DANH MỤC CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO Giáo trình, tập bài giảng - Giáo trình Luật tố tụng dân sự, Trường Đại học Luật TPHCM, NXB Hồng Đức 2012 - Tập Bài giảng Luật Tố tụng dân sự, Trường Đại học Luật TPHCM. - Giáo trình Luật Tố tụng dân sự, Học viện tư pháp, Nxb CAND, Hà Nội năm 2007. - Giáo trình kỹ năng giải quyết các vụ án dân sự, Trường đào tạo các chức danh tư pháp, Nxb CAND, Hà Nội năm 2004. Sách - Bộ Luật Tố tụng dân sự của nước Cộng hoà Pháp, Nxb CTQG, Hà Nội năm 1998. - Bộ Luật Tố tụng dân sự của Cộng hoà liên bang Nga, Nxb Tư pháp, Hà Nội năm 2005. - Bộ Luật Tố tụng dân sự của nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa, bản dịch tiếng Việt, Hà Nội năm 2002. - Nguyễn Minh Hằng, Hoạt động chứng minh trong pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam, NXB Chính trị- Hành chính, 2009. - Đào Văn Hội, Hoàn thiện pháp luật giải quyết tranh chấp kinh tế ở nước ta hiện nay, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà nội, 2004. - Kỹ năng hành nghề luật sư, Trường đào tạo các chức danh tư pháp, Nxb CAND, Hà Nội năm 2001. - Sổ tay thẩm phán, Trường đào tạo các chức danh tư pháp, Nxb CAND, Hà nội năm 2001. - Nguyễn Văn Tiến, Thẩm quyền xét xử của tòa án nhân dân đối với các vụ việc kinh doanh, thương mại theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam, NXB Đại học quốc gia TPHCM năm 2010. -Nguyễn Thị Hoài Phương, Tìm hiểu Luật Tố tụng dân sự, NXB Công an nhân dân, 1996 - Nguyễn Thị Hoài Phương, Hướng dẫn soạn thảo Hợp đồng dân sự và Hợp đồng kinh tế, NXB Chính trị quốc gia năm 1994. - Nguyễn Thị Hoài Phương, Pháp luật giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại bằng tài phán ở Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia năm 1994, 2010 Văn bản pháp luật - Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992. - Bộ Luật Tố tụng dân sự nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2004. - Bộ luật Dân sự nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2005. - Bộ luật Lao động nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2005. - Bộ luật Tố tụng hình sự nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2003. - Luật Hôn nhân và gia đình của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, năm 2000. - Luật Thương mại của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2004. - Luật Tổ chức Toà án nhân dân năm 2002. - Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002. - Luật Trọng tài thương mại năm 2010. - Luật trách nhiệm bồi thường của nhà nước. - Pháp lệnh án phí, lê phí. - Nghị quyết số 02/2012/NQ-HĐTP ngày 3/12/2012 của Hội đồng TPTATC hướng dẫn thi hành Nghị quyết 60 ngày 29/3/2011 về luật TTDS bổ sung sửa đổi - Nghị quyết 03/2012/NQ-HĐTP ngày 3/12/2012 của HĐTPTANDTC hướng dẫn thi hành một số quy định của BLTTDS về “Những quy định chung” - Nghị quyết 04/2012/NQ-HĐTP ngày 3/12/2012 của HĐTPTANDTC hướng dẫn thi hành một số quy định của BLTTDS về “Chứng minh và chứng cứ”. - Nghị quyết 05/2012/NQ-HĐTP ngày 3/12/2012 của HĐTPTANDTC hướng dẫn thi hành một số quy định của BLTTDS về “Thủ tục giải quyết vụ án tại Tòa án cấp sơ thẩm”. - Nghị quyết 06/2012/NQ-HĐTP ngày 3/12/2012 của HĐTPTANDTC hướng dẫn thi hành một số quy định của BLTTDS về “Thủ tục giải quyết vụ án tại Tòa án cấp phúc thẩm”. Bài viết - Nguyễn Thị Hoài Phương, Về các giải pháp hoàn thiện pháp luật điều chỉnh quan hệ tố tụng Trọng tài thương mại, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 3, 2006. - Nguyễn Thị Hoài Phương, Thủ tục bán đấu giá tài sản kê biên trong giai đoạn thi hành án dân sự, Tạp chí Khoa học pháp lý, số 1, 1999 - Nguyễn Thị Hoài Phương, Một số điểm mới trong dự thảo Bộ luật tố tụng dân sự, Tạp chí Khoa học pháp lý, số 1, 2003 - Nguyễn Thị Hoài Phương, Một số điểm mới về thẩm quyền, thủ tục tố tụng giải quyết các tranh chấp của Tòa án nhân dân cấp quận, huyện trong Bộ luật tố tụng dân sự, Tạp chí Khoa học pháp lý, số 4, 2004 - Nguyễn Thị Hoài Phương, Trao đổi về bài viết : « Hòa giải trong tố tụng dân sự - nhìn từ góc độ kinh tế », Tạp chí Khoa học pháp lý, số 3, 2006 - Nguyễn Thị Hoài Phương, Lưu Tuyết Vân – người có quyền lợi liên quan trong vụ án, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 6, 1994 - Nguyễn Thị Hoài Phương, Sự tham gia của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự và những vấn đề đặt ra cho việc sửa đổi Bộ luật Tố tụng dân sự, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 24, 2009 - Nguyễn Thị Hoài Phương, Áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong giải quyết tranh chấp về kinh doanh thương mại tại tòa án – những vấn đề đặt ra cho việc hoàn thiện Bộ luật Tố tụng dân sự, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 3, 2010 - Nguyễn Thị Hoài Phương, Bàn về phương thức giải quyết tranh chấp giữa người tiêu dùng và thương nhân trong Dự thảo Luật bảo vệ người tiêu dung, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 10, 2010 - Nguyễn Thị Hoài Phương, Trách nhiệm bồi thường thiệt hại dân sự của nhà nước ở Việt Nam – nhìn từ góc độ bảo đảm quyền con người, Tạp chí Khoa học pháp lý, số 2, 2010 - Nguyễn Thị Vân Anh, “Thẩm quyền giải quyết tranh chấp công ty của Tòa án”, Tạp chí Tòa án số 4/2007. - Ban biên tập, “Áp dụng khoản 2 Điều 92 BLTTDS”, Tạp chí Tòa án số 13/2006. - Phạm Công Bảy, “Áp dụng một số quy định của BLTTDS trong giải quyết các vụ án lao động”, Tạp chí Tòa án số 14/2005. - Nguyễn Công Bình, “Các quy định về chứng minh trong TTDS”, Tạp chí luật học năm 2005. Đặc san về BLTTDS. - Nguyễn Việt Cường, “Người tham gia tố tụng”, Tạp chí Tòa án, số 8/2005. - Mai Ngọc Dương, “Vai trò của chế định Giám dốc thẩm trong Tố tụng Dân sự”, Tạp chí tòa án số 07 /2009. - Viên Thế Giang, “Giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại theo quy định BLTTDS”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 12/2005. - Bùi Thị Huyền, “Thời hạn cung cấp chứng cứ của đương sự”, Tạp chí luật học số 1/2002. - Trần Đình Khánh, “Thẩm quyền giải quyết các tranh chấp về kinh doanh, thương mại và lao động theo BLTTDS năm 2004”, Tạp chí Kiểm sát, số 1/2005. - Nguyễn Ngọc Kiện, “Cần có văn bản hướng dẫn rõ quyền, nghĩa vụ của người tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền, nghĩa vụ liên quan trong vụ án dân sự”, Tạp chí Kiểm sát, Số 21 tháng 11/2009. - Nguyễn Văn Khuê, “Một số ý kiến xung quanh vấn đề chứng cứ”, Tạp chí Kiểm sát số 10/2004. - Nguyễn Thị Thu Hà, “Về quyền kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm dân sự của Viện kiểm sát”, Tạp chí luật học số 11/2009. - Nguyễn Minh Hằng, “Đại diện theo ủy quyền – từ pháp luật nội dung đến TTDS”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 5/2005 - Nguyễn Minh Hằng, “Tập quán – Nguồn luật hay nguồn chứng cứ”, Tạp chí Tòa án, số 5/2004. - Phan Chí Hiếu, “Thẩm quyền giải quyết các tranh chấp kinh doanh theo BLTTDS và các ván đề đặt ra trong thực tiễn thi hành”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 6/2005 - Trương