cho phụ nữ công nhân và phụ nữ viên chức được nghỉ trước và sau khi đẻ mà vẫn hưởng nguyên lương. Nhà nước bảo hộ quyền lợi của người mẹ và của trẻ em, bảo đảm phát triển các nhà đỡ đẻ, nhà giữ trẻ và vườn trẻ. Nhà nước bảo hộ hôn nhân và gia đình (điều 7).
Luật Hôn nhân và gia đình 1959 gồm 6 chương và chi thành 35 điều. Chương 1 quy định những nguyên tắc chung, chương 2 quy định về kết hôn, chương 3 quy định nghĩa vụ và quyền lợi của vợ chồng, chương 4 quy định quan hệ cha mẹ và con cái, chương 5 quy định về ly hôn và chương 6 về điều khoản thi hành.
Về phần nguyên tắc chung, Luật Hôn nhân và gia đình 1959, khẳng định chế độ: Hôn nhân tự do và tiến bộ, một vợ một chồng, nam nữ bình đẳng, bảo vệ quyền lợi của phụ nữ và con cái, xoá bỏ những tàn tích lạc hậu của chế độ hôn nhân phong kiến, chế độ đa thê và cấm tảo hôn, cưỡng ép kết hôn, cản trở hôn nhân tự nguyện.
Về kết hôn, khẳng định quyền kết hôn của công dân được nhà nước tôn trọng và do nam, nữ tự mình quyết định khi đủ tuổi theo luật định. “Đàn bà goá có quyền tái giá; khi tái giá, quyền lợi của người đàn bà goá về con cái và tài sản được bảo đảm” (điều 8). Việc kết hôn phải được Uỷ ban hành chính cơ sở nơi trú quán của bên nam hoặc bên nữ công nhận và ghi vào sổ kết hôn. Mọi nghi thức kết hôn khác đều không có giá trị về mặt pháp luật.
Về quan hệ vợ chồng, Luật Hôn nhân và gia đình 1959 khẳng định quyền bình đẳng của vợ chồng về mọi mặt trong gia đình, vợ chồng có quyền tự do chọn nghề nghiệp, tự do hoạt động chính trị, văn hoá và xã hội. Tài sản mà vợ chồng có trước và sau khi cưới đều là tài sản chung của vợ chồng và ngang nhau về quyền sở hữu. Vợ chồng có quyền thừa kế tài sản của nhau khi một bên chết trước.
Đối với quan hệ giữa cha mẹ và con, Luật Hôn nhân và gia đình 1959 quy định trách nhiệm của cha mẹ đối với con về việc nuôi dưỡng, chăm sóc, quản lý, giáo dục con. Cha mẹ không được phân biệt đối xử giữa các con. Con có nghĩa vụ kính yêu, săn sóc, nuôi dưỡng cha mẹ. Con có quyền chọn nghề nghiệp, hoạt động chính trị và xã hội, có tài sản riêng và có nghĩa vụ chăm lo đời sống chung của gia đình. Con có quyền yêu cầu Tòa án xác định cha, mẹ cho mình. Con nuôi có quyền lợi và nghĩa vụ như con đẻ và vì lợi ích của người con nuôi họ có quyền yêu cầu Tòa án cho chấm dứt quan hệ cha, mẹ, con.
Về ly hôn, Luật Hôn nhân và gia đình 1959 quy định vợ chồng có quyền thuận tình ly hôn hoặc một bên yêu cầu Tòa án giải quyết cho ly hôn. Khi ly hôn, nếu các bên không thỏa thuận được Tòa án sẽ giải quyết chia tài sản chung, cấp dưỡng giữa vợ chồng cấp dưỡng giữa cha mẹ đối với con và việc trông nom, nuôi dưỡng, giáo dục con sau khi cha mẹ ly hôn.
Ở miền Nam, sau năm 1954, chế độ cũ đã ban hành một số văn bản pháp luật điều chỉnh các quan hệ hôn nhân và gia đình:
-Luật gia đình ngày 2.1.1959 dưới chế độ Ngô Đình Diệm
-Sắc luật 15/64 ngày 23.7.1964
-Bộ dân luật ngày 20.12.1964 của chính quyền Ngụy Sài gòn
Những văn bản pháp luật này quy định bãi bỏ chế độ đa thê song quan hệ vợ chồng vẫn là sự bất bình đẳng, người vợ phụ thuộc vào chồng. Con ngoài giá thú không có quyền truy tìm cha, mẹ của mình trước Tòa án.
Độ tuổi kết hôn thấp (đối với nữ 15 tuổi), việc kết hôn phải có sự đồng ý của người thân (cha, mẹ, ông, bà). Việc ly hôn là căn cứ vào yếu tố lỗi (duyên cớ ly hôn) mà không thực sự xuất phát từ tình trạng vợ chồng. Những quy định về hôn nhân gia đình như trên là lạc hậu, ảnh hưởng của chế độ hôn nhân phong kiến bất bình đẳng, gia trưởng, áp đặt và hà khắc với phụ nữ.
Sau ngày 30.4.1975, đất nước đã hoàn toàn giải phóng, Quốc hội khóa 11 trong kỳ họp thứ nhất tháng 7 năm 1976 đã quyết định đặt tên nước là “Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Nhà nước thống nhất nên pháp luật đòi hỏi phải có sự thống nhất nên ngày 25.3.1977, Hội đồng Chính phủ đã ban hành Nghị quyết 76-CP quy đĩnh về việc thực hiện thống nhất pháp luật trên toàn quốc. Ngày 18.12.1980 Quốc hội khóa VI đã chính thức thông qua Hiến pháp mới làm nền tảng cho bước phát triển mới của đất nước.
Hiến pháp 1980 tiếp tục khẳng định: Phụ nữ và nam giới có quyền ngang nhau về mọi mặt chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội và gia đình. Nhà nước có chính sách lao động phù hợp với điều kiện của phụ nữ. Phụ nữ và nam giới việc làm như nhau thì tiền lương ngang nhau. Gia đình là tế bào của xã hội. Nhà nước bảo hộ hôn nhân và gia đình. Hôn nhân theo nguyên tắc tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng.
Cha mẹ có nghĩa vụ nuôi dạy con cái thành những công dân có ích cho xã hội. Con cái có nghĩa vụ kính trọng và chăm sóc cha mẹ. Nhà nước và xã hội không thừa nhận sự phân biệt đối xử giữa các con. Nhà nước và xã hội chú trọng bảo vệ, chăm sóc và giáo dục thiếu niên, nhi đồng, mở rộng dần việc đảm nhiệm nuôi dạy trẻ em, làm cho sinh hoạt, học tập và trưởng thành của trẻ em được bảo đảm.
Để điều chỉnh kịp thời các quan hệ hôn nhân và gia đình trong một số trường hợp đặc biệt, ngày 22.2.1978 của Toà án nhân dân tối cao ban hành Thông tư số 60/ TATC hướng dẫn giải quyết các việc tranh chấp về hôn nhân và gia đình của cán bộ, bộ đội đã có vợ, có chồng trong Nam tập kết ra Bắc lấy vợ, lấy chồng khác.
Ngày 24.12.1979 Tòa án tối cao ban hành Chỉ thị số 69/TATC hướng dẫn về việc giải quyết vấn đề nhà, đảm bảo chổ ở cho các đương sự sau khi ly hôn.
Với những quy định này, nhà nước luôn quan tâm đến các quan hệ pháp luật hôn nhân và gia đình và đây cũng là nền tàng pháp lý để Luật hôn nhân và gia đình 1986 ra đời đáp ứng yêu cầu của tình hình hình mới, điều chỉnh các quan hệ xã hội trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình.
BỘ DÂN LUẬT 1972
CHƯƠNG THỨ VI
Chế độ phu phụ tài sản
Điều thứ 144 – Luật pháp chỉ qui định phu phụ tài sản khi vợ chồng không lập hôn ước.
Điều thứ 145 – Vợ chồng có thể tự do lập hôn ước tùy ý muốn, nếu không trái với trật tự công cộng và thuần phong mỹ tục.
Điều thứ 146 – Hôn ước phải làm trước khi kết hôn, trứơc một chưởng khế. Vợ hay chồng còn vị thành niên muốn lập hôn ước phải có sự hỗ trợ của những người có tư cách để ưng thuận cho kết hôn.
Chưởng khế phải cấp cho đương sự một chứng thư được miễn mọi lệ phí ghi tên, họ, nghề nghiệp, chỗ ở, ngày sanh, nơi sinh của đương sự, ngày tháng lập hôn ước và ghi rõ là chứng thư phải giao cho viên chức hộ tịch trước khi cử hành hôn lễ.
Điều thứ 147 – Hôn ước không thể thay đổi sau khi đã lập hôn thú.
Điều thứ 148 – Những sự thay đổi trong hôn ước trước ngày lập hôn thú phải được ghi nhận bằng chứng thư thiết lập cùng thể thức với hôn ước.
Những sự thay đổi trong hôn ứơc chỉ có hiệu lực nếu khi lập chứng thư có sự hiện diện của những người tham dự vào hôn ước.
Điều thứ 149 – Hôn ước chỉ có thể đối kháng với đệ tam nhân nếu đã được ghi trong chứng thư hôn thú.
Những sự thay đổi trong hôn ứơc cũng chỉ có thể đối kháng với đệ tam nhân nếu được ghi trong chứng thư hôn thú, dưới hôn ước. Chưởng khế khi cấp bản sao hôn ước phải sao lục cả những sự thay đổi.
TIẾT I
Chế độ cộng đồng tài sản
Điều thứ 150 – Chế độ cộng đồng tài sản là chế độ phu phụ tài sản thường luật trong trừơng hợp vợ chồng không lập hôn ước hoặc khai kết hôn dưới chế độ cộng đồng tài sản.
Chế độ này khởi đầu từ ngày lập hôn thú. Không ai có thể định một ngày nào khác cho khởi điểm này.
Điều thứ 151 – Khối cộng đồng tài sản gồm có:
1) Động sản thuộc quyền sở hữu của mỗi người ngày lập hôn thú;
2) Động sản của vợ hay chồng được hưởng trong thời gian hôn thú do sự thừa kế, tặng dữ và di tặng, trừ phi người tặng dữ hay di tặng đã định khác;
3) Động sản hoặc bất động sản do vợ hay chồng tạo mãi trong thời gian hôn thú;
4) Hoa lợi của tất cả tài sản, không phân biệt tài sản thủ đắc trước hay trong thời gian hôn thú.
Điều thứ 152 – Bất động sản thuộc quyền sở hữu của mỗi vợ chồng ngày lập hôn thú hoặc thủ đắc trong thời gian hôn thú do sự thừa kế, tặng dữ và di tặng là của riêng của mỗi người.
Điều thứ 153 – Người chồng quản trị tài sản cộng đồng và tài sản riêng của hai vợ chồng. Nếu ngừơi chồng không có năng lực pháp lý, thất tung, đi xa lâu ngày hay bị cản trở vì một duyên cớ chánh đáng nào khác, người vợ sẽ thay thế trong quyền quản trị.
Điều thứ 154 – Đối với bất động sản, dù riêng hay chung, bao giờ cũng phải có sự ưng thuận của cả hai ngừơi mới được làm những hành vi có tính cách tiêu thất.
Điều thứ 155 – Trong trừơng hợp phải có sự ưng thuận của vợ hay chồng nếu ngừơi này không thể tỏ ý được hoặc từ khước không có lý do chánh đáng, ngừơi phối ngẫu có thể xin tòa án cho miễn sự ưng thuận này.
Điều thứ 156 – Vợ, hay chồng, nếu có lý do chánh đáng có thể được phép sai áp chế chỉ lương bổng thù lao, lợi tức hay hoa lợi ấy.
Điều thứ 157 – Hai bên vợ chồng sẽ được gọi đến trứơc mặt chánh án bằng thư bảo đảm của phòng lục sự và phải đích thân trình diện, trừ trường hợp bị cản trở không thể nào tới được mới có thể nhờ luật sư thay mặt.
Chánh án sẽ thẩm nghị và tuyên án ngay trong văn phòng.
Điều thứ 158 – Bản án sẽ đương nhiên được thi hành tạm, mặc dầu kháng cáo hay kháng tố.
Nhận được tống đạt bản án, ngừơi đệ tam bị sai áp sẽ phải giao tiền cho ngừơi phối ngẫu đã được sai áp, không cần phải thể thức gì khác về thủ tục sai áp chế chỉ.
Bất kỳ lúc nào, và mặc dầu đã thành nhất định, án văn cũng có thể sửa đổi tùy theo hòan cảnh, tình trạng của hai vợ chồng.
Điều thứ 159 – Vợ hay chồng đều có thể mở trương mục tồn khỏan tại các cơ quan tín dụng và ngân hàng, nhưng phải khai rõ tên tuổi của ngừơi phối ngẫu và địa chỉ cư sở hôn nhân; các cơ quan nói trên phải thông báo cho ngừơi phối ngẫu rõ việc mở trương mục.
Người phối ngẫu có quyền hỏi bảng đối chiếu xuất nhập của ngân khỏan trương mục và, nếu có lý do chánh đáng, có thể xin tòa án cho phép ngăn cản việc lấy tiền ra.
Điều thứ 160 – Tài sản cộng đồng phải đài thọ:
1) Những nợ của vợ hay của chồng đã kết ước trứơc khi lập hôn thú, trừ những trái khỏan được bảo đảm bởi những quyền đối vật trên những bất động sản nói ở điều 152;
2) Những nợ của vợ hay của chồng kết ước trong phạm vi quyền hạn mỗi người trong thời kỳ hôn thú;
3) Những nợ do hành vi phạm pháp của vợ hay của chồng.
Điều thứ 161 – Chế độ tài sản cộng đồng chấm dứt:
1) Vì sự mệnh một của người phối ngẫu;
2) Vì sự ly hôn hay tiêu hôn;
3) Vì sự ly thân;
4) Vì sự biệt sản quy định nơi điều 165.
Điều thứ 162 – Chế độ tài sản cộng đồng qui định trên đây sẽ áp dụng tức khắc cho cả những hôn thú thành lập từ trước, nhưng không làm tổn hại đến sự hữu hiệu của những hành vi của vợ chồng đã làm hoặc đến những quyền lợi thủ đắc của đệ tam nhân.
TIẾT II
Chế độ biệt sản
Điều thứ 163 – Khi lập hôn ước, vợ chồng có thể quyết định là họ sẽ được chi phối bởi chế độ biệt sản; người đàn bà sẽ giữ quyền quản trị, hưởng dụng và sử dụng tài sản riêng của mình.
Điều thứ 164 – Mỗi người phối ngẫu sẽ góp phần vào chi phí gia đình tùy theo hôn ứơc, hoặc nếu không có điều khỏan nào trong hôn ước quy định về điểm này, theo điều 167.
Điều thứ 165 – Sự biệt sản cũng có thể được tòa án tuyên phán theo đơn xin của người vợ trong trường hợp sự quản trị tài sản của chồng có điều bất cẩn khiến tài sản riêng của vợ hoặc tài sản cộng đồng có thể bị nguy hại.
Người chồng cũng có thể xin biệt sản trong trường hợp người vợ được tòa cho phép kinh doanh thương mại, mặc dầu có sự phản kháng của người chồng.
Điều thứ 166 – Án biệt sản phải được công bố trong một cuốn sổ riêng ở phòng lục sự tòa sơ thẩm sở tại và phải ghi vào lề giây hôn thú của hai vợ chồng, nếu người phối ngẫu là thương gia cũng cần được công bố ở tòa án nơi cư sở doanh thương của người này.
Giữa hai vợ chồng, bản án tuyên phán biệt sản có hiệu lực từ ngày có đơn xin.
Điều thứ 167 – Người đàn bà biệt sản được quyền quản trị, hưởng dụng và sử dụng tài sản riêng của mình.
Tuy nhiên, người đàn bà, tùy theo khả năng của mình và của chồng, vẫn phải đóng góp vào các chi phí gia đình và giáo dục con cái.
Điều thứ 168 – Chế độ cộng đồng tài sản chấm dứt vì án ly thân hay biệt sản và có thể được tái lập theo ý muốn của vợ chồng. Sự tái lập phải được ghi nhận trong một chứng thư thiêt lập trứơc mặt chưởng khế; sự tái lập này cũng còn phải được công bố theo thể thức dự liệu trong điều 166.
Giữa hai vợ chồng, chế độ cộng đồng tái lập có hiệu lực từ ngày kết lập hôn thú; mọi sự sẽ được coi như là không có sự ly thân hay biệt sản.
Điều thứ 169 – Nếu người đàn bà biệt sản để chồng hưởng dụng tài sản của mình, khi hôn thú đọan tiêu hay khi người đàn bà yêu sách, người chồng cũng chỉ phải trả lại những hoa lợi hiện hữu, và không phải trả những hoa lợi đã tiêu thụ.
- Sự phát triển của chế độ tài sản trong pháp luật hôn nhân và gia đình của một số nước
I. Những quy định của luật chung liên quan đến các hoạt động nghề nghiệp của vợ chồng
BLDS PHÁP
1.1. Quyền tự chủ của vợ, chồng về nghề nghiệp
Trong phần quy định về các nghĩa vụ và quyền của vợ và chồng, Bộ luật dân sự (BLDS) đã ghi nhận một quyền rất quan trọng cho mỗi bên vợ chồng: quyền tự chủ về nghề nghiệp. Điều 233 quy định: “Mỗi bên vợ chồng có quyền tự do thực hiện nghề nghiệp, thu những món lợi và tiền lương và định đoạt nó sau khi đã đóng góp trách nhiệm đối với đời sống chung”. Sự tự chủ về nghề nghiệp có ý nghĩa đảm bảo cho vợ, chồng thực hiện được trách nhiệm của mình đối với đời sống gia đình nhưng không phá vỡ trật tự của hoạt động về nghề nghiệp đã được tiến hành từ trước khi kết hôn hoặc được thiết lập trong thời kỳ hôn nhân. Hơn nữa, quy định này còn mang một giá trị là nhằm giải phóng và phát triển năng lực của cá nhân.
Trên cơ sở quyền tự chủ này, khi điều chỉnh về quyền quản lý tài sản chung của vợ chồng, BLDS đã quy định về một hình thức quản lý riêng biệt, theo đó chỉ có một bên vợ hoặc chồng mới có quyền quản lý định đoạt : Vợ chồng thực hiện nghề nghiệp riêng có quyền một mình thực hiện những hành vi quản lý và định đoạt cần thiết cho nghề nghiệp đó (Điều 1421, khoản 2).
Các hoạt động về nghề nghiệp của vợ và chồng có thể diễn ra một cách đa dạng dưới nhiều hình thức: làm công hưởng lương hoặc tổ chức, quản lý một doanh nghiệp.
Phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế, nhà làm luật của Pháp đã ban hành nhiều văn bản quy định về các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh của vợ chồng, như: Luật ngày 4 tháng 7 năm 1980 và Luật ngày 9 tháng 7 năm 1999 về sản xuất trong lĩnh vực nông nghiệp; Luật ngày 10 tháng 7 năm 1982 về sản xuất, kinh doanh trong lĩnh vực thủ công nghiệp và thương mại… Những quy định này hiện nay đã được đưa vào trong các Bộ luật tương ứng: Bộ luật về nông thôn (Code rural), Bộ luật thương mại (Code du Commerce)
Trong bối cảnh có nhiều chế độ tài sản có thể điều chỉnh quan hệ tài sản của vợ chồng, quy định về quyền tự chủ về nghề nghiệp (trong đó có hoạt động sản xuất kinh doanh) là một trong những quy định của chế độ chung áp dụng cho mọi trường hợp. Vợ chồng có thể thoả thuận về việc quản lý doanh nghiệp, thanh toán lợi nhuận nhưng họ không thể thoả thuận để phá bỏ nội dung của Điều 233 BLDS.