Thị Hoa, “Cần sửa đổi quy định về thay đổi người trực tiếp nuôi con », Tạp chí Tòa án nhân dân, số 06 năm 2004. - Tào Thị Huệ, “Bàn về quyền khởi kiện của người đại diện hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức theo Điều 161 Bộ luật tố tụng dân sự”, Tạp chí Toà án nhân dân số 5/2010. - Trần Quang Huy, “Về thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai của Tòa án”, Tạp chí Tòa án số 17/2004. - Nguyến Quang Lộc, “Thẩm quyền của hội đồng xét xử giám đốc thẩm khi hủy bản án, quyết định đã có hiệu lực theo pháp luật tố tụng- Những vấn đề cần tháo gỡ”, Tạp chí tòa án nhân dân số 21 năm 2006. - Lê Văn Luận, “Về người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập và nghĩa vụ nộp tiền tạm ứng án phí của họ trong vụ án ly hôn”, Tạp chí Tòa án số 13/2006. - Lê Văn Luật, “Vấn đề người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập và nghĩa vụ nộp tiền tạm ứng án phí của họ trong vụ án ly hôn”, Tạp chí Tòa án số 13/2006 - Tưởng Duy Luợng, “Một số quy định chung về giải quyết việc dân sự », Tạp chí Tòa án nhân dân Số 6 tháng 3 năm 2005. - Tưởng Duy Luợng, “Một số quy định chung về giải quyết việc dân sự », Tạp chí Tòa án nhân dân, số 11/2005. - Tưởng Bằng Lương, “Một số vấn đề trong giải quyết các tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất », Tạp chí Tòa án số 4/2004. - Tưởng Duy Lượng, “Một vài suy nghĩ về vấn đề chứng cứ và chứng minh được quy định trong Bộ luật TTDS”, Tạp chí Toà án nhân dân, số 10/2004 và số tháng 11/2004. - Đoàn Đức Lương, “Một số ý kiến về thẩm quyền xét xử sơ thẩm các vụ án dân sự, kinh tế”, Tạp chí Kiểm sát, số 3/2006. - Tưởng Duy Lượng, “Chứng cứ và chứng minh-sự thay đổi nhận thức trong pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam”, Đặc san Nghề luật số 10-2005. - Nguyễn Hồng Nam, “Vài ý kiến về thẩm quyền giải quyết của Tòa án Việt Nam đối với các vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài”, tạp chí Kiểm sát số 7/2009. - Phạm Hữu Nghị, “Về quyền định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 12/2000. - Mai Dương Ngọc, “Tính công khai của phiên tòa Giám đốc thẩm dân sự”, Tạp chí tòa án nhân dân số 11-06/2009. - Nguyễn Thái Phúc, “Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong BLTTDS”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 10/2005. - Nguyễn Thái Phúc, “Những chức năng cơ bản trong tố tụng dân sự”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 12/2005. - Nguyễn Thị Hoài Phương, “Áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong giải quyết tranh chấp về Kinh doanh thương mại tại Tòa án những vấn đề đặt ra cho việc hoàn thiện BLTTDS, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 03(263)/2010. - Nguyễn Thị Phượng, Giám đốc thẩm - "Xét" chứ không "xử", Tạp chí Nhà nước và pháp luật, ngày 21/07/2009 (điện tử). - Phan Vũ Ngọc Quang, “Vai trò của VKSND trong TTDS”, Tạp chí Kiểm sát, số tháng 4/2005. - Vương Hồng Quảng, “Từ thực tiễn giải quyết việc yêu cầu chấm dứt việc nuôi con nuôi, xét thấy cần phải quy định bổ xung căn cứ chấm dứt việc nuôi con nuôi », Tạp chí Tòa án, số 12 năm 2006. - Đinh Văn Quế, “Vấn đề giám đốc thẩm về dân sự trong vụ án hình sự”, Tạp chí tòa án số 9 tháng 5 năm 2005. - Lê Kim Quế, “Một số vấn đề giám đốc thẩm hình sự”, Tạp chí Tòa án nhân dân số 14 năm 2006. - Phạm Thái Quý, “Bàn về chế định chứng minh và chứng cứ trong tố tụng dân sự, Tạp chí Dân chủ và pháp luật của Bộ Tư pháp, số 12/2008. - Nguyễn Văn Tiến, “Đường lối xử lý và hậu quả những trường hợp không thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 7/2008. - Nguyễn Văn Tiến, “Thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân đối với vụ việc hôn nhân và gia đình”, Tạp chí Khoa học pháp lý, 2008. - Đào Xuân Tiến, “Về thời hạn kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm trong bộ luật tố tụng dân sự”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 2/2009. - Đào Xuân Tiến, “Đảm bảo sự vô tư, khách quan của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao trong xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm về dân sự”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 8/ 2008. - Quách Hữu Thái, “Thực tiễn TTDS rối trong xác định tranh chấp kinh doanh”, Báo pháp luật TPHCM, ngày 2.4.2010. - Đinh Văn Thanh, “Vai trò của Luật sư trong điều kiện mở rộng tranh tụng, Thông tin khoa học pháp lý số 2/2004. - Dương Quốc Thành, “Chứng cứ và chứng minh trong TTDS”, Tạp chí tạp chí Tòa án số 1/2004. - Phương Thảo, “Về án phí trong trường hợp người khởi kiện rút đơn khởi kiện tại cấp phúc thẩm theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 269 BLTTDS”, Tạp chí Tòa án số 3/2006. - Trần Phương Thảo, “Bảo vệ quyền và lợi ích của người bị áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời theo pháp luật TTDSVN”, Tạp chí Toà án nhân dân số 01/2009. - Hoàng Ngọc Thỉnh, “Chứng cứ và chứng minh trong TTDS”, Tạp chí luật học năm 2004. Đặc san góp ý Dự thảo BLTTDS. - Đồng Thị Kim Thoa, “Một số vấn đề về xác định thẩm quyền của Tòa án trong tư pháp quốc tế”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 6/2006. - Kiều Trang, “Những khó khăn, vướng mắc, bất cập khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trong tố tụng dân sự”, Tạp chí Kiểm sát, số 22 tháng 11/2009. - Võ Huy Triết, “Nhận thức đầy đủ và thực hiện đúng quyền và trách nhiệm của Viện kiểm sát trong công tác kháng nghị phúc thẩm dân sự”, Tạp chí Kiểm sát số 5, tháng 3/2009. - Hoàng Tuấn Trọng, “Bàn về vượt quá phạm vi khởi kiện”, Tạp chí Toà án nhân dân tháng 12/2008. - Trần Văn Tuân, “Phân biệt thẩm quyền của TAND và UBND trong việc giải quyết việc xin xác nhận cha mẹ”, Tạp chí Tòa án số 2/2004. - Điêu Ngọc Tuấn, “Giải quyết tranh chấp về quyền tác giả tại TAND theo thủ tục TTDS”, Tạp chí Tòa án số 14/2005. - Trần Anh Tuấn, “Nhập, tách vụ án dân sự – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn”, Tạp chí Tòa án số 3/2005. - Trần Anh Tuấn, “Vấn đề nhập, tách các yêu cầu trong vụ việc dân sự và cơ chế chuyển hóa giữa các việc dân sự, vụ án dân sự”, Tạp chí Tòa án số 18/2006. - Trần Anh Tuấn, “Quyền khởi kiện và xác định tư cách tham gia tố tụng”, Tạp chí Toà án nhân dân tháng 12/2008. - Phạm Minh Tuyên, “Một số khó khăn, vướng mắc qua thực tiễn áp dụng các quy định của BLTTDS về giám định, chi phí giám định, định giá, án phí cùng một số kiến nghị”, Tạp chí Tòa án số 8/2008. - Nguyễn Quang Tuyến, “Về thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai của Tòa án”, Tạp chí Tòa án số 14/2004. - Trần Văn Trung, “Một số vấn đề đặt ra khi thực hiện thẩm quyền mới của Tòa án cấp huyện theo quy định của BLTTDS”, Tạp chí Kiểm sát, số 14/2006. - Trần Văn Trung, “Vấn đề chứng cứ và chứng minh trong BLTTDS”, Tạp chí Kiểm sát số 12/2004, tr.16. - Vũ Thị Hồng Vân, “Về mở rộng thẩm quyền của Tòa án cấp huyện trong việc giải quyết các tranh chấp kinh doanh, thương mại theo BLTTDS”, Tạp chí Kiểm sát, số 1/2006. - Hồng Việt, “Thẩm quyền của tòa án theo