1.2. Các chế độ tài sản của vợ chồng chi phối các hoạt động nghề nghiệp của vợ chồng
Chế độ tài sản của vợ chồng là tổng hợp những quy định về các quan hệ tài sản của vợ và chồng đối với nhau và đối với người thứ ba (1).
Chế độ tài sản của vợ chồng ở Pháp được thực hiện trên cơ sở nguyên tắc tự do cam kết thoả thuận của các bên vợ chồng. Vì vậy, pháp luật đã tạo ra một sự đa dạng về các chế độ tài sản của vợ chồng, bao gồm chế độ tài sản của vợ chồng do luật định (Chế độ tài sản pháp định) và các chế độ tài sản được lập ra theo những thoả thuận của các bên vợ chồng (Các chế độ tài sản ước định). Theo đó, vợ chồng có quyền lựa chọn một chế độ tài sản phù hợp với điều kiện gia đình, điều kiện kinh tế của mình. Nguyên tắc tự do thoả thuận về chế độ tài sản của vợ chồng còn được thể hiện ngay cả khi chế độ tài sản của vợ chồng đã được xác định (pháp định hoặc ước định), họ vẫn có quyền thay đổi chế độ đó bằng một chế độ khác. Tất nhiên, sự thay đổi này phải tuân theo những điều kiện đã được dự liệu trong Bộ luật dân sự.
Do có nhiều chế độ tài sản trong hôn nhân như vậy, để xác định nội dung của quyền sở hữu của vợ chồng, chúng ta cần phải căn cứ vào chế độ tài sản đã được lựa chọn áp dụng.
1.2.1. Chế độ tài sản pháp định
Luật của Cộng hoà Pháp thực hiện chế độ tài sản pháp định với bản chất là chế độ cộng đồng tài sản tạo ra trong thời kỳ hôn nhân.
Với quan điểm coi tài sản của vợ chồng là một gia tài (patrimoine), luật của Pháp đã chia tài sản của họ thành hai khối: tài sản có và tài sản nợ.
1.2.1.1. Khối tài sản cộng đồng
Tài sản chung của vợ và chồng được xác định theo một tư tưởng chủ đạo là: “tài sản có được trong thời kỳ hôn nhân”. Quy định về sự suy đoán tài sản được thực hiện theo tinh thần này. Theo đó, những tài sản xuất hiện trong thời kỳ hôn nhân được suy đoán là tài sản chung nếu các bên vợ, chồng liên quan không chứng minh được đó là tài sản riêng của mình theo các quy định của pháp luật.
Phần có của cộng đồng tài sản được quy định tại điều 1401 Bộ luật dân sự (BLDS), gồm những loại tài sản sau:
a- Những tài sản mà vợ chồng (một bên hoặc cả hai bên) làm ra trong thời kỳ hôn nhân;
b- Những tài sản mà vợ, chồng có được từ công việc làm ăn của mỗi bên, như tiền lương, các khoản lợi và những tài sản có được từ tiền lương và những khoản lợi ấy;
c- Những khoản tiết kiệm trên những hoa lợi và lợi tức từ tài sản riêng của họ;
d- Những tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung, được tặng cho, hoặc di tặng chung (Điều 1405)
e- Tài sản chung do kết quả của một sự thay thế vật có nguồn gốc từ tài sản chung. Những tài sản mới thay thế cho những tài sản chung nào đó, luôn mang tính chất là tài sản chung;
f- Tài sản chung do kết quả của việc sáp nhập: một tài sản riêng sáp nhập vào tài sản chung với tính chất là phần phụ của tài sản chung, tài sản sáp nhập này chuyển thanh tài sản chung. Tuy nhiên, khi thanh toán cộng đồng tài sản, chủ sở hữu của tài sản riêng đã sáp nhập vào tài sản chung có quyền đòi lại một khoản bồi hoàn.
1.2.1.2. Tài sản riêng của vợ, chồng
a- Tài sản riêng theo bản chất
BLDS Pháp, tại Điều 1404 đã liệt kê những loại tài sản riêng do bản chất của nó, bao gồm:
- Những quần áo, đồ dùng cá nhân của mỗi bên vợ chồng.
- Những công cụ lao động cần thiết cho nghề nghiệp của mỗi bên vợ chồng, trừ trường hợp đó là phần phụ của một cơ sở thương mại hoặc một cơ sở sản xuất là bộ phận của cộng đồng tài sản;
Xuất phát từ những quy định về quyền tự chủ của vợ, chồng trong các hoạt động nghề nghiệp, luật đã thừa nhận rằng trong những trường hợp vợ hoặc chồng thực hiện nghề nghiệp riêng, thì họ là chủ sở hữu riêng đối với những công cụ lao động cần thiết cho những hoạt động đó. Tuy nhiên, để đảm bảo sự công bằng cho vợ và chồng, Luật Pháp luôn nghĩ tới một sự đền bù cần thiết. Nếu những công cụ lao động này có được từ cộng đồng tài sản (mua bán, trao đổi) thì khi thanh toán tài sản, người vợ hoặc chồng là chủ sở hữu của công cụ lao động phải bồi hoàn lại cho cộng đồng tài sản theo giá trị ở thời điểm thanh toán.
- Những tài sản phát sinh từ việc yêu cầu bồi thường thiệt hại về vật chất và tinh thần của vợ hoặc chồng;
- Những quyền đòi nợ và những khoản trợ cấp không thể chuyển nhượng;
- Những tài sản khác, theo nghĩa chung nhất, có tính cách cá nhân và những quyền gắn liền với con người, bao gồm:
b- Tài sản riêng theo nguồn gốc
Đó là những tài sản mà mỗi bên vợ, chồng có trước khi kết hôn, hoặc có được trong thời kỳ hôn nhân do được tặng cho, được thừa kế, được di tặng riêng.
c- Tài sản riêng do tính chất của sự thay thế
Luật Pháp tồn tại một lý thuyết về sự thay thế vật. Theo lý thuyết này, mặc dù tài sản được tạo ra trong thời kỳ hôn nhân nhưng do nguồn gốc, nó vẫn là tài sản riêng. Xuất phát từ một thực tế dịch chuyển các tài sản của vợ chồng do các giao dịch bán, trao đổi tài sản, trong khi tài sản có xu hướng bị thu hút về khối tài sản chung do sự suy đoán tài sản có được trong thời kỳ hôn nhân, nhà làm luật đã quy định về những hình thức: “thay thế vật tự động” và “thay thế không tự động”.
Thay thế đương nhiên là trường hợp thay thế vật một cách trực tiếp, chẳng hạn trường hợp được quy định tại Điều 1407 BLDS: tài sản mới có được do đổi một tài sản riêng, tài sản mới này vẫn là tài sản riêng; nếu khi đổi tài sản, vợ chồng đã lấy tài sản chung để bù vào thì khi thanh toán tài sản, họ phải bồi hoàn lại cho tài sản chung.
Thay thế không đương nhiên là trường hợp thay thế vật gián tiếp qua một tài sản khác và được thực hiện theo một thể thức tuyên bố. Một tài sản mới có được do vợ hoặc chồng bán tài sản riêng của mình và dung nó để mua một tài sản khác. Theo quy định của Điều 1434, khi thực hiện giao dịch đối với tài sản mới này, vợ, chồng phải tuyên bố là mua cho chính họ. Nếu không thực hiện thể thức này trong lúc giao dịch, thì việc thay thế chỉ có giá trị nếu cả hai vợ chồng đồng ý và điều đó chỉ có giá trị trong quan hệ giữa vợ và chồng mà không có giá trị đối với người thứ ba.
1.2.1.3. Quyền quản lý, định đoạt tài sản
a- Quyền quản lý, định đoạt tài sản chung
Nguyên tắc vợ chồng bình đẳng được thể hiện rất rõ trong những quy định về quản lý tài sản. Quyền quản lý tài sản (hiểu theo nghĩa rộng, bao gồm quyền chiếm hữu, hưởng dụng và định đoạt tài sản) có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với chủ sở hữu bởi thông qua đó, chủ sở hữu tiến hành khai thác những giá trị của tài sản. Xuất phát từ thực tế của đời sống gia đình và xã hội, Luật của Pháp đã phân chia quyền quản lý tài sản chung của vợ chồng theo ba hình thức:
* Quyền quản lý tài sản của mỗi bên vợ và chồng (gestion concurrente)
Dưới hình thức quản lý này, mỗi bên vợ hoặc chồng có quyền một mình quản lý, và định đoạt tài sản chung với điều kiện phải chịu trách nhiệm về lỗi của mình trong việc quản lý. Giao dịch do một bên thực hiện mà không có sự gian lận, sẽ ràng buộc trách nhiệm đối với vợ (chồng) của họ (Điều 1421, khoản 1 BLDS).
* Quyền quản lý chung của vợ chồng (gestion conjointe)
Đối với những loại tài sản quan trọng hoặc trong một số giao dịch, vợ (chồng) không thể thực hiện một mình thực hiện giao dịch khi không có sự đồng ý của người kia.
Về tài sản, vợ (chồng) không thể chuyển nhượng, xác lập vật quyền đối với:
- Bất động sản;
- Các cơ sở thương mại và mọi cơ sở khai thác;
- Các cổ phần không thể chuyển nhượng;
- Các động sản hữu hình mà việc chuyển nhượng phải tuân theo thể thức công bố.
Vợ (chồng) cũng không thể thu những khoản vốn từ những hoạt động đó, nếu không có sự đồng ý của người kia (Điều 1424 BLDS).
Đối với các loại giao dịch không có tính chất đền bù:
- Vợ (chồng) không thể tặng cho người khác tài sản mà không có sự đồng ý của người kia;
- Vợ (chồng) chỉ có thể di tặng phần tài sản của mình trong khối tài sản cộng đồng.
* Quyền quản lý riêng biệt (gestion exclusive)
Đó là quyền quản lý tài sản gắn liền với nghề nghiệp của mỗi bên vợ, chồng. Chỉ người vợ (chồng) thực hiện nghề nghiệp riêng mới có quyền quản lý, định đoạt cần thiết đối với nghề nghiệp đó ( khoản 2, Điều 1421 BLDS).
b- Quyền quản lý, định đoạt tài sản riêng
Nguyên tắc tự do quản lý, định đoạt tài sản riêng được thể hiện tại Điều 1428 BLDS: “Mỗi bên vợ chồng có quyền tự do quản lý, hưởng dụng và định đoạt tài sản riêng của mình”. Theo đó, vợ chồng có quyền tự mình quyết định đem tài sản riêng để góp vốn vào các cơ sở sản xuất, kinh doanh, định đoạt nó theo yêu cầu của việc khai thác, quản lý doanh nghiệp. Vợ chồng có thể tự mình quản lý tài sản riêng hoặc uỷ quyền cho người khác quản lý.
Tuy nhiên, do có những nghĩa vụ đối với đời sống gia đình, trong một số trường hợp, pháp luật có những quy định hạn chế quyền tự do quản lý, định đoạt tài sản riêng của vợ, chồng. Chẳng hạn, để bảo vệ chỗ ở của gia đình, khoản 3 Điều 215 BLDS có quy định: vợ, chồng không thể định đoạt những quyền đảm bảo về chỗ ở của gia đình cũng như những đồ đạc trong nhà nếu không có sự đồng ý của bên kia. Quy định này áp dụng chung cho các trường hợp, không phân biệt nhà ở đó là tài sản chung hay tài sản riêng.
1.2.1.4. Phần nợ của tài sản vợ chồng
a- Xác định các khoản nợ của vợ chồng
* Phần nợ của cộng đồng tài sản (Điều 1409 BLDS):
- Những khoản tiền cấp dưỡng có tính chất cố định mà vợ chồng phải thực hiện; những khoản nợ mà họ đã vay để duy trì đời sống gia đình và giáo dục con;
- Những khoản nợ khác nảy sinh trong thời kỳ của chế độ tài sản: đó là những khoản nợ phát sinh từ những giao dịch hợp pháp của vợ và chồng hoặc của mỗi bên vợ, chồng, trong đó có những khoản nợ chung phát sinh từ những hoạt động sản xuất, kinh doanh.
* Phần nợ riêng của mỗi bên vợ, chồng
Điều 1410 BLDS có quy định về những khoản nợ có tính chất cá nhân gồm: những khoản nợ mà vợ, chồng có trước khi kết hôn hoặc gắn liền với những tài sản được tặng cho riêng, được thừa kế riêng.
Bên cạnh đó, xuất phát từ tính chất của các giao dịch làm phát sinh nghĩa vụ, trong nhiều trường hợp, mà cần xác định một khoản nợ thuộc cộng đồng tài sản hay thuộc nghĩa vụ riêng của vợ, chồng. Chẳng hạn, những khoản nợ phát sinh từ những giao dịch nhằm thoả mãn nhu cầu của cá nhân vợ, chồng: mua, bán tài sản riêng; những nghĩa vụ phát sinh từ hành vi trái pháp luật…
b- Thực hiện nghĩa vụ và đóng góp thực hiện nghĩa vụ
Thực hiện nghĩa vụ thể hiện ở mối quan hệ giữa vợ, chồng với chủ nợ: chủ nợ có quyền kiện ai trên những tài sản nào, thậm chí có quyền yêu cầu kê biên những tài sản đó để đảm bảo việc thanh toán nợ.
Đóng góp thực hiện nghĩa vụ thể hiện mối quan hệ nội bộ giữa vợ và chồng: khoản nợ đó sẽ được thanh toán bằng nguồn tài sản nào, vợ chồng có trách nhiệm đóng góp để trả khoản nợ đó, nếu đó là khoản nợ của cộng đồng tài sản.
Luật của Pháp có những quy định khá cụ thể về những trường hợp thực hiện nghĩa vụ. Thông thường, việc thực hiện nghĩa vụ chỉ đặt ra đối với người có nghĩa vụ; chủ nợ chỉ có quyền đối với bản thân người mắc nợ. Tuy nhiên, việc thực hiện nghĩa vụ trả nợ trong những trường hợp này còn “vướng” tới chế độ tài sản của vợ chồng. Do vậy, trong chế độ tài sản của vợ chồng, Luật của Pháp có những quy định riêng điều chỉnh vấn đề này. (Xem các Điều từ 1411 đến 1418 BLDS).
Chúng ta sẽ quay trở lại vấn đề này trong phần nghiên cứu việc thanh toán nghĩa vụ trả nợ của vợ, chồng trong các doanh nghiệp.
1.2.2. Các chế độ tài sản theo hôn ước
Khi vợ chồng lựa chọn một chế độ tài sản không phải là chế độ tài sản pháp định, họ có quyền thoả thuận những nội dung của chế độ đó theo quy định của Điều 1497 BLDS và các quy định khác trong phần các chế độ tài sản theo thoả thuận. Nếu trong những chế độ này mà vợ chồng không có những điều khoản riêng thì những nội dung của chế độ tài sản được giải quyết theo các quy định tương ứng trong chế độ tài sản pháp định.
1.2.2.1. Các chế độ cộng đồng tài sản
a- Chế độ cộng đồng toàn sản
Chế độ này xác định rằng tất cả những tài sản của vợ chồng dù có trước khi kết hôn hay trong thời kỳ hôn nhân đều thuộc khối tài sản cộng đồng. Chỉ có những tài sản có tính chất là tài sản riêng theo quy định tại điều 1404 vẫn tồn tại là tài sản riêng, trừ khi vợ chồng có thoả thuận khác.
Cộng đồng tài sản phải gánh chịu tất cả những khoản nợ của vợ chồng đã có trước khi kết hôn cũng như sẽ nảy sinh trong thời kỳ hôn nhân.
b- Chế độ cộng đồng về động sản và những tài sản tạo ra trong
thời kỳ hôn nhân
Tài sản chung của vợ và chồng gồm những tài sản chung theo chế độ pháp định; những động sản mà mỗi bên vợ, chồng có được trước khi kết hôn và các động sản mà mỗi bên được tặng cho, được thừa kế trong thời kỳ hôn nhân (trừ trường hợp người tặng cho, người để lại di sản thừa kế có quy định khác) . Những tài sản riêng theo bản chất được quy định tại Điều 1404 vẫn thuộc tài sản riêng của mỗi người.
Phần nợ của cộng đồng tài sản bao gồm những khoản nợ theo quy định của chế độ tài sản pháp định, những khoản nợ mà mỗi người có trước khi kết hôn và những khoản nợ gắn liền với việc được thừa kế, được tặng cho tài sản.
Trong chế độ này, vợ chồng có thể thoả thuận về vấn đề cùng quản lý đối với tất cả những tài sản chung; về trích khấu tài sản, về quyền lợi của mỗi bên…theo quy định trong BLDS.
1.2.2.2. Các chế độ phân tách tài sản
Trong thực tế, đây là những chế độ tài sản được nhiều khi cặp vợ chồng quan tâm họ có những hoạt động sản xuất, kinh doanh, bởi vì đó là một cơ chế rõ ràng về tài sản và về trách nhiệm đối với vợ và chồng.
a- Chế độ tách riêng tài sản
Trong chế độ này, vợ chồng không có tài sản cộng đồng. Mỗi bên giữ quyền quản lý, hưởng dụng và định đoạt đối với khối tài sản thuộc về mình.
Mỗi bên vợ, chồng chịu trách nhiệm về những khoản nợ riêng và có nghĩa vụ đóng góp vào nhu cầu chung của gia đình. Việc thực hiện theo thoả thuận hoặc theo quy định của pháp luật.
b- Chế độ đóng góp những tài sản có được trong thời kỳ hôn nhân
Đây được coi là một chế độ tài sản hỗn hợp: tách riêng tài sản trong thời kỳ hôn nhân và cộng đồng tài sản khi chấm dứt hôn nhân.
Trong thời kỳ hôn nhân, vợ chồng thực hiện chế độ tách riêng tài sản, mỗi bên giữ một phần tài sản riêng và quyền quản lý, hưởng dụng và định đoạt. Vợ, chồng có trách nhiệm thực hiện những nghĩa vụ riêng bằng tài sản riêng của mình. Tuy nhiên, khi chấm dứt hôn nhân, mỗi bên được hưởng một nửa những tài sản được tạo ra trong thời kỳ hôn nhân mà hiện còn.
II. Sự hợp tác của vợ và chồng trong các doanh nghiệp gia đình (Entreprises familiales) (2)
Trong Luật của Pháp có một số văn bản quy định về hoạt động của những doanh nghiệp do vợ và chồng thành lập và tổ chức quản lý. Những quy định này nhằm bổ khuyết cho hệ thống các quy định của Luật thương mại, Luật công ty về một hình thức theo mô hình gia đình. Thực tế, đây là sự cần thiết của công tác lập pháp, bởi vì khác với những chủ thể kinh doanh khác, quan hệ giữa vợ và chồng phản ánh những tính chất riêng và các quan hệ về tài sản của họ đang bị điều chỉnh bởi các chế độ tài sản theo quy định của Luật về gia đình.