sự lựa chọn của nguyên đơn” Website Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh, ngày 14.3.2008. - Hoàng Thu Yến, “Người đại diện và người bảo vệ quyền lợi của đương sự trong TTDS”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 5/2006. Tài liệu khác -Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện chế định giám đốc thẩm và nâng cao hiệu quả hoạt động xét xử giám đốc thẩm dân sự, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường, 2000 -Thời hiệu khởi vụ việc dân sự - những vấn đề lý luận và thực tiễn, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ, 2007 -Bảo đảm quyền con người trong pháp luật dân sự, lao động và hôn nhân gia đình ở Việt Nam hiện nay, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường, 2009 - Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Nhà nước “Những luận cứ khoa học của việc đổi mới tổ chức và hoạt động thi hành án ở Việt Nam”, Bộ tư pháp, Hà Nội năm 2002. - Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Nhà nước “Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng Bộ luật tố tụng dân sự”, Toà án nhân dân tối cao, Hà Nội năm 1996. - Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ “Những quan điểm cơ bản của việc xây dựng Bộ luật tố tụng dân sự”, Viện nhà nước và pháp luật, Hà Nội năm 2002. - Những vấn đề cơ bản của Bộ Luật Tố tụng dân sự năm 2004, Nxb Tư pháp, năm 2004. - Từ điển giải thích thuật ngữ luật học, Trường Đại học Luật Hà nội, Nxb CAND, năm 1999. - Kỷ yếu hội thảo pháp luật tố tụng dân sự Việt - Nhật, năm 1999. - Kỷ yếu hội thảo pháp luật tố tụng dân sự, Nhà pháp luật Việt- Pháp, Hà Nội năm 1999, 2000 và 2001. - Kỷ yếu dự án VIE/95/ 017 về Luật Tố tụng dân sự, Toà án nhân dân tối cao, Hà nội năm 2001. - Đặc san chuyên đề về Bộ luật Tố tụng dân sự, Tạp chí Toà án nhân dân tối cao, Hà Nội tháng 8/2004. - Đặc san chuyên đề về Bộ luật Tố tụng dân sự, Tạp chí Luật học, Hà Nội tháng 6/2004. - Dự án VIE/95/017, Tăng cường năng lực xét xử tại Việt Nam, Về pháp luật tố tụng dân sự, NXB Văn hóa dân tộc-Tòa án nhân dân tối cao, 2000 - Đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường “Cơ sở khoa học của việc hoàn thiện một số chế định cơ bản của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam”, Trường Đại học Luật Hà Nội năm 2001 Các website: - Http://www.Luatvietnam.com.vn - Http://www.Vietlaw.gov.vn - http://www.vietnamlawjournal.com.vn - http://www.nclp.gov.vn - http://westlaw.com - http://chinhphu.vn - http://toaan.gov.vn - http://tand.hochiminhcity.gov.vn PHẦN 3: CÂU HỎI LÝ THUYẾT VÀ BÀI TẬP MÔN LTTDS Chương 1: Phần 1: Nhận định sau đây đúng hay sai? Tại sao? Nêu căn cứ pháp lý? 1. Trong một Hội đồng xét xử, nếu Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân là người thân thích với nhau thì Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân đều phải từ chối tiến hành tố tụng 2. Toà án nhân dân chỉ tiến hành thu thập chứng cứ khi có đơn yêu cầu của đương sự 3. Lời khai của đương sự là chứng cứ 4. Chế độ đại diện theo uỷ quyền được áp dụng trong tất cả các vụ án dân sự 5. Khi đương sự không nói được tiếng Việt thì Tòa án phải cử người phiên dịch 6. Các đương sự phải chịu án phí sơ thẩm nếu yêu cầu của họ không được Toà án chấp nhận 7. Người chưa thành niên thì không được làm người làm chứng 8. Các tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ giữa cá nhân, cơ quan, tổ chức với nhau là tranh chấp dân sự 9. Thẩm phán chỉ được tham gia xét xử một lần đối với một vụ án 10. Đương sự nào có yêu cầu trưng cầu giám định thì đương sự đó phải chịu chi phí giám định. Phần 2: Bài tập Bài 1: Nhận xét của anh, chị về: - Quan hệ pháp luật về nội dung trong vụ án - Thành phần, tư cách đương sự trong vụ án - Chứng cứ và sử dụng chứng cứ trong vụ án QUYẾT ĐỊNH GIÁM ĐỐC THẨM SỐ 06/2009/KDTM-GĐT NGÀY 15-7-2009 VỀ VỤ ÁN TRANH CHẤP GIỮA CÁC THÀNH VIÊN CÔNG TY HỘI ĐỒNG THẨM PHÁN TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO Ngày 15 Tháng 7 năm 2009, tại trụ sở Toà án nhân dân tối cao đã mở phiên toà giám đốc thẩm xét xử vụ án kinh doanh, thương mại tranh chấp giữa các thành viên của Công ty với nhau, có các đương sự: 1.Nguyên đơn: Chị Hoàng Thị Hương; trú tại tổ 1, khu 9, phường Hà Trung, thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh; - Chị Bùi Thị Thanh Hương; trú tại tổ 8, khu 3, phường Hồng Hải, thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh; - Chị Nguyễn Thị Ngọc Lan; trú tại tổ 1, khu 1, phường Hoà Lạc, thị xã Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh; người đại diện theo uỷ quyền của chị Nguyễn Thị Ngọc Lan; Luật sư Phạm Văn Lợi, Đoàn luật sư tỉnh Quảng Ninh; 2.Bị Đơn: Chị Đặng Thị Dịu; trú tại tổ 105, khu 6, phường Bạch Đằng, thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh; 3. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Bà Lê Thị Hộ, chị Đặng Thu Hương, chị Đặng Thị Xuân, đều trú tại tổ 3 khu 10, phường Hồng Hải, thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh. NHẬN THẤY Các nguyên đơn trình bày: Chị Đặng Thị Dịu (là con gái ông Đặng Tất Lộc - nguyên giám đốc Công ty trách nhiệm hữu hạn Hoàng Long; ông Lộc đã chết tháng 11/2004) là thành viên có ghi danh, có ý định chiếm đoạt tài sản Công ty nên đã triệu tập Hội nghị thành viên Công ty, bầu cử người trong gia đình không phải là thành viên Công ty, chiếm quyền quản lý cơ sở kinh doanh của Công ty, chiếm đoạt con dấu, Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, ngăn cản không cho các thành viên khác vào Công ty đến cơ sở kinh doanh để làm việc và quản lý tài sản của Công ty. Các nguyên đơn khởi kiện với yêu cầu Toà án buộc chị Đặng Thị Dịu trả lại cho tập thể con dấu, Giấy phép kinh doanh, giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh khách sạn Hoàng Long, trả lại toàn bộ giấy tờ, sổ sách của danh nghiệp mà chị Dịu đang chiếm giữ; không chấp nhận tư các Chủ tịch Hội đồng thành viên kiêm giám đốc Công ty Hoàng Long của chị Đặng Thị Dịu; việc cấp lại Giấy đăng ký kinh doanh cho Công ty là không hợp pháp phải thu hồi, huỷ bỏ. Bị đơn - Chị Đặng Thị Dịu trình bày: Công ty Hoàng Long thành lập và hoạt động từ năm 1993; chị Dịu là thành viên chính thức của Công ty từ khi thành lập cho đến nay. Ngày 29/11/2004, ông Đặng Tất Lộc - Giám đốc Công ty ốm chết; trước khi chết ông Lộc không để lại di chúc. Ngày 16/4/2005, ông Bùi Hữu Cần nhân danh Phó Chủ tịch Hội đồng quản trị triệu tập cuộc họp Hội đồng quản trị bầu Chủ tịch Hội đồng thành viên, bổ nhệm chị Hoàng Thị Hương làm Giám đốc Công ty; số người tham gia cuộc họp chỉ chiếm 24,82% tổng số vốn góp của các thành viên Công ty. Không chấp nhận kết quả cuộc họp nói trên, ngày 24/4/2005 các thành viên Công ty Hoàng Long chiếm 75,77% vốn điều lệ đã triệu tập Đại hội thành viên Công ty; số thành viên chiếm 24,82% vốn điều lệ không tham gia Đại hội. Đại hội đã bầu chị Đặng Thị Dịu làm Chủ tịch Hội đồng thành viên kiêm giám đốc Công ty Hoàng Long; số biểu quyết chiếm 75,77% vốn đều lệ. Tại Đại hội này các thành viên