2.1. Hợp tác giữa vợ và chồng trong việc quản lý doanh nghiệp
2.1.1. Quyền quản lý của vợ chồng trong các doanh nghiệp tư nhân
Trong một doanh nghiệp tư nhân của vợ chồng, một bên vợ hoặc chồng thực hiện các hoạt động nghề nghiệp với tư cách là chủ doanh nghiệp còn bên kia tham dự một cách ngang bằng hoặc thứ yếu. Hai vợ chồng có tư cách là người cùng khai thác nếu họ đã thực hiện những hoạt động liên quan với tính chất là những hoạt động chính của viêc khai thác. Trong trường hợp sự cùng hợp tác khai thác là không ngang nhau, người vợ, chồng ở vị trí thứ yếu sẽ đóng vai trò làm đại lý hoặc người hưởng lương của người kia (chủ doanh nghiệp).
2.1.1.1. Quy chế của vợ (chồng) của người chủ doanh nghiệp
Vợ (chồng) của chủ doanh nghiệp tham gia vào các hoạt động của doanh nghiệp tư nhân, tuỳ theo mức độ của sự tham gia đó, với những quy chế khác nhau. Luật ngày 4/7/1980 về hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp có quy định về sự khai thác chung của vợ và chồng. Theo quy định của Luật ngày 10/7/1982, vợ (chồng) của chủ doanh nghiệp về thủ công hoặc thương mại có thể tham gia vào hoạt động của doanh nghiệp với tư cách là người hợp tác, cổ đông hoặc người làm công. Về tư cách cổ đông của vợ (chồng), chúng tôi sẽ đề cập trong phần sau (hoạt động của vợ và chồng trong các công ty).
a- Quy chế của người vợ (chồng) “hợp tác và cùng khai thác”
* Điều kiện để hưởng quy chế “hợp tác và cùng khai thác”
Thứ nhất, cần phải khẳng định chỉ những vợ chồng hoạt động sản xuất, kinh doanh trong lĩnh vực nông nghiệp, thủ công và thương mại mới mang quy chế này. Đối với những người vợ chồng hợp tác trong các nghề tự do, họ không có quy chế dân sự. Điều 46 Luật ngày 17/01/2002 về hiện đại hoá doanh nghiệp có dự liệu rằng: vợ (chồng) hợp tác trong một nghề tự do có thể nhận từ chủ doanh nghiệp những uỷ quyền rõ ràng và trong giới hạn xác định để thực hiện những hành vi về quản lý và hoạt động của doanh nghiệp.
Thứ hai, việc xác định điều kiện để hưởng quy chế này tuỳ thuộc vào từng lĩnh vực. Trong lĩnh vực nông nghiệp, chỉ những vợ và chồng thực tế “cùng khai thác và cho chính họ ở cùng một cơ sở nông nghiệp” (Điều L.321-1, khoản 1 Bộ luật về nông thôn) mới có thể được hưởng quy chế cùng khai thác. Đối với những hoạt động trong lĩnh vực thủ công và thương mại, đó phải là những hoạt động được đăng ký trong khuôn khổ của một doanh nghiệp gia đình theo quy định của Luật ngày 10/7/1982. Ngay tại Điều 1 của Luật này khi quy định về các tư cách của vợ (chồng) tham gia vào hoạt động của doanh nghiệp có quy định rằng: người vợ (chồng) hợp tác được nêu tên trong sổ đăng ký thương mại và công ty, trong danh sách những nghề nghiệp hoặc trong sổ đăng ký các doanh nghiệp được lưu giữ bởi Trung tâm quản lý nghề nghiệp Alsace và Moselle.
* Đối tượng của quy chế về “hợp tác và cùng khai thác” của vợ (chồng) của chủ doanh nghiệp
Quy chế về hợp tác và cùng khai thác trao cho người vợ (chồng) quyền đại diện liên quan đến những hành vi quản lý theo yêu cầu của việc khai thác hoặc của doanh nghiệp. Ngoài những trường hợp thực hiện quyền đại diện do uỷ quyền theo quy định chung (thoả thuận rõ ràng về sự uỷ quyền cho vợ hoặc chồng), người vợ (chồng) có tư cách hợp tác và cùng khai thác trong doanh nghiệp được hưởng một sự suy đoán về uỷ quyền theo các quy định của pháp luật.
Luật pháp không có một sự giải thích cụ thể thế nào là “những hành vi quản lý theo yêu cầu của việc khai thác hoặc của doanh nghiệp”. Trong bối cảnh đó, sự giải thích trong các học thuyết đã được nhiều người chấp nhận, đó là “những hành vi (giao dịch) mà người hợp tác hoặc cùng khai thác thực hiện một cách khách quan là cần thiết, ít nhất là có ích cho việc tiến hành các hoạt động của doanh nghiệp, mà không kéo theo những cam kết vượt quá khả năng của doanh nghiệp”(3).
b- Quy chế của người vợ (chồng) làm công
Như trình bày ở phần đầu, trong trường hợp vợ và chồng cùng tham gia vào hoạt động sản xuất, kinh doanh nhưng ở những vị trí khác nhau, một bên là chủ doanh nghiệp, bên kia là người làm công hưởng lương.
Tuy nhiên, trong một thời gian rất dài, luật pháp cũng như các học thuyết và án lệ gặp nhiều khó khăn, thậm chí không xác định được tính chất của mối quan hệ này. Một câu hỏi lớn đặt ra là: liệu giữa vợ và chồng có thể tồn tại một hợp đồng lao động không? Nguồn gốc của sự khó khăn là do tính chất khác nhau của hai mối quan hệ. Quan hệ giữa vợ và chồng đòi hỏi một nghĩa vụ trợ giúp của các bên – nghĩa vụ không phải thanh toán, trong khi đó quan hệ lao động phản ánh yếu tố phụ thuộc – giữa người chủ và người làm thuê. Đó chính là khó khăn khi muốn dung hoà giữa quy chế hôn nhân và quy chế nghề nghiệp.
Cuối cùng, luật về xã hội và về thuế và đặc biệt là vai trò của Luật ngày 10 tháng 7 năm 1982 điều chỉnh đối với những vợ chồng hoạt động trong các lĩnh vực thủ công và thương mại cũng đã xác định được quy chế của người vợ, (chồng) làm việc cho chồng (vợ) của mình – với tư cách là người khai thác, quản lý doanh nghiệp. Đó là quy chế của người làm công (conjoint salarié). Điều L.243 của Luật năm 1982 này (trở thành Điều L.311-6 của Bộ luật về an sinh xã hội quy định về người vợ (chồng) làm công (conjoint salarié) như sau : tham gia thực sự vào doanh nghiệp hoặc vào hoạt động của chồng (vợ) mình với tính cách nghề nghiệp và thường xuyên và nhận lương phù hợp với lương thông thường của loại công việc đó.
2.1.1.2. Sự đại diện của vợ, chồng trong việc quản lý doanh nghiệp
a- Thực hiện quyền đại diện của vợ, chồng
Quyền đại diện của vợ chồng đã được quy định trong phần các nghĩa vụ và quyền của vợ và chồng, trong các quy định về quản lý tài sản (chung và riêng) của BLDS. Việc đại diện của vợ hoặc chồng trong quản lý hoạt động của doanh nghiệp cũng như thực hiện những giao dịch mà pháp luật quy định phải có sự đồng ý của cả hai vợ chồng dựa trên cơ sở thoả thuận của vợ và chồng (một cách rõ ràng) hay một sự cho phép ngầm định (biết người kia quản lý nhưng không phản đối).
Trong những trường hợp vợ chồng cùng khai thác, quản lý, Luật còn thừa nhận một sự suy đoán về uỷ quyền của vợ chồng cho nhau. Sự suy đoán này tạo thành một hình thức đại diện khác: đại diện theo pháp luật. Đó là kết quả của việc lập pháp về các doanh nghiệp gia đình trong các lĩnh vực nông nghiệp, thủ công, thương mại. Điều L.321-1, khoản 2 Bộ luật về nông thôn (Code rural) có quy định: khi các bên vợ chồng cùng khai thác một cơ sở nông nghiệp, họ được suy đoán là đã trao cho nhau sự uỷ quyền để tiến hành những hành vi quản lý liên quan đến yêu cầu của việc khai thác. Trong lĩnh vực thủ công và thương mại, theo quy định của Bộ luật thương mại, người vợ (chồng) hợp tác được coi như đã nhận được từ chủ doanh nghiệp một sự uỷ quyền nhân danh mình để tiến hành những công việc quản lý liên quan đến nhu cầu của doanh nghiệp (Điều L.121-6 khoản 1).
Khoản 2 Điều 1421 BLDS có quy định: Người vợ (chồng) thực hiện nghề nghiệp riêng có quyền một mình tiến hành những hành vi quản lý, định đoạt cần thiết cho nghề nghiệp của mình. Đây là quyền riêng biệt của người vợ hoặc chồng khai thác trong lĩnh vực nghề nghiệp. Tuy nhiên, vợ (chồng) nhận được sự uỷ quyền của người kia dưới các hình thức khác nhau sẽ thực hiện các hành vi quản lý, định đoạt cần thiết theo nhu cầu của hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp với tư cách của nguời đại diện. Trong những trường hợp này, chúng ta thấy rằng, những hành vi quản lý của vợ và chồng về tài sản hay hoạt động của doanh nghiệp chuyển từ hình thức quản lý riêng biệt (gestion exclusive) sang hình thức quản lý của mỗi bên vợ, chồng (gestion concurrente).
b- Rút quyền đại diện của vợ chồng
Trong trường hợp quyền đại diện phát sinh do sự thoả thuận của vợ chồng, việc rút quyền đại diện được thực hiện theo quy định của Điều 218 BLDS. Theo quy định này, người vợ, chồng đã uỷ quyền có thể tự do huỷ bỏ uỷ quyền trong mọi trường hợp.
Nếu quyền đại diện phát sinh do sự uỷ quyền ngầm định, thì việc huỷ bỏ uỷ quyền đó phải thực hiện thông qua sự phản đối của người vợ, chồng là chủ sở hữu (Theo quy định của các Điều 1432 và 1540 BLDS).
Đối với trường hợp quyền đại diện phát sinh do sự suy đoán về uỷ quyền theo các quy định pháp luật. Theo quy định tại Bộ luật về nông thôn (Điều L.321-1) và Bộ luật thương mại (Điều L.121-6), để chấm dứt quyền đại diện, chủ doanh nghiệp phải tuyên bố huỷ bỏ sự uỷ quyền trước công chứng viên và người vợ (chồng) của mình.
2.1.2. Hợp tác của vợ chồng trong việc quản lý các công ty
Luật pháp hiện hành không có những quy định riêng về loại hình công ty của vợ chồng. Trên cơ sở các loại hình công ty luật định, vợ chồng có thể lựa chọn một mô hình phù hợp. Điều 1832-1 BLDS đã dự liệu về một trường hợp trong đó vợ và chồng sử dụng tài sản cộng đồng để tạo ra một công ty và họ trở thành thành viên của công ty đó : Nếu chỉ dùng tài sản cộng đồng để góp vốn vào công ty hoặc mua cổ phần thì chỉ hai vợ chồng hoặc với những nguời khác có thể là thành viên trong cùng một công ty và cùng tham gia hoặc không vào việc quản lý công ty. Trong những trường hợp đó, pháp luật quy định về tư cách thành viên công ty của vợ và chồng cũng như những thể thức thực hiện các hoạt động trong công ty. Bên cạnh đó, do còn « đóng vai » chủ thể của quan hệ hôn nhân nên vợ chồng còn phải tuân theo những quy định của chế độ tài sản áp dụng đối với mình.
2.1.2.1. Góp vốn vào công ty hoặc mua cổ phần của công ty
a- Thể thức dùng tài sản chung để góp vốn hoặc mua phần quyền sở hữu của công ty
Theo các quy định chung về cùng quản lý tài sản chung của vợ chồng trong các chế độ cộng đồng tài sản, nếu một bên định đoạt tài sản phải có sự đồng ý của bên kia. Tuy nhiên, để dễ dàng cho vợ (chồng) thực hiện nguyên tắc tự chủ về nghề nghiệp, trong một số trường hợp cụ thể, luật công ty đã sử dụng một giải pháp linh hoạt hơn là đòi hỏi một sự ưng thuận của chồng (vợ) của họ.
Khoản 1 Điều 1832-2 BLDS quy định : Vợ hoặc chồng không thể sử dụng tài sản chung để góp vốn vào công ty hoặc mua những cổ phần không thể chuyển nhượng của công ty mà không thông báo cho chồng hoặc vợ mình biết và không thể hiện rõ điều đó trong giao dịch, nếu không thực hiện quy định này, họ sẽ phải chịu chế tài theo quy định của Điều 1427.
Như vậy, trong trường hợp một bên vợ (chồng) dùng tài sản chung để góp vốn vào công ty hoặc mua lại những cổ phần không thể chuyển nhượng của công ty, họ chỉ có trách nhiệm thông báo cho chồng (vợ) mình biết và minh thị rõ trong văn bản giao dịch về nguồn gốc của phần vốn góp và cổ phần mua lại trong công ty. Nghĩa vụ thông báo được quy định ở khoản 1 Điều 1832-2 này, thực chất, có mục đích đặt người vợ (chồng) được thông báo vào một giải pháp thực hiện quyền đòi hỏi về tư cách thành viên công ty cho mình (nếu họ muốn), theo quy định của khoản 3 Điều này. Theo tinh thần của điều luật này, nếu vợ (chồng) không đồng ý với hành vi của người kia thì điều đó chỉ có ý nghĩa đối với việc họ không mang tư cách thành viên của công ty mà không có ý nghĩa trong việc yêu cầu tuyên bố giao dịch vô hiệu.
b- Tư cách thành viên công ty của vợ chồng
Theo quy định của khoản 2 Điều 1832-2 BLDS, tư cách thành viên được thừa nhận đối với người vợ (chồng) góp vốn hoặc mua phần quyền sở hữu của công ty. Nếu hai bên vợ và chồng có thể thoả thuận rằng chỉ một trong hai người là thành viên của công ty thì họ cũng có thể mong muốn cả hai trở thành thành viên công ty bằng cách mỗi người lấy một phần của cộng đồng tài sản để đóng góp vào công ty. Thực tế, các phần vốn góp của mỗi bên có thể khác nhau. Về nguyên tắc, mỗi bên có phần quyền của thành viên công ty tương ứng với phần vốn góp của họ.
Tư cách thành viên công ty của cả hai vợ chồng cũng được thừa nhận đối với trường hợp một bên dùng tài sản chung góp vốn vào công ty hoặc mua những phần quyền sở hữu không thể chuyển nhượng được mà đã thực hiện theo những thể thức được quy định tại khoản 1 Điều 1832-2 BLDS và bên kia đã thông báo cho công ty về mong muốn là thành viên, theo quy định của khoản 3 Điều này. Trong trường hợp này, mỗi bên có tư cách thành viên đối với một nửa số vốn đóng góp hoặc phần sở hữu đã mua. Tuy nhiên, nếu vợ (chồng) của người đă đóng góp hoặc đã mua phần quyền sở hữu đó không muốn trở thành thành viên công ty thì chỉ người đã đóng góp, đã mua phần quyền sở hữu là thành viên của công ty.
2.1.2.2. Ảnh hưởng của quyền quản lý tài sản chung của vợ chồng đối với việc định đoạt các quyền trong công ty
Quy định về quản lý tài sản chung của vợ chồng tại Điều 1424 BLDS đòi hỏi sự đồng ý của hai vợ chồng khi định đoạt một số loại tài sản chung, trong đó có xác định : các bên vợ chồng không thể chuyển nhượng, xác lập vật quyền đối với những quyền của công ty không thể chuyển nhượng được. Điều đó cho phép chúng ta hình dung ngay về một yêu cầu huỷ bỏ giao dịch liên quan đến những quyền của công ty không thể chuyển nhượng được do một bên vợ (chồng) thực hiện mà không có sự đồng ý của bên kia.
Theo Điều 1427 BLDS, nếu vợ hoặc chồng đã vượt quá quyền hạn của mình đối với tài sản chung thì người kia có thể yêu cầu huỷ những giao dịch đó, trừ khi họ đã xác nhận văn bản ký kết. Thời hiệu khởi kiện trong trường hợp này là 2 năm kể từ ngày biết có văn bản và không quá 2 năm kể từ khi giải thể cộng đồng tài sản.
Trong thực tế, án lệ đã đưa ra những giải thích thú vị về việc áp dụng Điều 1427.
Thứ nhất, thời hiệu khởi kiện yêu cầu huỷ giao dịch có thể vượt quá 2 năm kể từ ngày biết văn bản. Trong Quyết định ngày 15 tháng 7 năm 1993 (4), Toà phá án đã chấp nhận cách thức giải quyết của các Thẩm phán, trong một vụ việc, khi họ cho rằng thời điểm để tính thời hiệu khởi kiện bắt đầu từ ngày giao dịch được hoàn tất. Đó là trường hợp người chồng một mình chuyển nhượng phần quyền sở hữu của công ty (sở hữu chung) trong một điều kiện là bên mua được hoãn trả tiền. Các Thẩm phán đă cho rằng thời hạn để người vợ khởi kiện huỷ giao dịch bắt đầu từ ngày việc bán phần quyền sở hữu đó được hoàn thành, do việc thực hiện điều kiện hoãn trả tiền. Như vậy, việc kiện yêu cầu huỷ bỏ giao dịch có thể vượt quá 2 năm, kể từ ngày biết giao dịch đã được ký kết.
Thứ hai, trái lại, trong Quyết định ngày 12 tháng 7 năm 1994 (5), Toà phá án đã tán thành với các Thẩm phán khi họ tuyên bố không áp dụng chế tài được quy định tại Điều 1427. Vụ việc liên quan đến một người chồng là bác sĩ đã tự mình bán phần quyền sở hữu không thể chuyển nhượng được của công ty (thuộc cộng đồng tài sản). Trong quá trình giải quyết, người này đã xuất trình một hối phiếu nhân danh hai vợ chồng và có chữ ký của người vợ về việc thu tiền. Các Thẩm phán đã cho rằng sự hiện diện của hối phiếu này chứng tỏ người vợ đã biết trước việc chuyển nhượng, biết được việc thu tiền đó có ý nghĩa chấm dứt quyền sở hữu của họ đối với những phần quyền trong công ty. Đó là một sự chấp nhận mặc nhiên của người vợ, và vì vậy, yêu cầu huỷ giao dịch chuyển nhượng do người chồng thực hiện đã bị các Thẩm phán bác bỏ.
2.2. Hưởng lợi nhuận và chịu trách nhiệm về các khoản nợ của doanh nghiệp
2.2.1. Hưởng lợi nhuận của việc khai thác
Khác với vấn đề tổ chức và hoạt động của các doanh nghiệp của vợ chồng, vấn đề lợi nhuận của các doanh nghiệp này không nhận được sự quan tâm riêng của nhà làm luật. Thực tế, để giải quyết vấn đề này, cần phải dựa vào những quy định của luật gia đình về các chế độ tài sản của vợ chồng.