đã nhất chí Điều lệ Công ty sửa đổi lần thứ nhất cho phù hợp với Luật Doanh nghiệp 1999. Ngày 24/6/2005, Sở kế hoạch đầu tư tỉnh Quảng Ninh cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh số 2202000999 thừa nhận danh sách các thành viên, chị Đặng Thị Dịu là người đại diện theo pháp luật của Công ty. Chị Dịu đề nghị bác yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đứng về phía bị đơn đều đề nghị bác đơn yêu cầu của nguyên đơn. Tại bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số 04/KDTM-ST ngày 18/10/2005, Toà án nhân dân tỉnh Quảng Ninh quyết định: áp dụng các Điều 37, 38, 39 Luật Doanh nghiệp năm 1999: không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của các nguyên đơn gồm: chị Hoàng Thị Hương, chị Bùi Thị Thanh Hương, chị Nguyễn Thị Ngọc Lan. Ngoài ra, Hội đồng xét xử còn quyết định về án phí và quyền kháng cáo của các đương sự theo quy định của pháp luật. Ngày 03/10/2005, chị Hoàng Thị Hương và chị Nguyễn Thị Ngọc Lan có đơn kháng cáo bản án sơ thẩm. Ngày 01/11/2005, chị Bùi Thi Thanh Hương có đơn kháng cáo bản án sơ thẩm. Tại bản án kinh danh, thương mại phúc thẩm số 31/2006/KDTM-PT ngày 14/02/2006, Toà Phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại Hà Nội quyết định: Không chấp nhận kháng cáo của các nguyên đơn gồm: chị Hoàng Thị Hương, chị Bùi Thị Thanh Hương, chị Nguyễn Thị Ngọc Lan; giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm. Sau khi xét xử phúc thẩm, chị Hoàng Thị Hương, chị Bùi Thị Thanh Hương, chị Nguyễn Thị Ngọc Lan có nhiều đơn đề nghị xét lại bản án phúc thẩm theo thủ tục giám đốc thẩm với nội dung: + Không chấp nhận chị Đặng Thị Dịu là thành viên Công ty Hoàng Long vì không có vốn góp vào Công ty; Biên bản họp ngày 8/3/1998 không chính xác, chị Dịu không ký xác nhận, không có chứng từ góp vốn vào Công ty Hoàng Long; + Không chấp nhận bà Lê Thị Hộ, chị Đặng Thị Xuân, chị Đặng Thị Hương là thành viên Công ty. + Hồ sơ xin cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh có sự gian lận nên đề nghị xử huỷ bỏ Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh cấp lại. Tại Quyết định số 04/2009/KN-KDTM-TKT ngày 10/02/2009, Chánh án Toà án nhân dân tối cao kháng nghị Bản án kinh doanh thương mại số 31/2006/KDTM-PT ngày 14/02/2006 của Toà Phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao và đề nghị Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm theo hướng huỷ Bản án kinh doanh thương mại phúc thẩm số 31/2006/KDTM-PT ngày 14/02/2006 của Toà Phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại Hà Nội và Bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số 04/2005/KDTM-ST ngày 18/10/2005 của Toà án nhân dân tỉnh Quảng Ninh; giao hồ sơ vụ án về Toà án nhân dân tỉnh Quảng Ninh xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật. Tại phiên toà giám đốc thẩm, đại điện Viện Kiểm sát nhân dân tối cao phát biểu ý kiến nhất trí một phần nội dung kháng nghị của Chánh án Toà án nhân dân tối cao về việc Toà án các cấp sơ thẩm và phúc thẩm xác định: “Phòng đăng ký kinh doanh… cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh số 2202000999 ngày 24/6/2005 cho Công ty Hoàng Long (sau khi các đương sự đã khởi kiện vụ án) là hợp pháp, có căn cứ pháp luật” nhưng lại kiến nghị với Công ty trách nhiệm hữu hạn Hoàng Long và Phòng đăng ký kinh doanh… “xem xét lại tư cách thành viên Công ty của chi Bùi Thị Thanh Hương, Nguyễn Thị Ngọc Lan và trả lời cho Toà án biết” là không đúng pháp luật, vượt thẩm quyền” không đồng ý với các nội dung khác có liên quan đến vấn đề về tư cách thành viên Công ty và vốn góp của chị Đặng Thị Dịu; về tư cách thành viên Công ty của bà Lê Thị Hộ, chị Đặng Thị Thu Hương, chị Đặng Thị Xuân; về yêu cầu khởi kiện của các nguyên đơn… XÉT THẤY 1. Về tư cách thành viên Công ty Hoàng Long và vốn góp của chị Đặng Thị Dịu. Căn cứ Biên bản cuộc họp ngày 06/6/1993 (bản sao không có chứng thực) và Điều lệ Công ty năm 1993 (bản sao không có chứng thực), Giấy phép thành lập Công ty trách nhiệm hữu hạn số 001113/GP/TLDN ngày 10/10/1993 của Uỷ ban nhân dân tỉnh Quảng Ninh cấp cho Công ty Hoàng Long, Giấy chuyển nhượng khoản vốn góp thành lập Công ty trách nhiệm hữu hạn Hoàng Long đề ngày 10/10/2004 giữa ông Vũ Công Hưng và chị Đặng Thị Dịu thì chị Đặng Thị Dịu là sáng lập viên Công ty TNHH Hoàng Long và có vốn điều lệ là 90 triệu đồng. Riêng khoản tiền 350.000.000 đồng thì chưa đủ căn cứ vững chắc để xác định là vốn góp của chị Đặng Thị Dịu; bởi vì: trong hồ sơ vụ án không có tài liệu nào thể hiện việc chuyển nhượng hợp pháp số tiền 350.000.000 đồng từ ông Lộc sang chị Dịu theo quy định của pháp luật; Biên bản họp Hội đồng quản trị ngày 8/3/1998 là bản sao từ sổ ghi biên bản không có công chứng, chứng thực hợp pháp, không đủ độ tin cậy; hơn nữa, trong hồ sơ vụ án có tài liệu thể hiện ngày 30/8/1998 ông Lộc và chị Hoàng Thị Hương ký tên và đóng dấu vào bản danh sách sáng lập viên góp vốn, nhưng trong bản danh sách này không có tên chị Dịu. 2. Về tư cách thành viên Công ty Hoàng Long của bà Lê Thị Hộ và các chị Đặng Thị Thu Hương, Đăng Thị Xuân: - Bà Lê Thị Hộ là vợ ông Đặng Tất Lộc (giám đốc Công ty đã chết tháng 11/2004); các chị Đặng Thu Hương, Đặng Thị Xuân là con ông Đặng Tất Lộc. Ông Lộc chết không để lại di chúc. Ngày 16/12/2004, bà Lê Thị Hộ cùng các con Đặng Thị Dịu, Đặng Thu Hương, Đặng Thị Xuân, Đặng Thị Thường, Đặng Tất Bình lập “Văn bản thoả thuận” cử bà Hộ, chị Xuân, chị Hương “là người quả lý di sản phần vốn góp của ông Lộc tại Công ty TNHH Hoàng Long..”; “bà Hộ, chị Xuân, chị Hương được quyền duy trì vốn góp của ông Lộc tại Công ty TNHH Hoàng Long để tiếp tục cùng Công ty thực hiện kinh doanh dịch vụ…” (BL 283). - Căn cứ Biên bản họp Hội đồng thành viên Công ty TNHH Hoàng Long ngày 12/3/2005 thì Hội đồng thành viên Công ty Hoàng Long đã “chấp nhận văn bản thoả thuận thừa kế vốn góp trong Công ty của ông Đặng Tất Lộc kèm theo văn bản thoả thuận của gia đình ngày 16/12/2004” (BL 149). Chị Hoàng Thị Hương và những người đại diện cho chi Bùi Thị Thanh Hương (là ông Bùi Hữu Cầu) và chị Nguyễn Ngọc Lan (là ông Nguyễn Hữu Chính) đều đã ký biên bản này (BL59). Như vây, có thể xác định bà Hộ, chị Xuân, chị Hương đã được Hội đồng thành viên Công ty chấp nhận là những người thừa kế quyền, nghĩa vụ của ông Lộc; nhưng họ đã chính thức trở thành thành viên Công ty theo đúng quy định của Luật Doanh nghiệp 1999 hay chưa thì chưa đủ căn cứ khẳng định vì ngày 20/4/2005 bà Hộ, chị Xuân, chị Hương lại có đơn đề nghị công nhận thành viên Hội đồng Công ty trách nhiệm hữu hạn Hoàng Long. 3. Về yêu cầu khởi kiện của các nguyên đơn và việc việc giải quyết của Toà án các cấp: - Tại đơn khởi kiện đề ngày 15/6/2005 các chị Nguyễn Thị Ngọc Lan, Bùi Thị Thanh Hương, Hoàng Thị Hương đề nghị Toà án nhân dân tỉnh Quảng Ninh buộc chị Đặng Thị Dịu phải trả lại cho tập thể con dấu, giấy phép kinh doanh, giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh khách sạn Hoàng Long để các sáng lập viên tổ chức lại toàn