Trong khung cảnh của các doanh nghiệp gia đình (doanh nghiệp tư nhân hoặc công ty), việc xem xét giải quyết lợi nhuận đối với vợ chồng phụ thuộc nhiều ở việc xác định đó là tài sản riêng hay là bộ phận của tài sản cộng đồng. Nếu vợ chồng sống trong những chế độ tài sản thoả thuận, việc xác định tính chất của lợi nhuận, phân chia lợi nhuận sẽ phụ thuộc vào những thoả thuận của họ. Trong trường hợp chế độ tài sản pháp định được áp dụng, lợi nhuận có được từ hoạt động của doanh nghiệp bao gồm lợi tức, các khoản lợi có được…và tiền lương (của người vợ (chồng) hưởng lương) đều thuộc về tài sản cộng đồng. Kể cả trường hợp thực hiện nguyên tắc quyền tự chủ về nghề nghiệp theo quy định của Điều 223 BLDS (được tự do thu và định đoạt các món lợi và tiền lương sau khi đã thanh toán trách nhiệm đối với gia đình), lương và những khoản lợi còn lại vẫn là bộ phận của tài sản cộng đồng. Điều này dễ dàng được chấp nhận bởi nó được tạo ra từ tài sản chung của vợ chồng hoặc từ lao động của vợ hoặc chồng trong thời kỳ của chế độ tài sản. Những lợi ích này nếu tiếp tục được dùng để đầu tư vào hoạt động của doanh nghiệp, nó vẫn không mất đi tính chất của tài sản chung. Tương tự, nếu như vốn của doanh nghiệp là tài sản riêng của vợ, chồng thì những lợi nhuận sinh ra, tất cả đều thuộc tài sản cộng đồng, với tính cách là lợi tức sinh ra từ tài sản riêng theo quy định của Điều 1401 BLDS.
2.2.2. Thực hiện những nghĩa vụ của doanh nghiệp
2.2.2.1. Trong trường hợp vợ và chồng có vai trò hợp tác ngang nhau
Trong những doanh nghiệp mà vợ và chồng đều có quyền quản lý và tiến hành những hành vi cần thiết theo yêu cầu của việc khai thác, (như chúng ta đã nói đến tư cách của người hợp tác, cùng khai thác của họ) thì vợ và chồng phải cùng nhau chịu trách nhiệm về những khoản nợ của doanh nghiệp.
a- Trong các doanh nghiệp tư nhân
* Quyền của chủ nợ phụ thuộc vào sự thừa nhận tư cách “cùng khai thác, hợp tác” của vợ chồng
Để xác định trách nhiệm của vợ, chồng, luật pháp đòi hỏi một sự xác định về tư cách của vợ, chồng tham gia vào hoạt động của doanh nghiệp. Việc xác định tư cách “hợp tác” của vợ (chồng) trong các doanh nghiệp hoạt động về thủ công hoặc thương mại phải dựa vào sổ đăng ký thương mại và công ty, trong danh sách những nghề nghiệp hoặc trong sổ đăng ký các doanh nghiệp được lưu giữ bởi Trung tâm quản lý nghề nghiệp Alsace và Moselle. Việc xác định tư cách “cùng khai thác” của người vợ (chồng) trong doanh nghiệp về nông nghiệp thì phải căn cứ vào thực tế hoạt động của họ: “cùng khai thác và cho chính họ ở cùng một cơ sở nông nghiệp” (Điều L.321-1, khoản 1 Bộ luật về nông thôn).
* Quyền của chủ nợ đối với người vợ, chồng hợp tác, cùng khai thác
- Trong trường hợp hoạt động khai thác không hiệu quả
Khi một doanh nghiệp lâm vào tình trạng không thể thanh toán được những khoản nợ bằng phần tài sản có, thì một thủ tục thanh toán pháp lý sẽ được tiến hành đối với nó. Thủ tục này sẽ chống lại hai vợ chồng với tư cách là những người cùng quản lý doanh nghiệp, mỗi người chịu sự điều chỉnh bởi một thủ tục theo quy định của luật chung áp dụng đối với các con nợ trong tình trạng ngừng việc trả nợ. Qua việc đánh giá khả năng tài chính của từng bên vợ, chồng, Thẩm phán quyết định một bên – người có thể thanh toán được nghĩa vụ bằng tài sản hiện có của mình, phải trả nợ chung.
Khi thanh toán cộng đồng tài sản, người vợ (chồng) đã dùng tài sản riêng của mình để trả nợ chung có quyền yêu cầu tài sản cộng đồng bồi hoàn lại cho mình theo những quy định của chế độ tài sản.
- Trong trường hợp việc khai thác có lãi
Đối với trường hợp hoạt động về thương mại, việc cùng khai thác của hai vợ chồng là cơ sở xác định nghĩa vụ liên đới về việc trả nợ. Trong một vụ việc thực tế, hai vợ chồng kết hôn dưới chế độ tách riêng tài sản cùng hợp tác vào hoạt động khai thác cơ sở thương mại, Toà thương mại của Toà phá án, tại quyết định đưa ra ngày 19/5/1982 đã cho rằng người vợ phải liên đới cùng với chồng trả khoản nợ trong tài khoản được người chồng mở tại một cơ sở tín dụng. Toà đã chỉ ra rằng người vợ đã cùng khai thác sản nghiệp một cách “thường xuyên và không phụ thuộc vào người chồng”, trong khi khoản nợ đang tranh chấp đã được ký kết vì nhu cầu của hoạt động thương mại. Sự tham gia quản lý doanh nghiệp một cách ngang bằng, tương ứng với sự ngang bằng về trách nhiệm đối với những khoản nợ của doanh nghiệp. Hơn nữa, do đây là một hoạt động thương mại nên sự suy đoán về nghĩa vụ liên đới gắn liền với tư cách thương gia của cả hai bên vợ và chồng. Thực tế, chủ nợ của cơ sở khai thác có quyền khởi kiện một trong hai bên vợ chồng về toàn bộ số nợ. Vợ và chồng phải đảm bảo việc thanh toán nợ bằng tất cả tài sản của họ, bất kể họ kết hôn dưới chế độ tài sản nào.
b- Trong các công ty
* Quyền của chủ nợ đối với các công ty có tư cách pháp nhân
- Đối với các công ty trách nhiệm hữu hạn
Trách nhiệm của vợ chồng là thành viên của công ty chỉ giới hạn trong phần vốn góp. Vợ chồng là người điều hành quản lý công ty (có thể chí gồm hai vợ chồng). Do đó, vợ và chồng phải cùng chịu trách nhiệm về phần nợ của công ty. Chủ nợ có quyền kiện vợ hoặc chồng và quyền đó bị giới hạn trên những tài sản đã đưa vào hoạt động trong công ty.
- Đối với các công ty trách nhiệm vô hạn
Ở Pháp tồn tại một số loại hình công ty mà các thành viên phải chịu trách nhiệm vô hạn. Trong các công ty này, vợ chồng phải chịu trách nhiệm vô hạn về phần nợ của công ty. Trách nhiệm đó có thể là liên đới hoặc không. Trong trường hợp vợ chồng phải chịu trách nhiệm liên đới (công ty hợp danh), chủ nợ có quyền yêu cầu vợ hoặc chồng thực hiện nghĩa vụ trên tất cả tài sản của họ. Nếu không có trách nhiệm liên đới (công ty dân sự), mỗi bên vợ chồng phải chịu trách nhiệm về phần nợ của công ty theo tỷ lệ phần quyền sở hữu của họ trong công ty, và cam kết thực hiện bằng những tài sản khác của họ.
* Quyền của chủ nợ đối với các công ty không có tư cách pháp nhân
Luật của Pháp có quy định về một hình thức công ty mà khi thành lập, các thành viên có thể thoả thuận là không cần đăng ký, được gọi là “Công ty dự phần”. Công ty dự phần không có tư cách pháp nhân. Vợ chồng có thể là thành viên của công ty này.
Về nguyên tắc, mỗi thành viên giao kết nhân danh cá nhân mình và chịu trách nhiệm cá nhân đối với người thứ ba. Chủ nợ có quyền kiện cá nhân mỗi bên vợ hoặc chồng về những nghiã vụ phát sinh từ giao dịch đã thực hiện đối với mình. Vợ, chồng phải cam kết cho những nghĩa vụ của mình bằng phần vốn góp vào công ty và những tài sản khác của họ.
Tuy nhiên, “nếu những người tham gia hành động với tư cách là thành viên công ty mà người thứ ba biết rõ về điều này thì mỗi người trong số họ phải chịu trách nhiệm đối với người thứ ba về những nghĩa vụ phát sinh từ những giao dịch do những người khác thực hiện với tư cách này, nếu trong công ty thương mại thì nghĩa vụ đó là nghĩa vụ liên đới, trong những trường hợp khác nghĩa vụ đó không liên đới” (Khoản 2 Điều 1872-1 BLDS). Như vậy, trách nhiệm vô hạn của các bên vợ chồng có thể là liên đới hay không phụ thuộc vào lĩnh vực kinh doanh của công ty.
2.2.2.2. Trong trường hợp sự hợp tác của vợ và chồng không ngang nhau
Sự hợp tác không ngang nhau của vợ và chồng thể hiện ở tư cách, vai trò của họ trong việc quản lý, điều hành các hoạt động của doanh nghiệp: một bên là người khai thác; bên kia là người làm công hưởng lương, là đại lý hoặc là thành viên công ty nhưng không quản lý. Tuy nhiên, sự khác nhau về vai trò quản lý đó không thể phá bỏ được mối liên hệ về hôn nhân của họ mà trong đó các bên đều được hưởng lợi nhuận từ doanh nghiệp, và vì thế, không thể, một mặt, loại trừ trách nhiệm của người vợ (chồng) tham gia vào doanh nghiệp chỉ có tính chất bổ trợ, mặt khác, bắt người quản lý doanh nghiệp phải gánh chịu tất cả nghĩa vụ của doanh nghiệp. Song, vấn đề là cũng cần phải có một cơ chế giải quyết phần nợ của doanh nghiệp một cách hợp lý, trên cơ sở mối quan hệ giữa quyền quản lý doanh nghiệp và trách nhiệm trực tiếp của người quản lý.
a- Trong các doanh nghiệp tư nhân
Nếu vợ chồng kết hôn dưới các chế độ tài sản riêng rẽ thì chỉ người vợ (chồng) khai thác phải chịu trách nhiệm về nghĩa vụ của doanh nghiệp bằng tài sản riêng của họ, trách nhiệm đó không ràng buộc đối với người chồng (vợ) là đại lý hoặc hưởng lương (Điều 1536 khoản 2 và Điều 1569 khoản 1 BLDS).
Nếu vợ chồng có chế độ cộng đồng tài sản (pháp định hay ước định), người vợ (chồng) khai thác phải cam kết trách nhiệm đối với chủ nợ bằng tài sản cộng đồng và tài sản riêng của mình, theo quy định của khoản 1 Điều 1418 BLDS. Do xác định đây là phần nợ chung của cộng đồng tài sản, nên vợ chồng sẽ dùng tài sản chung để thanh toán nghĩa vụ.
Trong trường hợp người vợ (chồng) của người khai thác chỉ hành động nhân danh chồng (vợ) mình trong khuôn khổ một sự đại diện theo pháp luật, theo thoả thuận hoặc theo quyết định tư pháp thì chỉ người chồng khai thác – chủ nhân của quyền quản lý doanh nghiệp phải chịu trách nhiệm trước chủ nợ về những hậu quả mà người đại diện đã gây ra. Việc thực hiện nghĩa vụ và đóng góp thực hiện nghĩa vụ được giải quyết giống như những trường hợp nêu trên, tức là tuỳ thuộc vào chế độ tài sản của vợ chồng.
b- Trong các công ty có tư cách pháp nhân
Trong khuôn khổ của một công ty chỉ có hai vợ chồng, một người mặc dù có tư cách thành viên nhưng không thể vì thế mà tham gia vào việc lãnh đạo công ty bên cạnh chồng (vợ) của mình. Bên cạnh đó còn có những công ty đối vốn đơn giản mà vợ (chồng) là người hùn vốn và quản lý duy nhất.
Người vợ (chồng) là thành viên chỉ phải đóng góp vào những tổn thất của công ty trong phạm vi vốn góp của mình mà không thể bị khởi kiện do những nghĩa vụ của công ty. Người vợ (chồng) quản lý công ty công ty trách nhiệm hữu hạn của vợ chồng không những phải chịu trách nhiệm đối với phần nợ của công ty bằng phần vốn góp của mình, mà còn phải chịu trách nhiệm về những vi phạm trong quá trình thực hiện chức năng quản lý công ty. Người vợ (chồng) hùn vốn và quản lý công ty đối vốn phải đáp ứng một cách vô hạn về phần nợ của công ty, với một sự bảo lưu duy nhất là đòi hỏi chủ nợ của công ty cần ưu tiên quyền đòi nợ trước hết đối với phần có của công ty (Điều L.624-1 Bộ luật thương mại).
Tài liệu tham khảo:
1. (1): xem Giáo trình Luật dân sự-Những chế độ tài sản của vợ chồng của François Térré – Giáo sư trường Đại học tổng hợp Panthéon-Assas (Paris II) và Philippe Simler – Giáo sư trường Đại học tổng hợp Robert-Schuman (Strasbourg III), xuất bản lần thứ tư, 2005, Dalloz.
2. (2): Xem Doanh nghiệp gia đình (Tuyển chọn luận án tiến sĩ) của Anne KARM (Giáo sư về luật tư của khoa Luật, trường Đại học tổng hợp Rennes 1), Nhà xuất bản Defrénois, 2004
3. (3): Doanh nghiệp gia đình (đã dẫn), trang 48-49
4. (4): Tạp chí luật dân sự, I, số 255, án lệ, 1994, Philippe SIMLER
5. (5): Tạp chí luật dân sự, I, số 246, D.1995, François LUCET
6. Xem Giáo trình Luật dân sự-Gia đình của Gérard Cornu – Giáo sư trường Đại học tổng hợp Panthéon-Assas (Paris II), trang 65, in lần thứ chín, 2006, Montchrestien.
7. Bộ luật dân sự, Bộ luật thương mại, Bộ luật về giao thông, Bộ luật lao động, Bộ luật về an sinh xã hội
8. Luật ngày 4/7/1980 về hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, Luật ngày 10/7/1982 về các doanh nghiệp gia đình trong lĩnh vực thủ công và thương mại…
Sài Gòn Minh Luật ST - Theo http://thongtinphapluatdansu.wordpress.com/
Tài liệu học tập:
- Tập bài giảng môn Luật hôn nhân và gia đình của trường đại học luật Tp.HCM
- Giáo trình luật Luật hôn nhân và gia đình của trường Đại học luật Hà Nội
- Bộ dân luật 1972
- Bộ luật dân sự Liên bang Ng
- Bộ luật dân sự Pháp
- Quốc triều hình luật
- Sắc lệnh 97-SL ngày 22.5.1950 của Chủ tịch nước Việt nam dân chủ cộng hoà sửa đổi một số quy lệ và chế định trong dân luật.
- Sắc lệnh số 159-SL ngày 17.11.1950 của Chủ tịch nước Việt nam dân chủ cộng hoà qui định về vấn đề ly hôn.
- Luật Hôn nhân gia đình năm 1959
- Luật Hôn nhân gia đình năm 1986.
- Luật quốc tịch Việt nam năm 1998.
- Hiến pháp năm 1992
- Bộ luật Dân sự 1995, 2005
Viết chuyên đề: Vị trí của chế độ tài sản trong hôn nhân và gia đình
CHƯƠNG 2: CĂN CỨ XÁC LẬP CHẾ ĐỘ TÀI HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
2.1. Khái niệm căn cứ xác lập chế độ tài sản trong hôn nhân và gia đình
2.1.1. Khái niệm
Căn cứ xác lập là cơ sở pháp do nhà nước ban hành nhằm điều chỉnh chế độ tài sản căn cứ xác lập chế độ tài sản trong hôn nhân và gia đình. Là toàn bộ các quy phạm pháp luật do nhà nước ban hành điều chỉnh căn cứ xác lập quan hệ tài sản
2.1. 2. Các đặc trưng của căn cứ xác lập chế độ tài sản trong hôn nhân và gia đình
- Nhà nước thống nhất quản lý tài sản bằng pháp luật
- Chế độ tài sản trong hôn nhân và gia đình có tính tương đối và giao thoa với luật dân sự
- Sự kiện làm hình thành chế độ tài sản xuất phát từ các sự kiện kết hôn, sinh đẻ, nuôi con nuôi
2.2. Các căn cứ xác lập
2.2.1. Theo quy định của pháp luật
BỘ LUẬT DÂN SỰ 2005
Điều 170. Căn cứ xác lập quyền sở hữu
Quyền sở hữu được xác lập đối với tài sản trong các trường hợp sau đây:
1. Do lao động, do hoạt động sản xuất, kinh doanh hợp pháp;
2. Được chuyển quyền sở hữu theo thoả thuận hoặc theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền;
3. Thu hoa lợi, lợi tức;
4. Tạo thành vật mới do sáp nhập, trộn lẫn, chế biến;
5. Được thừa kế tài sản;
6. Chiếm hữu trong các điều kiện do pháp luật quy định đối với vật vô chủ, vật bị đánh rơi, bị bỏ quên, bị chôn giấu, gia súc, gia cầm bị thất lạc, vật nuôi dưới nước di chuyển tự nhiên;
7. Chiếm hữu tài sản không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình, liên tục, công khai phù hợp với thời hiệu quy định tại khoản 1 Điều 247 của Bộ luật này;
8. Các trường hợp khác do pháp luật quy định.
Điều 171. Căn cứ chấm dứt quyền sở hữu
Quyền sở hữu chấm dứt trong các trường hợp sau đây:
1. Chủ sở hữu chuyển quyền sở hữu của mình cho người khác;
2. Chủ sở hữu từ bỏ quyền sở hữu của mình;
3. Tài sản bị tiêu huỷ;
4. Tài sản bị xử lý để thực hiện nghĩa vụ của chủ sở hữu;
5. Tài sản bị trưng mua;
6. Tài sản bị tịch thu;
7. Vật bị đánh rơi, bị bỏ quên, gia súc, gia cầm bị thất lạc, vật nuôi dưới nước di chuyển tự nhiên mà người khác đã được xác lập quyền sở hữu trong các điều kiện do pháp luật quy định; tài sản mà người khác đã được xác lập quyền sở hữu theo quy định tại khoản 1 Điều 247 của Bộ luật này;
8. Các trường hợp khác do pháp luật quy định.
XÁC LẬP QUYỀN SỞ HỮU
Điều 233. Xác lập quyền sở hữu đối với tài sản có được do lao động, do hoạt động sản xuất, kinh doanh hợp pháp
Người lao động, người tiến hành hoạt động sản xuất, kinh doanh hợp pháp có quyền sở hữu đối với tài sản do lao động, do hoạt động sản xuất, kinh doanh hợp pháp, kể từ thời điểm có được tài sản đó.
Điều 234. Xác lập quyền sở hữu theo thoả thuận
Người được giao tài sản thông qua hợp đồng mua bán, tặng cho, trao đổi, cho vay có quyền sở hữu tài sản đó, kể từ thời điểm chuyển giao tài sản, nếu các bên không có thoả thuận khác hoặc pháp luật không có quy định khác.
Điều 235. Xác lập quyền sở hữu đối với hoa lợi, lợi tức
Chủ sở hữu, người sử dụng tài sản có quyền sở hữu đối với hoa lợi, lợi tức theo thoả thuận hoặc theo quy định của pháp luật, kể từ thời điểm thu được hoa lợi, lợi tức đó.
Điều 236. Xác lập quyền sở hữu trong trường hợp sáp nhập
1. Trong trường hợp tài sản của nhiều chủ sở hữu khác nhau được sáp nhập với nhau tạo thành vật không chia được và không thể xác định tài sản đem sáp nhập là vật chính hoặc vật phụ thì vật mới được tạo thành là tài sản thuộc sở hữu chung của các chủ sở hữu đó; nếu tài sản đem sáp nhập là vật chính và vật phụ thì vật mới được tạo thành thuộc chủ sở hữu vật chính, kể từ thời điểm vật mới được tạo thành; chủ sở hữu tài sản mới phải thanh toán cho chủ sở hữu vật phụ phần giá trị của vật phụ đó, nếu không có thoả thuận khác.
2. Khi một người sáp nhập tài sản là động sản của người khác vào tài sản là động sản của mình, mặc dù đã biết hoặc phải biết tài sản đó không phải là của mình và cũng không được sự đồng ý của chủ sở hữu tài sản bị sáp nhập thì chủ sở hữu tài sản bị sáp nhập có một trong các quyền sau đây:
a) Yêu cầu người sáp nhập tài sản giao tài sản mới cho mình và thanh toán cho người sáp nhập giá trị tài sản của người đó;
b) Yêu cầu người sáp nhập tài sản thanh toán giá trị phần tài sản của mình và bồi thường thiệt hại, nếu không nhận tài sản mới.
3. Khi một người sáp nhập tài sản là động sản của người khác vào tài sản là bất động sản của mình, mặc dù đã biết hoặc phải biết tài sản đó không phải là của mình và cũng không được sự đồng ý của chủ sở hữu tài sản bị sáp nhập thì chủ sở hữu tài sản bị sáp nhập có quyền yêu cầu người sáp nhập tài sản thanh toán giá trị phần tài sản của mình và bồi thường thiệt hại.
Điều 237. Xác lập quyền sở hữu trong trường hợp trộn lẫn
1. Trong trường hợp tài sản của nhiều chủ sở hữu khác nhau được trộn lẫn với nhau tạo thành vật mới không chia được thì vật mới là tài sản thuộc sở hữu chung của các chủ sở hữu đó, kể từ thời điểm trộn lẫn.
2. Khi một người đã trộn lẫn tài sản của người khác vào tài sản của mình, mặc dù đã biết hoặc phải biết tài sản đó không phải của mình và không được sự đồng ý của chủ sở hữu tài sản bị trộn lẫn thì chủ sở hữu tài sản bị trộn lẫn có một trong các quyền sau đây:
a) Yêu cầu người đã trộn lẫn tài sản giao tài sản mới cho mình và thanh toán cho người đã trộn lẫn phần giá trị tài sản của người đó;
b) Yêu cầu người đã trộn lẫn tài sản thanh toán giá trị phần tài sản của mình và bồi thường thiệt hại, nếu không nhận tài sản mới.
Điều 238. Xác lập quyền sở hữu trong trường hợp chế biến
1. Chủ sở hữu của nguyên vật liệu được đem chế biến tạo thành vật mới cũng là chủ sở hữu của vật mới được tạo thành.
2. Người dùng nguyên vật liệu thuộc sở hữu của người khác để chế biến mà ngay tình thì trở thành chủ sở hữu của tài sản mới nhưng phải thanh toán giá trị nguyên vật liệu, bồi thường thiệt hại cho chủ sở hữu nguyên vật liệu đó.
3. Trong trường hợp người chế biến không ngay tình thì chủ sở hữu nguyên vật liệu có quyền yêu cầu giao lại vật mới; nếu có nhiều chủ sở hữu nguyên vật liệu thì những người này là đồng chủ sở hữu theo phần đối với vật mới được tạo thành, tương ứng với giá trị nguyên vật liệu của mỗi người. Chủ sở hữu nguyên vật liệu bị chế biến không ngay tình có quyền yêu cầu người chế biến bồi thường thiệt hại.
Điều 239. Xác lập quyền sở hữu đối với vật vô chủ, vật không xác định được chủ sở hữu
1. Vật vô chủ là vật mà chủ sở hữu đã từ bỏ quyền sở hữu đối với vật đó.
Người đã phát hiện vật vô chủ là động sản thì có quyền sở hữu tài sản đó theo quy định của pháp luật; nếu vật được phát hiện là bất động sản thì thuộc Nhà nước.
2. Người phát hiện vật không xác định được ai là chủ sở hữu phải thông báo hoặc giao nộp cho Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn hoặc công an cơ sở gần nhất để thông báo công khai cho chủ sở hữu biết mà nhận lại.
Việc giao nộp phải được lập biên bản, trong đó ghi rõ họ, tên, địa chỉ của người giao nộp, người nhận, tình trạng, số lượng, khối lượng tài sản giao nộp.
Uỷ ban nhân dân hoặc công an cơ sở đã nhận vật phải thông báo cho người phát hiện về kết quả xác định chủ sở hữu.
Trong trường hợp vật không xác định được ai là chủ sở hữu là động sản thì sau một năm, kể từ ngày thông báo công khai, mà vẫn không xác định được ai là chủ sở hữu thì động sản đó thuộc sở hữu của người phát hiện theo quy định của pháp luật; nếu vật là bất động sản thì sau năm năm, kể từ ngày thông báo công khai vẫn chưa xác định được ai là chủ sở hữu thì bất động sản đó thuộc Nhà nước; người phát hiện được hưởng một khoản tiền thưởng theo quy định của pháp luật.
Điều 240. Xác lập quyền sở hữu đối với vật bị chôn giấu, bị chìm đắm được tìm thấy
Vật bị chôn giấu, bị chìm đắm được tìm thấy mà không có hoặc không xác định được ai là chủ sở hữu thì sau khi trừ chi phí tìm kiếm, bảo quản, quyền sở hữu đối với vật đó được xác định như sau:
1. Vật được tìm thấy là di tích lịch sử, văn hoá thì thuộc Nhà nước; người tìm thấy vật đó được hưởng một khoản tiền thưởng theo quy định của pháp luật;
2. Vật được tìm thấy không phải là di tích lịch sử, văn hoá, mà có giá trị đến mười tháng lương tối thiểu do Nhà nước quy định thì thuộc sở hữu của người tìm thấy; nếu vật tìm thấy có giá trị lớn hơn mười tháng lương tối thiểu do Nhà nước quy định thì người tìm thấy được hưởng giá trị bằng mười tháng lương tối thiểu do Nhà nước quy định và 50% giá trị của phần vượt quá mười tháng lương tối thiểu do Nhà nước quy định, phần giá trị còn lại thuộc Nhà nước.
Điều 241. Xác lập quyền sở hữu đối với vật do người khác đánh rơi, bỏ quên
1. Người nhặt được vật do người khác đánh rơi hoặc bỏ quên mà biết được địa chỉ của người đánh rơi hoặc bỏ quên thì phải thông báo hoặc trả lại vật cho người đó; nếu không biết địa chỉ của người đánh rơi hoặc bỏ quên thì phải thông báo hoặc giao nộp cho Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn hoặc công an cơ sở gần nhất để thông báo công khai cho chủ sở hữu biết mà nhận lại.
Uỷ ban nhân dân hoặc công an cơ sở đã nhận vật phải thông báo cho người đã giao nộp về kết quả xác định chủ sở hữu.
2. Sau một năm, kể từ ngày thông báo công khai về vật nhặt được mà không xác định được chủ sở hữu hoặc chủ sở hữu không đến nhận, nếu vật có giá trị đến mười tháng lương tối thiểu do Nhà nước quy định thì vật đó thuộc sở hữu của người nhặt được; nếu vật có giá trị lớn hơn mười tháng lương tối thiểu do Nhà nước quy định thì sau khi trừ chi phí bảo quản người nhặt được được hưởng giá trị bằng mười tháng lương tối thiểu do Nhà nước quy định và 50% giá trị của phần vượt quá mười tháng lương tối thiểu do Nhà nước quy định, phần giá trị còn lại thuộc Nhà nước.
3. Vật bị đánh rơi, bị bỏ quên là di tích lịch sử, văn hoá mà sau một năm, kể từ ngày thông báo công khai, không xác định được chủ sở hữu hoặc không có người đến nhận thì vật đó thuộc Nhà nước; người nhặt được vật đó được hưởng một khoản tiền thưởng theo quy định của pháp luật.
Điều 242. Xác lập quyền sở hữu đối với gia súc bị thất lạc
Người bắt được gia súc bị thất lạc phải nuôi giữ và báo cho Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi người đó cư trú để thông báo công khai cho chủ sở hữu biết mà nhận lại. Chủ sở hữu nhận lại gia súc bị thất lạc phải thanh toán tiền công nuôi giữ và các chi phí khác cho người bắt được.
Sau sáu tháng, kể từ ngày thông báo công khai mà không có người đến nhận thì gia súc đó thuộc sở hữu của người bắt được; nếu gia súc bắt được là gia súc thả rông theo tập quán thì thời hạn này là một năm.
Trong thời gian nuôi giữ gia súc bị thất lạc, nếu gia súc có sinh con thì người bắt được gia súc được hưởng một nửa số gia súc sinh ra và phải bồi thường thiệt hại nếu có lỗi cố ý làm chết gia súc.
Điều 243. Xác lập quyền sở hữu đối với gia cầm bị thất lạc
Trong trường hợp gia cầm của một người bị thất lạc, mà người khác bắt được thì người bắt được phải thông báo công khai để chủ sở hữu gia cầm biết mà nhận lại. Chủ sở hữu nhận lại gia cầm bị thất lạc phải thanh toán tiền công nuôi giữ và các chi phí khác cho người bắt được.
Sau một tháng, kể từ ngày thông báo công khai mà không có người đến nhận thì gia cầm đó thuộc sở hữu của người bắt được.
Trong thời gian nuôi giữ gia cầm bị thất lạc, người bắt được gia cầm được hưởng hoa lợi do gia cầm sinh ra và phải bồi thường thiệt hại nếu có lỗi cố ý làm chết gia cầm.
Điều 244. Xác lập quyền sở hữu đối với vật nuôi dưới nước
Khi vật nuôi dưới nước của một người di chuyển tự nhiên vào ruộng, ao, hồ của người khác thì thuộc sở hữu của người có ruộng, ao, hồ đó. Trong trường hợp vật nuôi dưới nước có dấu hiệu riêng biệt để có thể xác định vật nuôi không thuộc sở hữu của mình thì người có ruộng, ao, hồ đó phải thông báo công khai để chủ sở hữu biết mà nhận lại. Sau một tháng, kể từ ngày thông báo công khai mà không có người đến nhận thì vật nuôi dưới nước đó thuộc sở hữu người có ruộng, ao, hồ đó.
Điều 245. Xác lập quyền sở hữu do được thừa kế
Người thừa kế có quyền sở hữu đối với tài sản thừa kế theo quy định tại Phần thứ tư của Bộ luật này.
Điều 246. Xác lập quyền sở hữu theo bản án, quyết định của Toà án hoặc theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác
Quyền sở hữu có thể được xác lập căn cứ vào bản án, quyết định của Toà án hoặc quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác.
Điều 247. Xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu
1. Người chiếm hữu, người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình, liên tục, công khai trong thời hạn mười năm đối với động sản, ba mươi năm đối với bất động sản thì trở thành chủ sở hữu tài sản đó, kể từ thời điểm bắt đầu chiếm hữu, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này.
2. Người chiếm hữu tài sản thuộc hình thức sở hữu nhà nước không có căn cứ pháp luật thì dù ngay tình, liên tục, công khai, dù thời gian chiếm hữu là bao lâu cũng không thể trở thành chủ sở hữu tài sản đó.
LUẬT ĐẤT ĐAI
2. Hộ gia đình, cá nhân trong nước (sau đây gọi chung là hộ gia đình, cá nhân) được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất, nhận chuyển quyền sử dụng đất
3. Điều 49. Những trường hợp được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
4. Nhà nước cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho những trường hợp sau:
5. 1. Người được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, trừ trường hợp thuê đất nông nghiệp sử dụng vào mục đích công ích của xã, phường, thị trấn;
6. 2. Người được Nhà nước giao đất, cho thuê đất từ ngày 15 tháng 10 năm 1993 đến trước ngày Luật này có hiệu lực thi hành mà chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất;
7. 3. Người đang sử dụng đất theo quy định tại Điều 50 và Điều 51 của Luật này mà chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất;
8. 4. Người được chuyển đổi, nhận chuyển nhượng, được thừa kế, đượcnhận tặng cho quyền sử dụng đất; người nhận quyền sử dụng đất khi xử lý hợp đồng thế chấp, bảo lãnh bằng quyền sử dụng đất để thu hồi nợ; tổ chức sử dụng đất là pháp nhân mới được hình thành do các bên góp vốn bằng quyền sử dụng đất;
9. 5. Người được sử dụng đất theo bản án hoặc quyết định của Toà án nhân dân, quyết định thi hành án của cơ quan thi hành án hoặc quyết định giải quyết tranh chấp đất đai của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã được thi hành;
10. 6. Người trúng đấu giá quyền sử dụng đất, đấu thầu dự án có sử dụng đất;
11. 7. Người sử dụng đất quy định tại điều 90 91 92 của Luật này;
12. 8. Người mua nhà ở gắn liền với đất ở;
13. 9. Người được Nhà nước thanh lý, hoá giá nhà ở gắn liền với đất ở.
NGHỊ ĐỊNH
Về việc xử lý tài sản bị chôn giấu, bị chìm đắm được phát hiện hoặc tìm thấy thuộc đất liền, các hải đảo và vùng biển Việt Nam
XỬ LÝ TÀI CHÍNH ĐỐI VỚI TÀI SẢN BỊ CHÔN GIẤU, BỊ CHÌM ĐẮM
Điều 16. Chi thưởng
1. Tổ chức, cá nhân được thưởng trong các trường hợp sau đây:
a) Ngẫu nhiên tìm thấy và giao nộp tài sản bị chôn giấu, bị chìm đắm là di tích lịch sử - văn hóa, bảo vật quốc gia, di vật, cổ vật, tài sản thuộc lĩnh vực quốc phòng, an ninh quốc gia;
b) Phát hiện và cung cấp thông tin chính xác về tài sản bị chôn giấu, bị chìm đắm được tìm thấy.
2. Mức tiền thưởng đối với từng trường hợp cụ thể như sau:
a) Trường hợp tổ chức, cá nhân ngẫu nhiên tìm thấy và giao nộp tài sản bị chôn giấu, bị chìm đắm là di tích lịch sử - văn hóa, bảo vật quốc gia, di vật, cổ vật, tài sản thuộc lĩnh vực quốc phòng, an ninh quốc gia thì mức tiền thưởng được tính theo phương pháp lũy thoái từng phần, cụ thể như sau:
- Phần giá trị của tài sản đến 10 triệu đồng thì tỷ lệ trích thưởng là 30%;
- Phần giá trị của tài sản trên 10 triệu đồng đến 100 triệu đồng thì tỷ lệ trích thưởng là 15%;
- Phần giá trị của tài sản trên 100 triệu đồng đến 1 tỷ đồng thì tỷ lệ trích thưởng là 7%;
- Phần giá trị của tài sản trên 1 tỷ đồng đến 10 tỷ đồng thì tỷ lệ trích thưởng là 1%;
- Phần giá trị của tài sản trên 10 tỷ đồng thì tỷ lệ trích thưởng là 0,5%;
Giá trị của tài sản để trích thưởng được xác định sau khi trừ các khoản chi phí theo quy định tại Điều 18 Nghị định này.
b) Trường hợp tổ chức, cá nhân phát hiện và cung cấp thông tin chính xác về tài sản bị chôn giấu, bị chìm đắm được tìm thấy là di tích lịch sử - văn hóa, bảo vật quốc gia, di vật, cổ vật, tài sản thuộc lĩnh vực quốc phòng, an ninh quốc gia thì mức tiền thưởng bằng 50% của các mức thưởng tương ứng quy định tại điểm a khoản này.
c) Trường hợp tổ chức, cá nhân phát hiện và cung cấp thông tin chính xác về tài sản bị chôn giấu, bị chìm đắm được tìm thấy không phải là di tích lịch sử - văn hóa, bảo vật quốc gia, di vật, cổ vật, tài sản thuộc lĩnh vực quốc phòng, an ninh quốc gia thì mức tiền thưởng bằng 30% của các mức thưởng tương ứng quy định tại điểm a khoản này.
3. Mức tiền thưởng cụ thể do Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch (đối với tài sản được tìm thấy là di tích lịch sử - văn hóa, bảo vật quốc gia, di vật, cổ vật), Bộ trưởng Bộ Quốc phòng (đối với tài sản được tìm thấy thuộc lĩnh vực quốc phòng, an ninh quốc gia), Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh (đối với tài sản được tìm thấy khác) quyết định, tối đa không vượt quá 200 triệu đồng đối với mỗi gói thưởng.
4. Trường hợp có nhiều tổ chức, cá nhân thuộc đối tượng được chi thưởng và giá trị tài sản tìm thấy có giá trị đặc biệt thì các cấp có thẩm quyền quy định tại khoản 3 Điều này trình Thủ tướng Chính phủ quyết định mức thưởng.
5. Bộ Tài chính hướng dẫn việc thành lập Hội đồng định giá, xác định giá trị tài sản bị chôn giấu, bị chìm đắm được tìm thấy để làm căn cứ chi thưởng theo quy định tại Điều này.
Trường hợp không xác định được giá trị của tài sản bị chôn giấu, bị chìm đắm được tìm thấy thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định tại khoản 3 Điều này quyết định mức tiền thưởng cụ thể, tối đa không vượt quá 200 triệu đồng. Trường hợp đặc biệt do Thủ tướng Chính phủ quyết định.
Điều 17. Thanh toán phần giá trị của tài sản cho tổ chức, cá nhân ngẫu nhiên tìm thấy
1. Tổ chức, cá nhân trong quá trình sinh hoạt, sản xuất mà ngẫu nhiên tìm thấy tài sản bị chôn giấu, bị chìm đắm không phải là di tích lịch sử - văn hóa, bảo vật quốc gia, di vật, cổ vật, tài sản thuộc lĩnh vực quốc phòng, an ninh quốc gia thì được hưởng toàn bộ hoặc một phần giá trị của tài sản được tìm thấy như sau:
a) Nếu tài sản có giá trị đến mười tháng lương tối thiểu do Nhà nước quy định (tại thời điểm tìm thấy và giao nộp tài sản) sau khi trừ các khoản chi phí hợp lý có liên quan thì xử lý theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 11 Nghị định này;
b) Nếu tài sản có giá trị lớn hơn mười tháng lương tối thiểu do Nhà nước quy định (tại thời điểm tìm thấy và giao nộp tài sản) sau khi trừ các khoản chi phí hợp lý có liên quan thì tổ chức, cá nhân tìm thấy tài sản được hưởng giá trị bằng mười tháng lương tối thiểu và 50% giá trị của phần vượt quá mười tháng lương tối thiểu do Nhà nước quy định, phần giá trị còn lại thuộc về Nhà nước.
2. Cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định tại khoản 2 Điều 11 Nghị định này quyết định mức được hưởng của tổ chức, cá nhân ngẫu nhiên tìm thấy tài sản bị chôn giấu, bị chìm đắm.
3. Trường hợp tổ chức, cá nhân phát hiện hoặc tìm thấy tài sản bị chôn giấu, bị chìm đắm mà không thông báo, không giao nộp cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định tại Điều 5, Điều 9 Nghị định này thì không được thưởng, không được thưởng theo giá trị tài sản tìm thấy và bị xử lý theo quy định tại khoản 6 Điều 4 Nghị định này.