bộ sổ sách giấy tờ của doanh nghiệp; do ông Lộc đã chết, vì vậy buộc Công ty phải thực hiện lập lại báo cáo tài chính từ năm 1993 đến nay.. (BL01). - Tại Biên bản lấy lời khai ngày 06/7/2005 ông Bùi Hữu Cầu (đại diện theo uỷ quyền của chị Bùi Thị Thanh Hương) giữ nguyên yêu cầu trên; ngoài ra, còn cho rằng chị Dịu có tên trong danh sách thành viên sáng lập nhưng không góp vốn (BL 218). Tại biên bản lấy lời khai ngày 08/8/2005, ông Cầu, ông Chính, chị Hoàng Thị Hương đều không thừa nhận chị Dịu có góp vốn vào Công ty; không thừa nhận tư cách thành viên Công ty của bà Hộ, chị Dịu, chị Hương, chị Xuân; không đồng ý với việc xác định vốn góp của các thành viên Công ty tại biên bản họp ngày 8/3/1998; không thừa nhận kết quả Đại hội thành viên Công ty ngày 24/4/2005 (BL 260-262). Với các căn cứ nêu trên, việc Toà án nhân dân tỉnh Quảng Ninh thụ lý đơn khởi kiện của các nguyên đơn để giải quyết bằng vụ án kinh doanh, thương mại tranh chấp giữa các thành viên của Công ty với nhau.. là đúng quy định tại khoản 3 Điều 29 Bộ luật tố tụng dân sự và hướng dẫn của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao tại điểm b tiểu mục 3.5 mục 3 phần I Nghị quyết số 01/2005/NQ.HĐTP ngày 31/3/2005 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao. Tuy nhiên, do chưa đủ căn cứ vững chắc để xác định phần vốn góp của chị Đặng Thị Dịu như nêu trên và về tư cách thành viên của bà Hộ, các chị Xuân, Hương cũng chưa có đủ căn cứ vững chắc để kết luận nên tính hợp pháp của Đại hội thành viên Công ty Hoàng Long ngày 24/4/2005 cần được xem xét lại. - Toà án cấp sơ thẩm xác định: “Phòng đăng ký kinh doanh… cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh số 2202000999 ngày 24/6/2005 cho Công ty Hoàng Long (sau khi các đương sự đã khởi kiện vụ án) là hợp pháp, có căn cứ pháp luật” nhưng lại kiến nghị với Công ty TNHH Hoàng Long và Phòng đăng ký kinh doanh… “xem xét lại tư cách thành viên Công ty của chi Bùi Thị Thanh Hương, Nguyễn Thị Ngọc Lan và trả lời cho Toà án biết” là không đúng pháp luật, vượt thẩm quyền. Toà án cấp phúc thẩm đã không phát hiện những sai lầm của Toà án cấp sơ thẩm và quyết định giữ nguyên các quyết định của bản án sơ thẩm là không đúng pháp luật. Bởi các lẽ trên; căn cứ vào khoản 3 Điều 291; khoản 3 Điều 297; khoản 1,2 Điều 299 của Bộ luật tố tụng dân sự. QUYẾT ĐỊNH Huỷ bản án kinh doanh thương mại phúc thẩm số 31/2006/KDTM-PT ngày 14-2-2006 của Toà Phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hà Nội và bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số 04/2005/KDTM-ST ngày 18/10/2005 của Toà án nhân dân tỉnh Quảng Ninh; giao hồ sơ vụ án cho Toà án nhân dân tỉnh Quảng Ninh xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật. Bài 2: Nhận xét của anh, chị về: - Quan hệ pháp luật về nội dung trong vụ án - Thành phần, tư cách đương sự trong vụ án - Chứng cứ và sử dụng chứng cứ trong vụ án Quyết định giám đốc thẩm xét xử vụ án kinh doanh, thương mại tranh chấp về hợp đồng bảo hiểm của Công ty Cổ phần thương mại Duy Linh …. Ngày 27/3/2012, tại trụ sở Tòa án nhân dân tối cao, đã mở phiên tòa giám đốc thẩm xét xử vụ án kinh doanh, thương mại tranh chấp về hợp đồng bảo hiểm, giữa các đương sự: - Nguyên đơn: Công ty Cổ phần thương mại Duy Linh, có trụ sở tại Km 7, phường Hùng Vương, quận Hồng Bàng, thành phố Hải Phòng; do ông Lưu Gia Long làm đại diện theo Giấy ủy quyền số 09/UQ ngày 02/3/2006 của Giám đốc Công ty và bà Thẩm Hồng Hạnh làm đại diện theo Giấy ủy quyền ngày 31/7/2008 của Giám đốc công ty. Bị đơn: Công ty cổ phần bảo hiểm Nhà Rồng Bảo Long), có trụ sở tại số 185 Điện Biên Phủ, quận 1, thành phố Hô Chi Minh; do ông Phạm Sỹ Hải Quỳnh làm đại diện theo Giấy ủy quyền ngày 28/8/2007 của Tổng Giám đốc Công ty. NHẬN THẤY Theo đơn khởi kiện đề ngày 27/6/2007 và các tài liệu, chứng cứ do nguyên đơn - Công ty cổ phần thương mại Duy Linh (sau đây viết tắt là Công ty Duy Linh) xuất trình có trong hồ sơ vụ án thì thấy: Ngày 15/12/2005, Công ty TNHH Continetn (sau đây viết tắt là Công ty Continent) có giấy ủy quyền cho Công ty TNHH Kapha (sau đây viết tắt là Công ty Kapha) được bán con tàu Shantar cuộc quyền sở hữu của Công ty Continent, sang Việt Nam làm sắt vụn (BL59). Ngày 18/01/2006, Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải Việt Nam đã cấp giấy phép mua bán tàu Shantar và thu Tsikonya cho Công ty Duy Linh (BL20). Ngày 19/01/2006, Công ty Duy Linh ký Hợp đồng số 0601/SC với Công ty Kapha để mua hai tàu Shantar và Tsikonya (BL62). Trong đó tàu Shantar thuộc sở hữu của Công ty Continent và tàu Tsikonya thuộc sở hữu của Công ty TNHH dịch vụ Kurs (sau đây viết tắt là Công ty Kurs). Công ty Kurs cũng có giấy ủy quyền cho Công ty Kapha bán tàu Tsil~onya (BL61). Tông ăn giá của nai tàu là 1 026.000USD (trong đo trị giá tàu Shantar là 450.000USD, trị giá tàu Tsikonya là 576.000USD) theo điều kiện CỨ tại Cảng Hải Phòng, Việt Nam. Trong hợp đồng mua bán nêu rõ máy của tàu Shantar bị hỏng và tàu Tsikonya sẽ kéo tàu Shantar từ Cảng Vladivostok về Cảng Hải Phỏng. Thời gian bàn giao hai tàu vào tháng 2 hoặc tháng 3 năm 2006: Hợp đồng quy định quyền sở hữu tàu sẽ được bàn giao Từ bên bán sang bên mua ngay khi bên bán nhận được toàn bộ số tiền trong hợp đồng vào tài khoản của mình (Điều 3.4) và ngay sau khi ký biên bản giao nhận hai con tàu, bên mua sẽ phải chịu trách nhiệm về tất cả những mất mát rủi ro và những phí tổn của hai con tàu (Điều 6.3). Căn cứ hợp đồng mua bán trên và để tránh rủi ro cho hai tàu trong hành trình vận chuyển từ cảng Vlađivostok về cảng Hải Phòng, Công ty Duy Linh đã mua bảo hiểm thân tàu của Công ty cổ phần bảo hiểm Nhà Rồng (gọi tắt là Bảo Long) - Chi nhánh Hải Phòng. ngày 20/01/2006, Công ty Duy Linh có Giấy yêu cầu bảo hiểm thân tàu yêu cầu Bảo Long bảo đảm thân tàu cho tàu Shantar theo điều kiện bảo hiểm ITC 01/11/1995. Trong Giấy yêu cầu bảo hiểm này, Công ty Duy Linh đã nêu rõ căn cứ đầu tiên yêu cầu bảo hiểm là các điều khoản của Hộp đồng mua bán tàu sổ 0601/SC ngày 19/0/2006 giữa Công ty Kapha và Công ty Duy Linh (BL18). Hợp đồng mua bán tàu được chuyển kèm theo Giấy yêu cầu bảo hiểm thân tàu của Công ty Duy Linh: Ngày 06/02/2006, Chi nhánh Bảo Long tại Hải Phòng cấp Giấy sửa đổi bổ sung số 1B.1011/0001/06-HP, theo đó Bảo Long Hải Phòng đồng ý sửa đổi bổ sung Hợp đồng bảo hiểm thân tàu số 1A.1021/0001/06-HP ngày 12/01/2006 về thời hạn bảo hiểm là từ ngày 06/02/2006 đến 22/3/2006 (BL19). Công ty Duy Linh đã đóng đầy đủ phí bảo hiểm (BL21). Ngày 24/01/2006, tại thành phố Nakhodka, đại diện của Công ty Duy Linh đã nhận bàn giao tàu Tsikonya với đại diện bên bán là Giám đốc Công ty Kurs (BL86-88). Ngày 02/02/2006, tại thành phố Vladivostok, đại diện của Công ty Duy Linh đã nhận bàn giao tàu Shantar với đại diện bên bán là Giám đốc Công ty Continent (BL89-90) kèm Giấy phép vận hành tàu một chuyến do đăng kiểm Nga cấp cho tàu Shantar ngày 02/02/2006 (BL91-93). Ngày 12/02/2006, tại Vịnh Bosphor - Vladivostok, tàu Topaz đã kéo và bàn giao tàu