4. Tổ chức, cá nhân được thưởng theo quy định tại Điều 16 Nghị định này thì không được hưởng toàn bộ hoặc một phần giá trị của tài sản theo quy định tại Điều này; tổ chức, cá nhân được hưởng toàn bộ hoặc một phần giá trị của tài sản theo quy định tại Điều này thì không được hưởng theo quy định tại Điều 16 Nghị định này.
2.2.2. Theo ý chí của các chủ thể
LUẬT HNGĐ 2000
Điều 27. Tài sản chung của vợ chồng
1. Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và những tài sản khác mà vợ chồng thoả thuận là tài sản chung.
NĐ 70
Điều 9. Khôi phục chế độ tài sản chung của vợ chồng
1. Trong trường hợp vợ chồng đã chia tài sản chung và sau đó muốn khôi phục chế độ tài sản chung, thì vợ chồng phải thoả thuận bằng văn bản có ghi rõ các nội dung sau đây:
a) Lý do khôi phục chế độ tài sản chung;
b) Phần tài sản thuộc sở hữu riêng của mỗi bên;
c) Phần tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng, nếu có;
d) Thời điểm có hiệu lực của việc khôi phục chế độ tài sản chung;
đ) Các nội dung khác, nếu có.
2. Văn bản thoả thuận phải ghi rõ ngày, tháng, năm lập văn bản và phải có chữ ký của cả vợ và chồng; văn bản thoả thuận có thể có người làm chứng hoặc được công chứng, chứng thực theo yêu cầu của vợ chồng hoặc theo quy định của pháp luật.
Điều 10. Thời điểm có hiệu lực của việc khôi phục chế độ tài sản chung
1. Trong trường hợp văn bản thoả thuận khôi phục chế độ tài sản chung của vợ chồng không xác định rõ thời điểm có hiệu lực của việc khôi phục chế độ tài sản chung, thì hiệu lực được tính từ ngày, tháng, năm lập văn bản.
2. Trong trường hợp văn bản thoả thuận chia tài sản chung của vợ chồng được công chứng hoặc chứng thực theo yêu cầu của vợ chồng, thì văn bản thoả thuận khôi phục chế độ tài sản chung của vợ chồng cũng phải được công chứng hoặc chứng thực và việc khôi phục chế độ tài sản chung có hiệu lực kể từ ngày xác định trong văn bản thoả thuận; nếu văn bản không xác định ngày có hiệu lực đó, thì hiệu lực được tính từ ngày văn bản đó được công chứng, chứng thực.
3. Trong trường hợp văn bản thoả thuận chia tài sản chung của vợ chồng phải công chứng, chứng thực theo quy định của pháp luật, thì văn bản thoả thuận khôi phục chế độ tài sản chung cũng phải được công chứng, chứng thực theo quy định của pháp luật và có hiệu lực kể từ ngày được công chứng, chứng thực.
2.2.3. Theo ý chí của chủ thể thứ ba
Chuyển quyền sở hữu dưới các hình thức khác nhau
Điều 27. Tài sản chung của vợ chồng
1. Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và những tài sản khác mà vợ chồng thoả thuận là tài sản chung.
Những vấn đề cơ bản trong pháp luật của Cộng hòa Pháp về chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận (Les régimes matrimoniaux conventionnels)
1.2.1. Nguyên tắc tự do lựa chọn chế độ tài sản trong hôn nhân
Nguyên tắc này bắt nguồn từ việc thực hiện nguyên tắc tự do ký kết hợp đồng đã được thừa nhận ở Pháp từ thế kỷ XVI, khi mà những quan hệ kinh tế, thương mại phát triển mạnh. Từ thời kỳ đó, luật pháp và tập quán đã thừa nhận những sự thỏa thuận của vợ chồng về chế độ tài sản phù hợp với hoàn cảnh kinh tế của họ, như là một quyền tự do cá nhân. Bộ luật dân sự 1804 ra đời đã kế thừa tinh thần này và duy trì nguyên tắc không thay đổi những thỏa thuận của vợ chồng về chế độ hôn sản[5].
Đạo luật ngày 13 tháng 7 năm 1965 về cải cách chế độ tài sản của vợ chồng đã hủy bỏ nguyên tắc này vì cho rằng nó hạn chế quyền quyết định của vợ chồng về chế độ tài sản. Hiện nay, nguyên tắc vợ chồng có quyền tự do lựa chọn chế độ tài sản được khẳng định ngay trong quy định đầu tiên của phần những quy định chung của Bộ luật dân sự về các chế độ tài sản của vợ chồng. Điều 1387 quy định : « Luật pháp chỉ điều chỉnh quan hệ vợ chồng về tài sản khi không có thỏa thuận riêng, mà vợ chồng có thể làm vì cho rằng điều đó là cần thiết, miễn sao những thỏa thuận đó không trái với thuần phong mỹ tục và những quy định sau đây ».
Thực tế, nhà lập pháp của Pháp đã đưa ra một hệ thống các chế độ tài sản của vợ chồng, bao gồm chế độ tài sản pháp định và các chế độ tài sản ước định. Dưới ảnh hưởng của nguyên tắc tự do lựa chọn chế độ tài sản của vợ chồng, chế độ tài sản pháp định không có hiệu lực áp dụng một cách đương nhiên, trái lại, nó chỉ là một chế độ tùy nghi (facultatif). Những người kết hôn hoàn toàn có quyền tự do thỏa thuận một chế độ tài sản cho riêng mình. Nếu họ không thiết lập những thỏa thuận về vấn đề này, chế độ tài sản pháp định sẽ đương nhiên được áp dụng. Mặt khác, nguyên tắc tự do thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng còn giữ hiệu lực ngay cả trong những trường hợp chế độ tài sản đã được xác định, bằng việc vợ chồng có quyền thỏa thuận thay đổi. Sự thay đổi này có thể được thực hiện trước khi kết hôn hoặc trong thời kỳ hôn nhân. Theo quy định của điều 1394 BLDS, những thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng phải được tiến hành với sự tham gia của công chứng viên, theo những thể thức nhất định.
1.2.2. Nội dung của hôn ước
Chứng thư thể hiện sự thỏa thuận của người kết hôn hay của vợ chồng về chế độ tài sản của họ trong hôn nhân được gọi là « Contrat de mariage » (tạm dịch là hôn ước)[6]. Về bản chất, hôn ước chỉ chứa đựng những thỏa thuận của vợ chồng về các cách thức thực hiện các quan hệ tài sản tài của họ mà không đề cập đến các vấn để nhân thân của họ. Các quyền và nghĩa vụ nhân thân của vợ và chồng, vì có liên quan đến đạo đức, trật tự chung nên đã được pháp luật ấn định, vợ chồng không thể có những thỏa thuận khác. Hôn ước hợp pháp sẽ là cơ sở cho việc thực hiện, giải quyết những tranh chấp về tài sản giữa vợ chồng với nhau và giữa vợ, chồng với người thứ ba. Nói cách khác, hôn ước có hiệu lực như pháp luật.
a. Quyền tự do xác định nội dung của hôn ước
Việc thừa nhận chế độ hôn sản ước định nhằm tạo điều kiện cho những vợ chồng có thể thực hiện một chế độ hôn sản phù hợp với hoàn cảnh kinh tế của họ. Vì vậy, người kết hôn có quyền đưa vào trong hôn ước những điều khoản mà họ cho là cần thiết để điều chỉnh các quan hệ tài sản trong suốt thời kỳ hôn nhân. Hôn ước được lập thông qua sự can thiệp của công chứng viên, vì vậy, các bên sẽ nhận được những hỗ trợ pháp lý để thiết lập nên một văn bản thỏa thuận hoàn chỉnh về một chế độ tài sản.
Thứ nhất, trong hôn ước, các bên kết hôn tuyên bố một chế độ hôn sản sẽ áp dụng đối với họ. Đây là mục đích cơ bản nhất của việc lập hôn ước. Thông thường, người kết hôn lựa chọn một trong những chế độ tài sản đã được đề xuất trong BLDS, điều đó sẽ dễ dàng hơn cho họ khi cần thiết kế nội dung của chế độ tài sản, bởi vì luật đã dự liệu trong đó những điều khoản cơ bản. Ngoài ra, vợ chồng cũng có quyền tuyên bố về việc áp dụng một chế độ tài sản khác, tuy nhiên điều này rất hiếm xảy ra.
Thứ hai, trong chế độ tài sản đã lựa chọn, các bên có quyền tự do đưa ra những điều khoản quy định về các vấn đề cụ thể. Nếu đó là một trong những chế độ tài sản được dự liệu trong BLDS, họ có quyền thiết lập những điều khoản bổ sung cho những quy định của luật hoặc sửa đổi những quy định đó. Chẳng hạn, vợ chồng tương lai có thể liệt kê những tài sản mà mỗi bên có trước khi kết hôn ; tặng cho nhau tài sản ; thỏa thuận về việc quản lý tài sản chung, riêng ; về việc đóng góp tài sản vì nhu cầu chung của gia đình ; thỏa thuận về việc phân chia tài sản khi chấm dứt chế độ tài sản…
b. Những giới hạn về nội dung của hôn ước
Tuy nhiên, quyền tự do thỏa thuận trong hôn ước của vợ chồng không phải là không có giới hạn. Gia đình trong xã hội Pháp, cũng giống như ở nhiều nước khác, phản ánh tính chất cộng đồng, vì thế chế độ tài sản pháp định của vợ chồng ở Pháp, từ khi có Bộ luật Napoléon đều là các chế độ cộng đồng tài sản [7]. Luật hiện hành của Cộng hòa Pháp về các chế độ tài sản của vợ chồng không phải chỉ quan tâm đến lợi ích của các bên vợ, chồng, mà trái lại, luôn đề cao những trật tự của gia đình. Điều đó thể hiện thông qua việc nhà làm luật thiết lập hệ thống những quy định, theo đó, tất cả những thỏa thuận của vợ chồng về tài sản phải tuân theo. Trong các điều 1388 và 1389 của BLDS, nhà lập pháp đã quy định rằng : vợ chồng không thể thỏa thuận phá bỏ những quy định về các nghĩa vụ và quyền của họ (phát sinh từ việc kết hôn), về nghĩa vụ và quyền của cha mẹ và con, về quản lý theo pháp luật, về giám hộ, cũng như về trật tự thừa kế. Về nguyên tắc, những điều khoản của hôn ước trái với những quy định này sẽ bị tuyên bố vô hiệu.
Những thỏa thuận của vợ chồng về chế độ tài sản chịu sự điều chỉnh trực tiếp nhất bởi các quy định về nghĩa vụ và quyền của họ. Tại các điều từ 212 đến 226, BLDS đã quy định những nghĩa vụ và quyền riêng biệt của vợ và chồng với một tinh thần chung nhất là : vợ chồng cùng nhau đảm bảo điều hành gia đình về tinh thần và vật chất, chăm lo việc dạy dỗ con cái và chuẩn bị tương lai của chúng (điều 213). Đặc biệt, các điều từ 214 đến 226 tập hợp nên một chế định pháp lý mà học thuyết của Pháp gọi là chế độ cơ sở của các chế độ tài sản của vợ chồng (Le régime primaire hoặc Le statut de base). Đây là những quy định về các quyền và nghĩa vụ về tài sản của vợ chồng nhằm đáp ứng nhu cầu của cuộc sống gia đình. Đó là những vấn đề : đóng góp vào việc chi tiêu của gia đình ; bảo vệ chỗ ở của gia đình ; quyền tự chủ của mỗi bên vợ, chồng thực hiện các giao dịch vì nhu cầu của gia đình và trách nhiệm liên đới của bên kia, quyền tự chủ về nghề nghiệp, về việc sử dụng tài khoản (ngân hàng và chứng khoán) ; quyền một mình thực hiện giao dịch thông qua cơ chế đại diện hoặc cho phép của Tòa án…Theo quy định của điều 226, các quy định trên có hiệu lực áp dụng đối với tất cả các quan hệ vợ chồng, bất kể họ lựa chọn chế độ hôn sản nào. Trong bối cảnh thừa nhận nhiều chế độ tài sản của vợ chồng, chế độ cơ sở giữ vai trò chủ đạo, nhất là đối với các chế độ hôn sản ước định, nhằm đảm bảo những điều kiện vật chất cho sự ổn định của cuộc sống gia đình. Do có tầm quan trọng như vậy, tất cả các nghiên cứu về các chế độ tài sản của vợ chồng theo luật của Pháp đều bắt đầu từ chế độ cơ sở này.
Như vậy, sự tổ chức các chế độ tài sản của vợ chồng trong luật của Cộng hòa Pháp dựa trên nguyên tắc tôn trọng quyền tự do thỏa thuận của vợ chồng nhưng không tách rời nghĩa vụ của họ đối với đời sống chung của gia đình. Điều đó tạo điều kiện cho vợ, chồng có thể thực hiện những quan hệ tài sản phù hợp với tình hình kinh tế của bản thân, mang lại lợi ích cho gia đình và cá nhân mỗi bên vợ chồng. Trong thực tế, mặc dù số lượng các cặp vợ chồng lập hôn ước chiếm tỉ lệ rất thấp (khoảng 20%), nhưng các chế độ tài sản theo thỏa thuận của vợ chồng vẫn luôn tồn tại cùng với quan niệm về quyền tự do cá nhân và vì sự cần thiết của nó trong những trường hợp nhất định.
1.2.3. Những chế độ tài sản được dự liệu và những ưu, nhược điểm của nó
a. Chế độ cộng đồng đối với động sản và những tạo sản
Chế độ tài sản này xác định cộng đồng tài sản gồm những động sản mà mỗi bên có trước khi kết hôn và những tài sản mà vợ chồng có được trong thời kỳ hôn nhân. Tuy nhiên, những động sản mà cần xác định là tài sản riêng do bản chất của nó theo quy định của điều 1404 BLDS và những tài sản mà vợ chồng được tặng cho riêng, được thừa kế riêng (do ý chí rõ ràng của người tặng cho, người để lại tài sản thừa kế) vẫn thuộc tài sản riêng của mỗi bên vợ chồng.
Phần nợ của cộng đồng tài sản gồm phần nợ của mỗi bên vợ chồng có trước khi kết hôn (theo tỉ lệ động sản đã đưa vào trong phần có của cộng đồng tài sản) và những khoản nợ phát sinh trong thời kỳ hôn nhân (gồm cả những khoản nợ liên quan đến tài sản mà cộng đồng có được do vợ chồng được tặng cho hoặc được thừa kế).
Việc thực hiện chế độ tài sản này khá phức tạp. Nếu vợ chồng không có những thỏa thuận khác, họ phải tuân theo những quy định về quản lý tài sản và thanh toán tài sản được dự liệu trong chế độ hôn sản pháp định. Vì thế, đây là một chế độ tài sản không được khuyên dùng (không phải chỉ riêng ở Pháp), bởi tính phức tạp của nó, trong khi sự thỏa thuận của vợ chồng về tài sản thường hướng tới một sự đơn giản.
b. Chế độ cộng đồng toàn sản
Chế độ cộng đồng toàn sản xác định tất cả các tài sản mà vợ chồng có trước và sau khi kết hôn đều thuộc sở hữu chung, trừ những tài sản riêng do bản chất của nó theo quy định của điều 1404 BLDS. Tuy nhiên, vợ chồng có thể thỏa thuận những tài sản này thuộc về cộng đồng tài sản. Phần nợ của cộng đồng tài sản bao gồm tất cả những khoản nợ phát sinh trước và sau khi kết hôn.
Chế độ cộng đồng toàn sản có ưu điểm là tính đơn giản trong việc xác định tính chất của tài sản cũng như những khoản nợ và mang đậm tính cộng đồng trong gia đình. Thực tiễn đã phản ánh rằng, khi thay đổi chế độ tài sản, chế độ cộng đồng toàn sản đứng ở vị trí thứ hai trong số những chế độ được lựa chọn thường xuyên (sau chế độ tách riêng tài sản)[8]. Chế độ này cũng thường được lựa chọn bởi những vợ chồng cao tuổi, không có con và được kết hợp với một điều khoản về trao toàn bộ cộng đồng tài sản cho người vợ (chồng) còn sống. Tuy nhiên, cũng giống như chế độ cộng đồng động sản, nếu vợ chồng không dự liệu những quy định riêng về quản lý tài sản và thanh toán tài sản, họ sẽ phải tuân theo những quy định của chế độ hôn sản pháp định, và trong trường hợp đó, thậm chí, vợ chồng có ít hơn những sự chủ động cần thiết về tài sản, vì hầu như họ không có tài sản riêng. Vì thế, đây không phải là sự lựa chọn hợp lý cho những vợ chồng trẻ.
c. Chế độ tài sản riêng biệt
Khác với những hình thức của chế độ cộng đồng tài sản, chế độ tài sản riêng biệt xác định vợ chồng không có tài sản chung. Chỉ có sự tồn tài của hai khối tài sản riêng của mỗi bên. Tuy nhiên, đối với phần nợ, ngoài những khoản nợ riêng của mỗi bên vợ chồng, còn có những khoản nợ chung phát sinh từ cuộc sống chung của gia đình.
Đây là chế độ tài sản mà sự vận hành của nó là đơn giản nhất. Mỗi bên vợ chồng tự do quản lý và định đoạt các tài sản, thu nhập sau khi thực hiện nghĩa vụ đóng góp đối với đời sống chung. Chế độ tài sản riêng biệt trao cho vợ, chồng khả năng tự chủ rất cao về tài sản, là một sự lựa chọn hợp lý nhất cho những cặp vợ chồng có nhiều tài sản riêng mà họ đều có khả năng quản lý hoặc những vợ chồng tiến hành các công việc sản xuất, kinh doanh mà họ cần tránh những rủi ro có thể xảy ra đối với gia đình do những thất bại của việc kinh doanh.
Tuy nhiên, chế độ tách riêng tài sản cũng bộc lộ nhiều hạn chế. Nó bị đánh giá là chế độ « ích kỷ » nhất, vì thực chất đó là cơ chế bảo toàn tài sản của cá nhân. Do vậy, chế độ này không nên được áp dụng trong những trường hợp mà chỉ có một bên vợ (chồng) tham gia vào các hoạt động kiếm lợi ích, còn bên kia chỉ làm việc ở nhà. Khi chấm dứt chế độ tài sản, người không trực tiếp tạo ra lợi tức sẽ chịu nhiều bất lợi, mặc dù đã được tính toán đền bù công sức đóng góp.
d. Chế độ đóng góp các tạo sản
Chế độ đóng góp các tạo sản còn có tên gọi là chế độ hỗn hợp. Trong thời kỳ hôn nhân, chế độ này được vận hành như chế độ tách riêng tài sản, nhưng khi giải thể chế độ tài sản, các tạo sản sẽ được giải quyết như chế độ cộng đồng, tức là mỗi bên sẽ được nhận một nửa giá trị của những tạo sản trong gia sản của người kia.
Chế độ này vừa tích lũy được những ưu điểm của chế độ tách riêng tài sản vừa phần nào khắc phục được những nhược điểm « ích kỷ » của nó. Thực tế, chế độ đóng góp các tạo sản đang được đánh giá cao ở nhiều nước, mà bằng chứng là nó đã trở thành chế độ tài sản pháp định (ở Na Uy, Thụy Điển, Đan Mạch, Phần Lan, Đức, Áo và Thụy Sĩ). Ở Pháp, chế độ tài sản này được các học thuyết ca ngợi là có nhiều ưu điểm nhưng lại ít được sử dụng trong thực tế[9].
Tóm lại, không có một chế độ tài sản nào được coi là hoàn thiện cho tất cả các quan hệ vợ chồng, mà chỉ có chế độ tài sản thích hợp với hoàn cảnh của cặp vợ chồng nào đó mà thôi. Trong những trường hợp thấy cần lập hôn ước, với sự trợ giúp của công chứng viên, các bên kết hôn sẽ phải cân nhắc để quyết định một chế độ tài sản áp dụng và đưa vào trong đó những điều khoản cần thiết để điều chỉnh các quan hệ tài sản trong thời kỳ hôn nhân.
[1] Xem: Bùi Tường Chiểu, Dân luật, Cuốn II, 1975 ;
Nguyễn Văn Cừ, Chế độ tài sản của vợ chồng theo pháp luật hôn nhân và gia đình Việt Nam, Nhà xuât bản Tư pháp, 2008 ;
Nguyễn Ngọc Điện, Bình luận khoa học Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam, tập II, Các quan hệ tài sản giữa vợ chồng, Nhà xuất bản trẻ, 2004.
[2] Jean PATARIN và Imre ZAJTAY, Chế độ tài sản của vợ chồng trong những pháp luật đương đại, 1974, page 20-21. Cuốn sách này tập hợp 40 bài viết của các tác giả đến từ 40 nước, đại diện cho các châu lục, về chế độ tài sản của vợ chồng.
[3] Anita GRANDKE và Klauspeter ORTH, Chế độ tài sản của vợ chồng trong luật của Cộng hòa dân chủ Đức – Chế độ tài sản của vợ chồng trong những luật pháp đương đại, đã dẫn, trang 99.
[4] Andrea Bonomi và Marco Steiner, Những chế độ tài sản của vợ chồng trong luật so sánh và trong luật tư pháp quốc tế, Geneve 2006. Tuy nhiên, những nghiên cứu so sánh này chỉ giới hạn trong phạm vi hẹp ở pháp luật của một vài nước Châu âu, Canada, Mỹ và một số nước hồi giáo.
[5] Theo quy định của Điều 1395 Bộ luật Napoléon, sau khi kết hôn, vợ chồng không thể thỏa thuận để thay đổi chế độ tài sản mà họ đã lựa chọn khi kết hôn. Quy định này nhằm đảm bảo tính ổn định của gia đình và đồng thời bảo vệ quyền lợi cho người thứ ba.
[6] Thực tiễn nghiên cứu về chế độ tài sản của vợ chồng đã phản ánh những cách gọi khác nhau về thuật ngữ này. Ở đây, chúng tôi chỉ muốn nêu lên bản chất của thỏa thuận về chế độ tai sản của vợ chồng mà không đề cập đến góc độ ngữ nghĩa của nó.
[7] Trước đó, các chế độ tài sản của vợ chồng được thực hiện khác nhau ở Pháp. Những vùng theo truyền thống tập quán pháp áp dụng chế độ cộng đồng về động sản và tạo sản. Những vùng theo truyền thống luật thành văn áp dụng chế độ hồi môn-gần giống với chế độ tách riêng tài sản.
[8] André Colomer, Các chế độ tài sản của vợ chồng, NXB Litec 1995, số 1094.
[9] Jean Champion, Hôn ước và các chế độ tài sản, NXB DELMAS 2007, số 126.
[10] Bùi Tường Chiểu, đã dẫn, trang 165.
[11] Nguyễn Phương Lan, Hậu quả pháp lý của việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân, Tạp chí Luật học số 6 năm 2002, trang 22 ; Bùi Thị Mừng, Chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân để một bên đầu tư kinh doanh –Trong đề tài khoa học « Tài sản của vợ chồng trong các hoạt động sản xuất kinh doanh » của tổ bộ môn Luật hôn nhân và gia đình, năm 2007.
[12] Ngô Thị Hường, Tổng thuật đề tài khoa học, đã trích dẫn, trang 36-37 ;
Nguyễn Văn Cừ, Chế độ tài sản của vợ chồng theo pháp luật hôn nhân va gia đình Việt Nam, đã dẫn, trang 253-254.
ĐẠO LUẬT THỐNG NHẤT VỀ HÔN ƯỚC CỦA HOA KỲ
Điều 1. Định nghĩa
Trong đạo luật này các từ ngữ dưới đây được hiểu như sau:
(1) “Hôn ước” là thỏa thuận giữa hai người sắp kết hôn được lập ra trong thời gian trước khi kết hôn và phát sinh hiệu lực trong thời kì hôn nhân.
(2) “Tài sản” là khoản lợi ích, ở hiện tại hay trong tương lai, hợp pháp hoặc hợp lệ, tài sản riêng hay nằm trong tài sản chung với người khác, bất động sản hay tài sản của cá nhân, bao gồm cả thu nhập do lao động và các khoản thu nhập khác.
Điều 2. Hình thức
Hôn ước phải được làm bằng văn bản và được hai bên kí vào. Hôn ước có thể có hiệu lực thi hành mà không cần có thêm bất cứ một sự xem xét nào khác.
Điều 3. Nội dung
(a) Các bên tham gia lập hôn ước có thể thỏa thuận những nội dung sau:
(1) Quyền và nghĩa vụ của mỗi bên đổi với tài sản của một bên hoặc cả hai bên ở bất kì thời điểm hay địa điểm nào do các bên sẵn có hoặc thu nhập được;
(2) Quyền mua bán, sử dụng, chuyển nhượng, trao đổi, từ bỏ, cho thuê, tiêu dùng, dùng làm tài sản bảo đảm, thế chấp, cầm cố, tự định đoạt hay các quyền quản lí, kiểm soát khác đối với tài sản;
(3) Định đoạt tài sản khi li thân, li hôn, khi qua đời, hoặc khi xảy ra bất kì sự biến nào khác ;
(4) Sự thay đổi hay chấm dứt việc cấp dưỡng giữa vợ chồng;
(5) Lập chúc thư, uỷ thác, hay các biện pháp khác để thực hiện các nội dung của hôn ước;
(6) Quyền sở hữu và tuỳ ý sử dụng tiền bảo hiểm có được từ hợp đồng bảo hiểm nhân thọ của một người;
(7) Vấn đề lựa chọn luật điều chỉnh đối với hôn ước và;
(8) Bất kì các vấn đề khác bao gồm quyền và nghĩa vụ cá nhân nhưng không được trái với chính sách công và vi phạm pháp luật;
(b) Quyền được chu cấp của con cái không thể bị ảnh hưởng theo chiều hướng bất lợi bởi những nội dung trong hôn ước.
Điều 4. Hiệu lực
Hôn ước bắt đầu có hiệu lực khi kết hôn.
Điều 5. Sửa đổi, hủy bỏ
Sau khi kết hôn, hôn ước có thể được sửa đổi hoặc hủy bỏ bởi một văn bản được kí bởi cả hai vợ chồng. Thỏa thuận sửa đổi này sẽ có hiệu lực thi hành mà không cần một sự xem xét nào thêm.
Điều 6. Thi hành
(a) Hôn ước sẽ không được thi hành nếu bên chống lại việc thi hành đã chứng minh được rằng:
(1) Một bên đã không tự nguyện thực hiện hôn ước; hoặc
(2) Hôn ước không hợp lí trước khi nó được thực hiện và trước khi thực hiện hôn ước,
một bên
(i) Đã không được cung cấp thông tin một cách công bằng và hợp lí về tài sản và các nghĩa vụ tài chính của bên kia;
(ii) Đã không tự nguyện từ bỏ một cách rõ ràng bằng văn bản bất cứ quyền được cung cấp thông tin về tài sản và các nghĩa vụ tài chính của bên kia ngoại trừ thông tin đã được cung cấp; và
(iii) Đã không biết, hoặc đã không thể biết được một cách đầy đủ về tình trạng tài sản hoặc các nghĩa vụ tài chính của bên kia.
(b) Nếu có qui định của hôn ước về thay đổi hoặc chấm dứt việc cấp dưỡng giữa vợ chồng và việc thay đổi hoặc chấm dứt đó khiến một bên trong hôn ước này có đủ điều kiện được hưởng cấp dưỡng theo một chương trình hỗ trợ công nào đó tại thời điểm li thân hoặc li hôn thì tòa án có thể yêu cầu bên kia thực hiện việc cấp dưỡng ở một mức độ cần thiết để có thể tránh được trường hợp các bên cố tình thỏa thuận về việc thay đổi hay chấm dứt điều kiện cấp dưỡng để đủ điều kiện hưởng cấp dưỡng theo chương trình hỗ trợ.
(c) Tính không hợp lí của hôn ước sẽ theo phán quyết của tòa án.
Điều 7. Thi hành khi hôn nhân vô hiệu
Nếu việc kết hôn bị tuyên vô hiệu thì hôn ước chỉ được thi hành trong một phạm vi cần thiết để đảm bảo cho một hệ quả bất công không xảy ra.
Điều 8. Giới hạn của hành vi
Bất cứ qui định hạn chế nào áp dụng đối với hành động đòi cấp dưỡng theo hôn ước của các bên đều bị ngăn cản trong thời kì hôn nhân. Tuy nhiên, các bên có thể áp dụng các biện pháp bảo vệ hợp lí nhằm hạn chế thời gian thi hành cho bên kia bao gồm trì hoãn và estoppel.
Điều 9. Áp dụng và giải thích từ ngữ
Luật này được áp dụng và giải thích để thực hiện với mục đích chung là áp dụng thống nhất giữa các tiểu bang.
Điều 10. Tên của đạo luật
Tên của đạo luật là đạo luật thống nhất về hôn ước
Điều 11. Hiệu lực từng phần
Nếu có bất cứ điều khoản nào của đạo luật này hoặc việc áp dụng đạo luật này đối với bất cứ người nào hoặc trường hợp nào bị vô hiệu thì sự vô hiệu đó sẽ không ảnh hưởng tới các điều khoản hoặc các áp dụng khác của đạo luật này.
ĐIỀU 12: THỜI ĐIỂM CÓ HIỆU LỰC
ĐIỀU 13: HỦY BỎ. Các đạo luật và các phần của đạo luật sau đây sẽ bị hủy bỏ
2.3. Các hình thức xác lập
2.3.1.Theo trình tự do pháp luật quy định
2.3.2.Theo sự tự nguyện
Tài liệu học tập:
- Tập bài giảng môn Luật hôn nhân và gia đình của trường đại học luật Tp.HCM
- Giáo trình luật Luật hôn nhân và gia đình của trường Đại học luật Hà Nội
- Thông tư số 60/ TATC ngày 22.2.1978 của Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn giải quyết các việc tranh chấp về hôn nhân và gia đình của cán bộ, bộ đội đã có vợ, có chồng trong Nam tập kết ra Bắc lấy vợ, lấy chồng khác.
- Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000.
- Nghị quyết số 35/2000/QH 10 ngày 9.6.2000 của Quốc hội khoá X kỳ họp thứ 7 "về việc thi hành Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000"
- Chỉ thị số 15/2000/CT-TTG ngày 9.8.2000 của Thủ tướng Chính phủ " Về việc tổ chức thi hành Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000"
- Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP ngày 23.12.2000 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000.
- Thông tư liên tịch số 01/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày 3.1.2001 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ tư pháp hướng dẫn thi hành Nghị quyết số 35/2000/QH 10 ngày 9.6.2000 của Quốc hội " Về việc thi hành Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000"
- Công văn số 112/2001/KHXX ngày 14.9.2001 của Toà án nhân dân Tối cao hướng dẫn việc xác định thời điểm thụ lý vụ án về hôn nhân và gia đình.
- Nghị định số 70/2001/NĐ-CP ngày 3.10.2001 của chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000.
- Thông tư Số 07/2001/TT-BTP ngày 10.12.2001 của Bộ Tư pháp hướng dẫn thi hành một số qui định của Nghị định số 77/2001/NĐ-CP ngày 22.10.2001 của Chính phủ qui định chi tiết về đăng ký kết hôn theo Nghị quyết số 35/2000/NQ-QH 10 ngày 9.6.2000 của Quốc hội.
- Nghị định số 32/2002/NĐ-CP ngày 27.3.2002 của Chính phủ quy định việc áp dụng Luật Hôn nhân và gia đình đối với các dân tộc thiểu số.
- Nghị định số 68/2002/NĐ-CP ngày 10.7.2002 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Hôn nhân và gia đình về quan hệ hôn nhân và gia đình có Yếu tố nước ngoài.
- Thông tư số 07/2002/TT-BTP ngày 16.12.2002 của Bộ tư pháp hướng dẫn thi hành một số điều của Nghị định số 68/2002/NĐ-CP ngày 10.7.2002 của Chính phủ qui định chi tiết thi hành một số điều của Luật hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài.
- Nghị định số 12/2003/NĐ-CP ngày 12.2.2003 của Chính phủ về sinh con theo phương pháp khoa học.
- Pháp lệnh dân số số 06/2003/PL-UBTVQH 11 có hiệu lực ngày 1.5.2003 và Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung.
- Chỉ thị số 3/2005/CT-TTG ngày 25.2.2005 của Thủ tướng chính phủ về tăng cường quản lý nhà nước đối với quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài.
- Nghị định 158/2005/NĐ-CP ngày 27/12/2005 của Chính phủ về đăng ký và quản lý hộ tịch.
- Nghị định 69/2006/NĐ - CP ngày 21.7.2006 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của NĐ 68/2002/NĐ - CP.
Viết chuyên đề: So sánh chế độ tài sản trong hôn nhân và gia đình với chế độ tài sản trong dân sự
3. CHƯƠNG 3: CHẾ ĐỘ PHÁP LÝ ĐỐI VỚI TÀI SẢN TRONG HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
3.1.Quyền chiếm hữu tài sản
3.1.1.Chủ thể chiếm hữu
Điều 182. Quyền chiếm hữu
Quyền chiếm hữu là quyền nắm giữ, quản lý tài sản.
Điều 183. Chiếm hữu có căn cứ pháp luật
Chiếm hữu có căn cứ pháp luật là việc chiếm hữu tài sản trong các trường hợp sau đây:
1. Chủ sở hữu chiếm hữu tài sản;
2. Người được chủ sở hữu uỷ quyền quản lý tài sản;
3. Người được chuyển giao quyền chiếm hữu thông qua giao dịch dân sự phù hợp với quy định của pháp luật;
4. Người phát hiện và giữ tài sản vô chủ, tài sản không xác định được ai là chủ sở hữu, tài sản bị đánh rơi, bị bỏ quên, bị chôn giấu, bị chìm đắm phù hợp với các điều kiện do pháp luật quy định;
5. Người phát hiện và giữ gia súc, gia cầm, vật nuôi dưới nước bị thất lạc phù hợp với các điều kiện do pháp luật quy định;
6. Các trường hợp khác do pháp luật quy định.
Điều 184. Quyền chiếm hữu của chủ sở hữu
Trong trường hợp chủ sở hữu chiếm hữu tài sản thuộc sở hữu của mình thì chủ sở hữu được thực hiện mọi hành vi theo ý chí của mình để nắm giữ, quản lý tài sản nhưng không được trái pháp luật, đạo đức xã hội.
Việc chiếm hữu của chủ sở hữu không bị hạn chế, gián đoạn về thời gian, trừ trường hợp chủ sở hữu chuyển giao việc chiếm hữu cho người khác hoặc pháp luật có quy định khác.
Điều 28. Chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung
1. Vợ, chồng có quyền và nghĩa vụ ngang nhau trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung.
2. Tài sản chung của vợ chồng được chi dùng để bảo đảm nhu cầu của gia đình, thực hiện các nghĩa vụ chung của vợ chồng.
3. Việc xác lập, thực hiện và chấm dứt giao dịch dân sự liên quan đến tài sản chung có giá trị lớn hoặc là nguồn sống duy nhất của gia đình, việc dùng tài sản chung để đầu tư kinh doanh phải được vợ chồng bàn bạc, thoả thuận, trừ tài sản chung đã được chia để đầu tư kinh doanh riêng theo quy định tại khoản 1 Điều 29 của Luật này.
3.1.2. Cách thức chiếm hữu
3.1.3. Quyền, nghĩa vụ của chủ thể chiếm hữu
3.2.Quyền sử dụng tài sản
3.2.1.Nguyên tắc thực hiện quyền sử dụng tài sản
3.2.2.Mục đích và nội dung của việc thực hiện quyền sử dụng tài sản
3.2.3.Các trường hợp hạn chế quyền quyền sử dụng tài sản
Điều 192. Quyền sử dụng
Quyền sử dụng là quyền khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản.
Điều 193. Quyền sử dụng của chủ sở hữu
Trong trường hợp chủ sở hữu thực hiện quyền sử dụng tài sản thuộc sở hữu của mình thì chủ sở hữu được khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản theo ý chí của mình nhưng không được gây thiệt hại hoặc làm ảnh hưởng đến lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền, lợi ích hợp pháp của người khác.
Điều 194. Quyền sử dụng của người không phải là chủ sở hữu
1. Quyền sử dụng tài sản có thể được chuyển giao cho người khác thông qua hợp đồng hoặc theo quy định của pháp luật.
Người không phải là chủ sở hữu có quyền sử dụng tài sản đúng tính năng, công dụng, đúng phương thức.
2. Người chiếm hữu không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình cũng có quyền khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản theo quy định của pháp luật.
3.3.Quyền định đoạt tài sản
3.3.1.Chủ thể định đoạt tài sản
3.3.2.Mục đích và nội dung của việc thực hiện quyền định đoạt tài sản
3.3.3.Các trường hợp hạn chế quyền quyền định đoạt tài sản
Điều 195. Quyền định đoạt
Quyền định đoạt là quyền chuyển giao quyền sở hữu tài sản hoặc từ bỏ quyền sở hữu đó.
Điều 196. Điều kiện định đoạt
Việc định đoạt tài sản phải do người có năng lực hành vi dân sự thực hiện theo quy định của pháp luật.
Trong trường hợp pháp luật có quy định trình tự, thủ tục định đoạt tài sản thì phải tuân theo trình tự, thủ tục đó.
Điều 197. Quyền định đoạt của chủ sở hữu
Chủ sở hữu có quyền bán, trao đổi, tặng cho, cho vay, để thừa kế, từ bỏ hoặc thực hiện các hình thức định đoạt khác phù hợp với quy định của pháp luật đối với tài sản.
Điều 198. Quyền định đoạt của người không phải là chủ sở hữu
Người không phải là chủ sở hữu tài sản chỉ có quyền định đoạt tài sản theo uỷ quyền của chủ sở hữu hoặc theo quy định của pháp luật.
Người được chủ sở hữu uỷ quyền định đoạt tài sản phải thực hiện việc định đoạt phù hợp với ý chí, lợi ích của chủ sở hữu.
Điều 199. Hạn chế quyền định đoạt
1. Quyền định đoạt chỉ bị hạn chế trong trường hợp do pháp luật quy định.
2. Khi tài sản đem bán là di tích lịch sử, văn hoá thì Nhà nước có quyền ưu tiên mua.
Trong trường hợp pháp nhân, cá nhân, chủ thể khác có quyền ưu tiên mua đối với tài sản nhất định theo quy định của pháp luật thì khi bán tài sản, chủ sở hữu phải dành quyền ưu tiên mua cho các chủ thể đó.
Điều 25. Trách nhiệm liên đới của vợ, chồng đối với giao dịch do một bên thực hiện
Vợ hoặc chồng phải chịu trách nhiệm liên đới đối với giao dịch dân sự hợp pháp do một trong hai người thực hiện nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt thiết yếu của gia đình.