Shantar cho tàu Tsikonya trong tình trạng đi biển, Ngày 13/02/2006, Công ty Duy Linh có Công văn số 08/CV thông báo cho Bảo Long biết việc tàu Shantar và tàu Tsikonya đã rời bến từ cảng Valdivostok về cảng Hải Phòng theo nội dung bảo hiểm hành trình một chuyến, thời điểm tàu rời biển theo giờ Việt Nam là 10 giờ 30 ngày 12/02/2006 (14 giờ 30 ngày 12/2/2006 giờ địa phương (BL22) Ngày 02/31/2006 Công ty Duy Linh nhận được thông báo tàu Shantar bị chìm tại vùng biển đảo Hải Nam, Công ty Duy Linh đã có Công văn số 11/CV cùng ngày gửi Bảo Long thông báo tàu Shantar bị sự cố chìm tàu (BL23). Ngay sau khi tàu Tsikonya về đến cảng Hải Phòng, ngày 06/3/2006, đại diện Công ty Duy Linh, đại diện Bảo Long, thuyền trưởng, thuyền nhỏ, thuỷ thủ trưởng tàu Tsikonya đã có buổi làm việc. Thuyền trưởng tàu Tsikonya đã trình bày diễn biến tai nạn, xử lý tai nạn và đánh giá nguyên nhân tàu bị chìm (do thời tiết xấu nhiều ngày, gió lớn, sóng mạnh) tàu Shantar bị tổn thất toàn bộ (BL23). Căn cứ vào hồ sơ hợp đồng bảo hiểm, Công ty Duy Linh đã cung cấp các giấy tờ liên quan mà Bảo Long yêu câu những phía Bảo Long đưa ra nhiêu lý do không chi trả bảo yểm cho Công ty Duy Linh. Nay công ty Duy Linh yêu cầu Bảo Long phải bồi thường toàn bộ thiệt hại đối với tàu Shantar là 450.000 USD, lãi suất chậm trả bảo hiểm là 79.602 USD tính từ ngày 02/3/2006 đến ngày 27/6/2007 (ngày nộp đơn khởi kiện), các chi phí liên quan đến đòi bồi thường là 20.000 USD. Bị đơn là Công ty cổ phần Bảo hiểm Nhà Rồng (Bảo Long) trình bày: Vào tháng 01/2006, ông Lưu Gia Long là người đại diện theo ủy quyền của Công ty Duy Linh liên lạc với bà Phan Thị Thanh Mỹ nhờ giới thiệu mua bảo hiểm cho hai tàu Tsikonya và tàu Shantar dự định mua từ Nga về. Bà Mỹ sau đó liên lạc với bà Mạc Thị Hồng Liên - cán bộ thuộc Phòng nghiệp vụ 2 Chi nhánh Bảo Long tại Hải Phòng để giới thiệu mua bảo hiểm cho hai tàu trên. Ngày 12/01/2006, sau khi nhận các thông số tàu viết tay từ bà Mỹ (như tên tàu, quốc tịch, năm đóng trọng tải, mã lực, kích thước), bà Liên đã cấp Đơn bảo hiểm số 1A.1021/0001/06/-HP (do ông Đặng Thế Phong - Quyền Giám đốc Chi nhánh Bảo Long tại Hải Phòng ký) cho Công ty Duy Linh. Theo Đơn bảo hiểm số lA.1021/0001/06/-HP, Bảo Long nhận bảo hiểm tổn thất toàn bộ thân tàu cho tàu Shantar theo điều kiện bảo hiểm ITC 01/1l/1995; số tiền bảo hiểm là 450.000USD, tổng phí bảo hiểm là 2.250USD (BL17). Ngày 20/01/2006, Công ty Duy Linh gửi Ciấy yêu cầu bảo hiểm thân tàu tới Bảo Long kê khai chi tiết tàu Shantar và yêu cầu bảo hiểm cho tàu Shantar hành trình một chuyến từ cảng Vladivostok đến cảng Hải Phòng. Ngày 06/02/2006, sau khi nhận được thông báo từ Công ty Duy Linh, ông Đặng Thế Phong đã ký Giấy sửa đổi, bổ sung số 1B1011/0002/06-HP xác nhận thời hạn bảo hiểm từ 06/02/2006 đến 22/3/2006. Ngày 07/02/2006, Công ty Duy Linh nộp 81.567.000 đồng phí bảo hiểm, trong đó có phi bảo hiểm thân tàu cho tàu Shantar là 35.775.000 đồng (BL21). Ngày 14/02/2006, Bảo Long nhận được Công văn số 8/CV ngày 13/02/2006 của Công ty Duy Linh thông báo về việc tàu Shantar và tàu Tsikonya đã rời bến từ cảng Vladivostok đẻ hành đến cảng Hải Phòng. Trên đường đi hai tàu gặp bão mạnh và ngày 02/3/2006, tàu Shantar bị chìm ở toạ độ 18003,2' Nam và 108051,1' độ kinh đông, ở độ sâu 44 mép nước. Ngày 02/3/2006 Bảo Long đã nhận được thông báo về sự cố chìm tàu Shantar. Ngày 03/3/2006, Thuyền tưởng tàu Tsikonya đã có kháng nghị hàng hải để miễn trừ trách nhiệm của mình và thủy thủ đoàn. Ngày 06/3/2006, đại diện các bên đã tổ chức cuộc họp tại Hải Phòng về sự cố chìm tàu Shantar. Tại cuộc họp, Bảo Long đã có danh mục các tài liệu yêu cầu Công ty Duy Linh cung cấp cho Bảo Long. Sau đó, giữa hai bên có cung cấp tài liệu, chứng cứ công văn trao đổi, họp với nhau nhưng không giải quyết được khiếu nại đòi bồi thường thiệt hại của Công ty Duy Linh. Bảo Long từ chối giải quyết yêu cầu đòi bồi thường bảo hiểm của Công ty Duy Linh vì các lý do sau: - Công ty Duy Linh đã vi phạm cam kết hành trình đi biển. Theo chứng nhận bảo hiểm, Bảo Long và Công ty Duy Linh đã thống nhất áp dụng điều kiện và điều khoản bảo hiểm theo quy tắc ITC. Theo quy định tại Điều 1.1 của ITC, Bảo Long không chấp nhận bảo hiểm cho tàu Shantar nếu bị lai kéo, nhưng trên thực tế tàu Shantar đã được tàu Tsikonya kéo từ cảng Vladivostok về cảng Hải Phòng (theo báo cáo của Công ty Duy Linh và thuyền trưởng tàu Tsikonya) . Việc làm này đi ngược lại nội dung của Điều 1.1 quy tắc ITC và dẫn đến hậu quả pháp lý là tàu Shantar không còn được bảo hiểm. - Bảo Long khẳng định: Trước thời điểm cấp Giấy chứng nhận bảo hiểm, Bảo Long không được Công ty Duy Linh thông báo về việc lai kéo kể cả việc nhận nội dung hợp đồng mua bán tàu của Công ty Duy Linh. Công văn ngày 20/01/2006 của Công ty Duy Linh thông báo về việc tàu Tsikonya và tàu Shantar rời cảng Vladivostol về Việt Nam nhưng không đề cập rõ ràng là hai tàu Shantar và tàu Tsikonya sẽ lai kéo nhau. Trên thực tế, công văn này không ghi nhận Bảo Long đồng ý hoặc cam kết sẽ bảo hiểm cho tàu Shantar nếu tàu này được lai kéo. Bảo Long khẳng định chưa bao giờ chấp thuận việc bảo hiểm cho tàu Shantar nếu tàu Shantar bị lai kéo. Nếu chấp thuận hai tàu lai kéo nhau chắc chắn Bảo Long đã xoá Điều 1.1 quy tắc ITC. Quy tắc ITC là một chỉnh thể không phải muốn xoá bỏ hoặc thay đổi là làm được ngay. Theo quy định của pháp luật về bảo hiểm, muốn thay đổi Điều 1.1 quy tắc ITC, Bảo Long sẽ phải đăng ký với Bộ Tài chính trước khi thay đổi (xoá bỏ Điều 1.l) có hiệu lực. Như vậy, không có cơ sở để cho rằng Bảo Long đã chấp nhận bảo hiểm cho tàu Shantar bị lai kéo trong trường hợp giả định không đề cập đến Điều 1.1 quy tắc ITC, Bảo Long cũng phải quan tâm đến Điều 4.1 quy tắc ITC là thực hiện các yêu cầu của cơ quan phân cấp tàu. - Giấy phép đi biển một chiều của tàu Shantar do đăng kiểm Nga cấp ngày 02/02/2006 đưa ra nhiều yêu cầu, trong đó có yêu cầu hải trình trong tình trạng bị lai kéo bởi một tàu lai kéo có công suất không thấp hơn 950kw. Theo thông báo của Công ty Duy Linh, tàu Shantar đã được tàu cá Tsikonya (không có chức năng lai kéo) kéo trong hải trình từ cảng Vladivostok về cảng Hải Phòng. Như vậy, tàu Shantar hải trình đã vi phạm Điều 4.1 quy tắc ITC, nên theo Điều 4.2 quy tắc ITC, Bảo Long không có cơ sở pháp lý để thanh toán bảo hiểm cho Công ty Duy Linh vì trách nhiệm của Bảo Long buộc phải chấm dứt ngay sau khi tàu Shantar được tàu Tsikonya kéo tại cảng Vladivostok. Công ty Duy Linh cho rằng việc lai kéo giữa hai tàu là tập quán cho việc mua tàu cũ để phá dỡ, tàu Tsikonya có công suất trên 1.000kw nên việc dùng tàu Tsỉkonya kéo tàu Shantar là không vi phạm yêu cầu cơ quan phân cấp tàu. Bảo Long khẳng định theo quy định tại Điều 4.1, 4.2 quy tắc ITC thì bất kể có tập quán lai dắt hay không thì việc hải trình trên biển phải tuân theo yêu cầu của cơ quan phân cấp chuyên môn về an toàn hàng hải. Phía Công ty Duy Linh không cung cấp được bằng chứng để khẳng định hai tàu cá lai kéo nhau là tập