Điều 28. Chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung
1. Vợ, chồng có quyền và nghĩa vụ ngang nhau trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung.
2. Tài sản chung của vợ chồng được chi dùng để bảo đảm nhu cầu của gia đình, thực hiện các nghĩa vụ chung của vợ chồng.
3. Việc xác lập, thực hiện và chấm dứt giao dịch dân sự liên quan đến tài sản chung có giá trị lớn hoặc là nguồn sống duy nhất của gia đình, việc dùng tài sản chung để đầu tư kinh doanh phải được vợ chồng bàn bạc, thoả thuận, trừ tài sản chung đã được chia để đầu tư kinh doanh riêng theo quy định tại khoản 1 Điều 29 của Luật này.
Điều 29. Chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân
1. Khi hôn nhân tồn tại, trong trường hợp vợ chồng đầu tư kinh doanh riêng, thực hiện nghĩa vụ dân sự riêng hoặc có lý do chính đáng khác thì vợ chồng có thể thoả thuận chia tài sản chung; việc chia tài sản chung phải lập thành văn bản; nếu không thoả thuận được thì có quyền yêu cầu Toà án giải quyết.
2. Việc chia tài sản chung của vợ chồng nhằm trốn tránh thực hiện nghĩa vụ về tài sản không được pháp luật công nhận.
Điều 43. Hậu quả pháp lý của việc cha, mẹ bị hạn chế quyền đối với con chưa thành niên
1. Trong trường hợp một trong hai người là cha hoặc mẹ bị Toà án hạn chế một số quyền đối với con chưa thành niên thì người kia thực hiện quyền trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con, quản lý tài sản riêng của con và đại diện theo pháp luật cho con.
2. Trong trường hợp cha mẹ đều bị Toà án hạn chế quyền đối với con chưa thành niên thì việc trông nom, chăm sóc, giáo dục con và quản lý tài sản riêng của con chưa thành niên được giao cho người giám hộ theo quy định của Bộ luật dân sự và Luật này.
3. Cha, mẹ đã bị Toà án hạn chế quyền đối với con chưa thành niên vẫn phải thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng con.
Điều 44. Quyền có tài sản riêng của con
1. Con có quyền có tài sản riêng. Tài sản riêng của con bao gồm tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng, thu nhập do lao động của con, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng của con và các thu nhập hợp pháp khác.
2. Con từ đủ mười lăm tuổi trở lên còn sống chung với cha mẹ có nghĩa vụ chăm lo đời sống chung của gia đình; nếu có thu nhập thì đóng góp vào các nhu cầu thiết yếu của gia đình.
Điều 45. Quản lý tài sản riêng của con
1. Con từ đủ mười lăm tuổi trở lên có thể tự mình quản lý tài sản riêng hoặc nhờ cha mẹ quản lý.
2. Tài sản riêng của con dưới mười lăm tuổi, con mất năng lực hành vi dân sự thì do cha mẹ quản lý. Cha mẹ có thể uỷ quyền cho người khác quản lý tài sản riêng của con.
3. Cha mẹ không quản lý tài sản riêng của con trong trường hợp người tặng cho tài sản hoặc để lại tài sản thừa kế theo di chúc cho người con đã chỉ định người khác quản lý tài sản đó hoặc những trường hợp khác theo quy định của pháp luật.
Điều 46. Định đoạt tài sản riêng của con chưa thành niên
1. Trong trường hợp cha mẹ quản lý tài sản riêng của con dưới mười lăm tuổi thì có quyền định đoạt tài sản đó vì lợi ích của con, có tính đến nguyện vọng của con, nếu con từ đủ chín tuổi trở lên.
2. Con từ đủ mười lăm tuổi đến dưới mười tám tuổi có quyền định đoạt tài sản riêng; nếu định đoạt tài sản có giá trị lớn hoặc dùng tài sản để kinh doanh thì phải có sự đồng ý của cha mẹ.
Điều 31. Quyền thừa kế tài sản giữa vợ chồng
1. Vợ, chồng có quyền thừa kế tài sản của nhau theo quy định của pháp luật về thừa kế.
2. Khi vợ hoặc chồng chết hoặc bị Toà án tuyên bố là đã chết thì bên còn sống quản lý tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp trong di chúc có chỉ định người khác quản lý di sản hoặc những người thừa kế thoả thuận cử người khác quản lý di sản.
3. Trong trường hợp yêu cầu chia di sản thừa kế mà việc chia di sản ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của bên vợ hoặc chồng còn sống và gia đình thì bên còn sống có quyền yêu cầu Toà án xác định phần di sản mà những người thừa kế được hưởng nhưng chưa cho chia di sản trong một thời hạn nhất định; nếu hết thời hạn do Toà án xác định hoặc bên còn sống đã kết hôn với người khác thì những người thừa kế khác có quyền yêu cầu Toà án cho chia di sản thừa kế.
Điều 33. Chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản riêng
1. Vợ, chồng có quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản riêng của mình, trừ trường hợp quy định tại khoản 5 Điều này.
2. Vợ, chồng tự quản lý tài sản riêng; trong trường hợp vợ hoặc chồng không thể tự mình quản lý tài sản riêng và cũng không uỷ quyền cho người khác quản lý thì bên kia có quyền quản lý tài sản đó.
3. Nghĩa vụ riêng về tài sản của mỗi người được thanh toán từ tài sản riêng của người đó.
4. Tài sản riêng của vợ, chồng cũng được sử dụng vào các nhu cầu thiết yếu của gia đình trong trường hợp tài sản chung không đủ để đáp ứng.
5. Trong trường hợp tài sản riêng của vợ hoặc chồng đã được đưa vào sử dụng chung mà hoa lợi, lợi tức từ tài sản riêng đó là nguồn sống duy nhất của gia đình thì việc định đoạt tài sản riêng đó phải được sự thoả thuận của cả vợ chồng.
Điều 90. Thuận tình ly hôn
Trong trường hợp vợ chồng cùng yêu cầu ly hôn mà hoà giải tại Toà án không thành, nếu xét thấy hai bên thật sự tự nguyện ly hôn và đã thoả thuận về việc chia tài sản, việc trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con thì Toà án công nhận thuận tình ly hôn và sự thoả thuận về tài sản và con trên cơ sở bảo đảm quyền lợi chính đáng của vợ và con; nếu không thoả thuận được hoặc tuy có thoả thuận nhưng không bảo đảm quyền lợi chính đáng của vợ và con thì Toà án quyết định.
Điều 95. Nguyên tắc chia tài sản khi ly hôn
1. Việc chia tài sản khi ly hôn do các bên thoả thuận; nếu không thoả thuận được thì yêu cầu Toà án giải quyết. Tài sản riêng của bên nào thì thuộc quyền sở hữu của bên đó.
2. Việc chia tài sản chung được giải quyết theo các nguyên tắc sau đây:
a) Tài sản chung của vợ chồng về nguyên tắc được chia đôi, nhưng có xem xét hoàn cảnh của mỗi bên, tình trạng tài sản, công sức đóng góp của mỗi bên vào việc tạo lập, duy trì, phát triển tài sản này. Lao động của vợ, chồng trong gia đình được coi như lao động có thu nhập;
b) Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của vợ, con chưa thành niên hoặc đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình;
c) Bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập;
d) Tài sản chung của vợ chồng được chia bằng hiện vật hoặc theo giá trị; bên nào nhận phần tài sản bằng hiện vật có giá trị lớn hơn phần mình được hưởng thì phải thanh toán cho bên kia phần giá trị chênh lệch.
3. Việc thanh toán nghĩa vụ chung về tài sản của vợ, chồng do vợ, chồng thoả thuận; nếu không thoả thuận được thì yêu cầu Toà án giải quyết.
LUẬT
BẢO HIỂM XÃ HỘI
CỦA QUỐC HỘI NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
SỐ 71/2006/QH11 NGÀY 29 THÁNG 6 NĂM 2006
Căn cứ vào Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 đã được sửa đổi, bổ sung theo Nghị quyết số 51/2001/QH10 ngày 25 tháng 12 năm 2001 của Quốc hội khoá X, kỳ họp thứ 10;
Luật này quy định về bảo hiểm xã hội.
CHƯƠNG I
NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG
Điều 1. Phạm vi điều chỉnh
1. Luật này quy định về chế độ, chính sách bảo hiểm xã hội; quyền và trách nhiệm của người lao động, của cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia bảo hiểm xã hội; tổ chức bảo hiểm xã hội; quỹ bảo hiểm xã hội; thủ tục thực hiện bảo hiểm xã hội và quản lý nhà nước về bảo hiểm xã hội.
2. Luật này không áp dụng đối với bảo hiểm y tế, bảo hiểm tiền gửi và các loại bảo hiểm mang tính kinh doanh.
Điều 2. Đối tượng áp dụng
1. Người lao động tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc là công dân Việt Nam, bao gồm:
a) Người làm việc theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn, hợp đồng lao động có thời hạn từ đủ ba tháng trở lên;
b) Cán bộ, công chức, viên chức;
c) Công nhân quốc phòng, công nhân công an;
d) Sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp quân đội nhân dân; sĩ quan, hạ sĩ quan nghiệp vụ, sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên môn kỹ thuật công an nhân dân; người làm công tác cơ yếu hưởng lương như đối với quân đội nhân dân, công an nhân dân;
đ) Hạ sĩ quan, binh sĩ quân đội nhân dân và hạ sĩ quan, chiến sĩ công an nhân dân phục vụ có thời hạn;
e) Người làm việc có thời hạn ở nước ngoài mà trước đó đã đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc.
2. Người sử dụng lao động tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc bao gồm cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp, đơn vị vũ trang nhân dân; tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội khác; cơ quan, tổ chức nước ngoài, tổ chức quốc tế hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam; doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh cá thể, tổ hợp tác, tổ chức khác và cá nhân có thuê mướn, sử dụng và trả công cho người lao động.
3. Người lao động tham gia bảo hiểm thất nghiệp là công dân Việt Nam làm việc theo hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc mà các hợp đồng này không xác định thời hạn hoặc xác định thời hạn từ đủ mười hai tháng đến ba mươi sáu tháng với người sử dụng lao động quy định tại khoản 4 Điều này.
4. Người sử dụng lao động tham gia bảo hiểm thất nghiệp là người sử dụng lao động quy định tại khoản 2 Điều này có sử dụng từ mười lao động trở lên.
5. Người tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện là công dân Việt Nam trong độ tuổi lao động, không thuộc quy định tại khoản 1 Điều này.
6. Cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến bảo hiểm xã hội.
Người lao động tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc, người lao động tham gia bảo hiểm thất nghiệp, người tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện sau đây gọi chung là người lao động.
Điều 3. Giải thích từ ngữ
Trong Luật này, các từ ngữ dưới đây được hiểu như sau:
1. Bảo hiểm xã hội là sự bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập của người lao động khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thất nghiệp, hết tuổi lao động hoặc chết, trên cơ sở đóng vào quỹ bảo hiểm xã hội.
2. Bảo hiểm xã hội bắt buộc là loại hình bảo hiểm xã hội mà người lao động và người sử dụng lao động phải tham gia.
3. Bảo hiểm xã hội tự nguyện là loại hình bảo hiểm xã hội mà người lao động tự nguyện tham gia, được lựa chọn mức đóng và phương thức đóng phù hợp với thu nhập của mình để hưởng bảo hiểm xã hội.
4. Người thất nghiệp là người đang đóng bảo hiểm thất nghiệp mà bị mất việc làm hoặc chấm dứt hợp đồng lao động, hợp đồng làm việc nhưng chưa tìm được việc làm.
5. Thời gian đóng bảo hiểm xã hội là thời gian được tính từ khi người lao động bắt đầu đóng bảo hiểm xã hội cho đến khi dừng đóng. Trường hợp người lao động đóng bảo hiểm xã hội không liên tục thì thời gian đóng bảo hiểm xã hội là tổng thời gian đã đóng bảo hiểm xã hội.
6. Mức lương tối thiểu chung là mức lương thấp nhất do Chính phủ công bố ở từng thời kỳ.
7. Thân nhân là con, vợ hoặc chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha vợ hoặc cha chồng, mẹ vợ hoặc mẹ chồng của người tham gia bảo hiểm xã hội; người khác mà người tham gia bảo hiểm xã hội phải chịu trách nhiệm nuôi dưỡng.
Điều 4. Các chế độ bảo hiểm xã hội
1. Bảo hiểm xã hội bắt buộc bao gồm các chế độ sau đây:
a) ốm đau;
b) Thai sản;
c) Tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp;
d) Hưu trí;
đ) Tử tuất.
2. Bảo hiểm xã hội tự nguyện bao gồm các chế độ sau đây:
a) Hưu trí;
b) Tử tuất.
3. Bảo hiểm thất nghiệp bao gồm các chế độ sau đây:
a) Trợ cấp thất nghiệp;
b) Hỗ trợ học nghề;
c) Hỗ trợ tìm việc làm.
Điều 5. Nguyên tắc bảo hiểm xã hội
1. Mức hưởng bảo hiểm xã hội được tính trên cơ sở mức đóng, thời gian đóng bảo hiểm xã hội và có chia sẻ giữa những người tham gia bảo hiểm xã hội.
2. Mức đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc, bảo hiểm thất nghiệp được tính trên cơ sở tiền lương, tiền công của người lao động. Mức đóng bảo hiểm xã hội tự nguyện được tính trên cơ sở mức thu nhập do người lao động lựa chọn nhưng mức thu nhập này không thấp hơn mức lương tối thiểu chung.
3. Người lao động vừa có thời gian đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc vừa có thời gian đóng bảo hiểm xã hội tự nguyện được hưởng chế độ hưu trí và chế độ tử tuất trên cơ sở thời gian đã đóng bảo hiểm xã hội.
4. Quỹ bảo hiểm xã hội được quản lý thống nhất, dân chủ, công khai, minh bạch, được sử dụng đúng mục đích, được hạch toán độc lập theo các quỹ thành phần của bảo hiểm xã hội bắt buộc, bảo hiểm xã hội tự nguyện và bảo hiểm thất nghiệp.
5. Việc thực hiện bảo hiểm xã hội phải đơn giản, dễ dàng, thuận tiện, bảo đảm kịp thời và đầy đủ quyền lợi của người tham gia bảo hiểm xã hội.
Điều 6. Chính sách của Nhà nước đối với bảo hiểm xã hội
1. Nhà nước khuyến khích và tạo điều kiện để cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia bảo hiểm xã hội.
2. Nhà nước có chính sách ưu tiên đầu tư quỹ bảo hiểm xã hội và các biện pháp cần thiết khác để bảo toàn, tăng trưởng quỹ. Quỹ bảo hiểm xã hội được Nhà nước bảo hộ, không bị phá sản.
Lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội, tiền sinh lời của hoạt động đầu tư từ quỹ bảo hiểm xã hội được miễn thuế.
Chương V - Bảo hiểm thất nghiệp
Điều 80. Đối tượng áp dụng bảo hiểm thất nghiệp
Bảo hiểm thất nghiệp áp dụng bắt buộc đối người lao động quy định tại khoản 3 và người sử dụng lao động quy định tại khoản 4 Điều 2 của Luật này.
Điều 81. Điều kiện hưởng bảo hiểm thất nghiệp
Người thất nghiệp được hưởng bảo hiểm thất nghiệp khi có đủ các điều kiện sau đây:
1. Đã đóng bảo hiểm thất nghiệp đủ mười hai tháng trở lên trong thời gian hai mươi bốn tháng trước khi thất nghiệp;
2. Đã đăng ký thất nghiệp với tổ chức bảo hiểm xã hội;
3. Chưa tìm được việc làm sau mười lăm ngày kể từ ngày đăng ký thất nghiệp theo quy định tại khoản 2 Điều này.
Điều 82. Trợ cấp thất nghiệp
1. Mức trợ cấp thất nghiệp hằng tháng bằng 60% mức bình quân tiền lương, tiền công tháng đóng bảo hiểm thất nghiệp của sáu tháng liền kề trước khi thất nghiệp.
2. Thời gian hưởng trợ cấp thất nghiệp được quy định như sau:
a) Ba tháng, nếu có từ đủ mười hai tháng đến dưới ba mươi sáu tháng đóng bảo hiểm thất nghiệp;
b) Sáu tháng, nếu có từ đủ ba mươi sáu tháng đến dưới bảy mươi hai tháng đóng bảo hiểm thất nghiệp;
c) Chín tháng, nếu có từ đủ bảy mươi hai tháng đến dưới một trăm bốn mươi bốn tháng đóng bảo hiểm thất nghiệp;
d) Mười hai tháng, nếu có từ đủ một trăm bốn mươi bốn tháng đóng bảo hiểm thất nghiệp trở lên.
Tài liệu học tập:
- Tập bài giảng môn Luật Hôn nhân và gia đình của trường đại học luật Tp.HCM
- Giáo trình luật Hôn nhân và gia đình trường Đại học luật Hà Nội
- Bộ dân luật 1972
- Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000.
- Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP ngày 23.12.2000 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000.
- Nghị định số 70/2001/NĐ-CP ngày 3.10.2001 của chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000.
- Nghị định số 68/2002/NĐ-CP ngày 10.7.2002 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Hôn nhân và gia đình về quan hệ hôn nhân và gia đình có Yếu tố nước ngoài.
- Thông tư số 07/2002/TT-BTP ngày 16.12.2002 của Bộ tư pháp hướng dẫn thi hành một số điều của Nghị định số 68/2002/NĐ-CP ngày 10.7.2002 của Chính phủ qui định chi tiết thi hành một số điều của Luật hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài.
- Hiến pháp năm 1992
- Bộ luật Dân sự 2005
- Bộ luật Tố tụng dân sự.
- Westlaw.com
- Toaan.gov.vn
- Moj.gov.vn
- Nclp.org.vn
- na.gov.vn
- tand.hochiminhcity.gov.vn
- Luatvietnam.com.vn
-vietlaw.gov.vn
Viết chuyên đề: So sánh chế độ pháp lý đối với tài sản trong hôn nhân và gia đình với chế độ pháp lý đối với tài sản do các ngành luật khác điều chỉnh
YÊU CẦU VÀ ĐÒI HỎI CỦA MÔN HỌC
Để kiểm tra và đánh giá quá trình học tập của học viên, quá trình học học viên phải làm một chuyên đề sau mỗi chương. Các chuyên đề này thực hiện theo đề tài do giảng viên đưa ra hoặc học viên chọn nhưng phải được giảng viên đồng ý. Kiểm tra hết môn là thi.
PHƯƠNG PHÁP ĐÁNH GIÁ MÔN HỌC
Kết quả học tập sẽ dựa vào kết quả viết chuyên đề và thi hết môn với cơ cấu:
Chuyên đề 20%
Bài thi cuối kỳ 80%
KẾ HOẠCH TƯ VẤN MÔN HỌC
Để học tốt môn học này các học viên thực hiện các cách sau: Đến thư viện Trường Đại học Luật TPHCM nghiên cứu các chủ đề, tài liệu liên quan đến môn học; trực tiếp trao đổi với các giảng viên giảng dạy hoặc các giảng viên trong trường; đặt câu hỏi, vấn đề qua email; liên hệ trực tiếp với Khoa Luật Dân sự.
TRANG THIẾT BỊ CẦN CHO VIỆC DẠY VÀ HỌC MÔN HỌC
Yêu cầu phòng học có máy chiếu, có bảng mica và kết nối internet