quán. Hai tàu cá đã cũ mua về để phá dỡ kéo nhau trên biển hàng ngàn kilomet. Đăng kiểm Nga quy định tàu Shantar bị hải trình trong tình trạng bị lai kéo bởi một tàu lai kéo, tàu Tsíkonya không phải tàu lai kéo và không có giấy phép thực hiện lai kéo nên đã vi phạm yêu cầu của Đăng kiểm Nga và Điều 4.1 quy tắc ITC. - Nguyên nhân tổn thất rủi ro trong vụ án này không thuộc trường hợp được bảo hiểm: Theo kháng nghị hàng hải và qua trao đổi với phía thuyền bộ Tsikonya và Công ty Duy Linh cho rằng tàu Shantar bị chìm do gặp bão mạnh trên đường đi (BL121-122), nhưng theo Công văn ngày 30/5/2006 của Trung tâm dự báo khí tượng thủy văn Trung ương xác định không có bão trong suốt thời gian và khu vực hải trình của tàu Tsikonya (BL53), xác định của Văn phòng hàng hải quốc tế do Bảo Long nhờ cũng có kết quả về thời tiết tương tự. Như vậy không có bằng chứng về việc tàu Shantar bị gặp bão trên hải trình từ cảng Vladivostok về cảng Hải Phòng, do vậy không có cơ sở thực tế để xác định tàu Shantar bị chìm nếu có thuộc trường hợp được bảo hiểm theo cam kết với Công ty Duy Linh. Công ty Duy Linh chưa chứng minh được mình có quyền lợi bảo hiểm đối với tàu Shantar. Theo Công ty Duy Linh khai, bên bán tàu là Công ty Kapha, nhưng Giấy chứng nhận sở hữu tàu ghi nhận Công ty Continent là chủ sở hữu tàu Shantar (BL74-78). Như vậy, bên bán tàu có thể không có quyền bán tàu Shantar cho Công ty Duy Linh và Công ty Duy Linh không có quyền nhận chuyển giao quyền sở hữu tàu Shantar; Giấy uỷ quyền của Công ty Continent cho Công ty Kapha chưa được hợp pháp hóa lãnh sự nên Bảo Long không chấp nhận giá trị chứng cứ này do đó sẽ không có quyền lợi được bảo yểm và có thể không được nhận chi trả bảo hiểm theo Điều 22 Luật kinh doanh bảo hiểm. Công ty Duy Linh không phải là bên gánh chịu tổn thất của tàu Shantar nếu có. Trong hợp đồng mua bán tàu Điều 6.3 quy định: "Ngay sau khi ký biên bản bàn giao tàu, bên mua sẽ chịu trách nhiệm đối với mọi tổn thất rủi ro và chi phí của hai tàu", Điều 2 quy định: "Tổng giá hợp đồng được hiểu là mua theo điều kiện CNF tại cảng Hải Phòng Việt Nam", Như vậy, Công ty Duy Linh với tư cách là bên mua chỉ phải chịu tổn thất của tàu Shantar nếu tổn thất xảy ra sau khi Công ty Duy Linh và Công ty Kapha cùng ký vào biên bản bàn giao tàu. Biên bản bàn giao chỉ được ký tại Hải Phòng, nghĩa là Công ty Duy Linh không phải chịu bất kỳ tổn thất gì nếu tàu Shantar không đến được cảng Hải Phòng, vì vậy Bảo Long từ chối chi trả bồi thường bảo kiểm. Công ty Duy Linh chưa cung cấp cho Bảo Long bằng chứng khẳng định tàu Shantar thực sự rời cảng Vladivostok để tham gia hải trình tới cảng Hải Phòng nên không thể khẳng định liệu có tai nạn xảy ra đối với tàu Shantar không; lệnh xuất hàng đối với tàu Shantar bản copy và bản dịch tiếng Việt viết tay không có nội dung tàu Shantar Quốc tàu Tsikonya lai kéo, ngày ghi trên lệnh xuất hàng là 26/01/2006 nhưng theo báo cao của Công ty Duy Linh và các hồ sơ khác thì tàu Tsikonya lại rời cảng Vladivostok vào ngày 12/02/2006; hầu hết các chứng cứ do Công ty Duy Linh xuất trình là do cơ quan nước ngoài cấp và bằng tiếng nước ngoài nhưng đều chưa được hợp pháp hoá lãnh sự và chưa được cơ quan công chứng Việt Nam dịch hoặc xác nhận nên chưa có giá trị chứng cứ (BL335, 310, 489). Tại Bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số 13/2008/KDTM-ST ngày 07/5/2008, Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng đã quyết định: "Điều 1: Công ty Cổ phần Bảo hiểm Nhà Rồng phải bồi thường thiệt hại phát sinh là tổn thất toàn bộ tàu Shantar cho Công ty Cổ phần Thương mại Duy Linh với số tiền là 450.000 USD (Bốn trăm năm mươi nghìn đô la Mỹ) quy đổi thành tiền Việt Nam là 7.193.250.000 đồng (Bảy tỷ một trăm chín mươi ba triệu hai trăm năm mươi nghìn đồng). Điều 2: Công ty Cổ phần Bảo hiểm Nhà Rồng phải hoàn lại số tiền phí bảo hiểm đã nhận cho Công ty cổ phần thương mại Duy Linh là 35.775.000 đồng (Ba mwoi lăm triệu bảy trăm bảy mươi lăm nghìn đồng); Điều 3: Tổng cộng hai khoản tiền Công ty Cổ phần Bảo hiểm Nhà Rồng phải trả công ty Cổ phần thương mại Duy Linh quy định tại Điều 1, Điều 2 trên là 7.229.025.000 đồng (Bảy tỷ hai trăm hai mươi chín triệu không trăm hai mươi lăm nghìn đồng)". Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn có quyết định về án phí và quyền kháng cáo của các đương sự theo quy định của pháp luật. Ngày 13/5/2008, Công ty Cổ phần bảo hiểm Nhà Rồng (Bảo Long) có đơn kháng cáo. Tại bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm số 12/2009/KDTM-PT ngày 19-01-2009, Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội đã quyết định: "Không chấp nhận toàn bộ đơn kháng cáo của Công ty Cổ phần bảo hiểm Nhà Rồng (gọi tắt là Công ty Bảo Long); giữ nguyên Bản án số 13/2008/KDTM-ST ngày 07/5/2008 của Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng". Ngày 24/02/2009, Công ty Cổ phần bảo hiểm Nhà Rồng có đơn đề nghị xem xét lại Bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm số 12/2009/KDTM-PT ngày 19/01/2009 của Tòa phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại Hà Nội theo thủ tục giám đốc thẩm. Ngày 25/5/2009 và ngày 08/01/2010, Tổng cục cảnh sát Bộ Công an có Công văn số 2218/C11-C15 và Công văn số 55/Cll(C15) đề nghị Chánh án Toà án nhân dân tối cao kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm đối với Bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm số 12/2009/KDTM-PT ngày 19/01/2009 của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại Hà Nội vì vụ án này có dấu hiệu lừa đảo chiếm đoạt tài sản (trục lợi bảo hiểm) cần phải khởi tố điều tra. Tại Quyết định kháng nghị số 19/2010/KDTM-KN ngày 15/9/2010, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm theo hướng hủy Bản án anh doanh, thương mại phúc thẩm số 12/2009/KDTM-PT ngày 19/01/2009 của Tòa phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại Hà Nội và Bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số 13/2008/KDTMST ngày 07/5/2008 của Toà án nhân dân thành phố Hải Phòng; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật Tại Bản kết luận số 85/KL-VKSTC-V12 ngày 25/7/2011 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao và tại phiên tòa giám đốc thẩm, đại điện Viện kiểm sát nhân dân tối cao nhất trí với kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao. XÉT THẤY 1. Về tố tụng Theo đơn khởi kiện và tại các biên bản hòa giải, biên bản phiên tòa, đại diện Công ty Duy Linh chỉ yêu cẩu Bảo Long phải bồi thường toàn bộ thiệt hại đối với tàu Shantar là 450.000 USD, lãi suất chậm trả bảo hiểm là 79.602 USD tính từ ngày 02/3/2006 đến ngày 27/6/2007 (ngày nộp đơn khởi kiện) và các chi phí liên quan đến đòi bồi thường thiệt hại là 20.000 USD. Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm đã áp dụng Điều 18 Nghị định số 42/2001/NĐ-CP ngày 01/8/2001 của Chính phủ, trong đó quy định "Trong trường hợp doanh nghiệp bảo hiểm giao kết hợp đồng bảo hiểm không theo quy tắc, điều khoản, biểu phí đã được Bộ Tài chính ban hành, phê chuẩn hoặc đã đăng ký với Bộ Tài chính thì doanh nghiệp bảo hiểm phải bồi thường thiệt hại phát sinh cho bên mua bảo hiểm và bên mua bảo hiểm không có trách nhiệm nộp phí bảo hiểm" và nhận định rằng Bảo Long đã cấp giấy chứng nhận bảo hiểm cho tàu Shantar không tuân theo điều khoản bảo hiểm thời hạn thân tàu theo quy tắc ITC đã đăng ký với Bộ tài chính nên đã tuyên buộc Bảo Long phải hoàn trả 35.775.000 đồng tiền phí bảo hiểm cho Công ty Duy Linh là không đúng, vượt quá yêu cầu khởi kiện, vi phạm quy định tại khoản 1 Điều 5 Bộ luật tố tụng dân sự là Tòa án chỉ thụ lý giải quyết vụ việc dân sự khi có đơn khởi kiện, đơn yêu cầu của đương sự và chỉ giải quyết trong phạm vi đơn khởi kiện, đơn yêu cầu đó". 2. Về nội dung: Trước khi ký hợp đồng mua bán tàu Shantar và tàu Tsikonya số 0601/SC ngày 19/01/2006 vùi Công ty KaDha, Công ty Duy Linh đã được Bảo Long Hải Phòng cấp Đơn bảo hiểm thân tâu số 1A.l021/0001/06-HP ngày 12/01/2006 cho tàu Shantar. Sau khi ký Hợp đồng mua bán tàu Shantar và tàu Tsikonya số 0601/SC ngày 19/01/2006 với Công ty Kapha, Công ty Duy Linh mới có giấy yêu cầu bảo hiểm thân tàu đề ngày 20/01/2006 và ngày 06/02/2006 Bảo Long Hải Phòng cấp Giấy sửa đổi, bổ sung số 1B1011.0001/06-HP cho Công ty Duy Linh. Công ty Duy Linh cung cấp cho Tòa án hợp đồng mua bán tàu Shantar ngày 19/01/2006 giữa Công ty Duy Linh với Công ty được ủy quyền bán tàu là Công ty Kapha. Trong hợp đồng này, đại diện bên bán là ông Mikhail Dimitrov - Giám đốc ký (BL66). Tuy nhiên để chứng minh Bảo Long Hải Phòng cũng cấp Đơn bảo hiểm tương tự cho một cặp tàu khaccs cũng được mua tại Liên bang Nga về để tháo dỡ, Công ty Duy Linh còn cung cấp thêm cho Tòa án Hợp đồng mua bán tàu ngày 12/01/2006 (bản phô tô bằng tiếng Anh không được công chứng, chứng thực hợp pháp) giữa Công ty TNHH Mai Phương và Công ty Kapha, người ký tên đại diện cho bên bán (Công ty Kapha) là ông Kladovsikov V.V - Tổng giám đốc (BL231). Như vậy, đại diện Công ty Kapha (bên bán tàu) trong 2 hợp đồng mua tàu nói trên là hai người khác nhau nhưng chữ ký của đại diện Công ty Kapha ở cả hay hợp đồng này lại rất giống nhau và có phải là của một người ký hay không cũng chưa được làm rõ nhưng Tòa án cấp phúc thẩm lại đưa vào trong phần nhận định của bản án. Mặt khác, giấy ủy quyền của Công ty Continent cho Công ty Kapha được quyền bán tàu Shantar (thuộc quyền sở hữu của Công ty Continent) lại là bản phô tô không được công chứng, chứng thực hợp pháp; đại diện Bảo Long Hải Phòng không thừa nhận tính hợp pháp của giấy ủy quyền này, nhưng Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm đã không xem xét làm rõ mà vẫn cho rằng hợp đồng mua bán tàu Shantar giữa công ty Duy Linh và Công ty Kapha là có thực, hợp pháp, là chưa đủ căn cứ vững chắc. Theo kháng nghị hàng hải ngày 03/3/2006 của thuyền trưởng tàu Tsikonya (tàu lai kéo tàu Shantar) thì "suốt cả chặng đường kéo từ cảng Vladivostok về cảng Hải Phòng . . . đều gặp giông bão, gió mạnh. . . Sau khi qua vịnh Đài Loan, ở đây gặp bão biển cực mạnh, giông bão làm đổ cột nóc tàu Shantar. . . Việc đắm tàu Shantar là do thiên tai", nhưng theo Công văn ngày 30/5/2006 của Trung tâm dự báo khí tượng thủy văn Trung ương xác định trong suốt thời gian và khu vực hải trình của tàu Tsikonya thì thời tiết biển chủ yếu có mây, gió đông bắc cấp 6, 7, sóng biển cao 2 -2,5m (không thể hiện là có bão) (BL53). Xác định của Cục hàng hải quốc tế cũng có kết quả về thời tiết tương tự (BL457-565). Như vậy, không có bằng chứng về việc tàu Shantar bị gặp bão trên hải trình từ cảng Vladivostok về cảng Hải Phòng; nguyên nhân việc chìm tàu Shantar chưa được Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm làm rõ, do vậy không có cơ sở thực tế để xác định tàu Shantar có bị chìm hay không . Căn cứ các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án thì chỉ duy nhất hợp đồng mua bán tàu Shantar giữa Công ty Duy Linh và Công ty Kapha có thể hiện tàu Shantar được kéo bằng tàu Tsikonya; ngoài ra, không có tài liệu nào thể hiện việc Cảng vụ Vladivostok cho phép tàu Tsikonya kéo tàu Shantar từ cảng Vladivostok đến cảng Hải Phòng. Hồ sơ chỉ có các tài liệu như Giấy xin phép rời bến của tàu Topaz, Giấy ủy nhiệm chở hàng xuất khẩu của Công ty Continent (ủy nhiệm cho tàu Tơpaz chở hàng là tàu Shantar) thì các tài liệu này đều thể hiện tàu Shantar được tàu Topaz lai kéo cảng đi là cảng Vladivostok và cảng đến là cảng Hải Phòng. Trước khi xét xử phúc thẩm, Tổng cục cảnh sát Bộ Công an (C11 - C15) đã trao đổi và làm việc với Hội đồng xét xử phúc thẩm về việc vụ án có dấu hiệu lừa đảo chiếm đoạt tài sản (trục lợi bảo hiểm) nhưng không được Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận. Sau khi xét xử phúc thẩm, Tổng cục cảnh sát Bộ Công an (C11 - C15) có nhiều văn bản gửi Chánh án Tòa án nhân dân tối cao và Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao với nội dung: Vụ án này có dấu hiệu hình sự lừa đảo chiếm đoạt tài sản qua trục lợi bảo hiểm và cung cấp thêm một số tài liệu về việc Văn phòng INTERPOL Tổng cục Cảnh sát đã trao đổi với Cảnh sát Liên bang Nga và Cảnh sát Liên bang Nga cho biết: Cảnh sát thành phổ Vladivostok chỉ phát hiện một Công ty có tên Công ty TNHH KAFA có địa chỉ tại Vladivostok, Tổng Giám đốc là ông Kladovsczikov Viadimir. Ông Kladovsczikov Vladimir khai bản thân ông không ký hợp đồng với Công ty Duy Linh, mặc dù chữ ký và con dấu trong hợp đồng do phía Việt Nam cung cấp trông có vẻ giống chữ ký và con dấu của ông. Từ năm 2000, Công ty KAFA có một Chi nhánh ở Pionerskaya str, 1, Vladivostok. Văn phòng INTERPOL cũng cho biết, tại Liên bang Nga không có địa chỉ số 4/102 đường Pionherskaia, thành phố Vladivostok như thể hiện tại hợp đồng mua bán tàu Shantar của Công ty Duy Linh, ngành nghề kinh doanh của Công ty KAFA tại số 1 đường Pionerskaya, Vladivostok là kinh doanh thực phẩm. Về việc lai kéo con tàu Shantar, cơ quan có thẩm quyền ở khu vực Viễn đông của Liên bang Nga cho biết: Ngày 06/2/2006 cơ quan này cấp phép lai kéo con tàu Shantar về cảng Pusan của Hàn Quốc (con tàu Shantar phải do con tàu Topaz lai kéo). Cơ quan này không cấp phép lai kéo con tàu Shantar về Việt Nam (BLI5, 16 BCA). Như vậy, tài liệu chứng cứ trong hồ sơ còn nhiều điểm mâu thuẫn, chưa rõ ràng; tài liệu do Tổng cục cảnh sát Bộ Công an cung cấp thể hiện có những dấu hiệu trái pháp luật như: Không có cơ quan bán tàu, Tổng giám đốc công ty TNHH KAFA chưa thừa nhận chữ ký trong Hợp đồng mua bán tàu Shantar là của mình. Trong vụ án này cần phải có ý kiến kết luận của cơ quan điều tra mới có đủ căn cứ kết luận có hay không sự kiện bảo hiểm? từ đó mới xác định được trách nhiệm bảo hiểm của Công ty cổ phần bảo hiểm Nhà Rồng (Bảo Long). Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm buộc Công ty cổ phần bảo hiểm Nhà Rồng (Bảo Long) phải bồi thường cho Công ty cổ phần thương mại Duy Linh và hoàn trả lại phí bảo yểm với tổng số tiền là 7.229.025.000 đồng là chưa đủ căn cứ vững chắc. Vì vậy, cần hủy bản án phúc thẩm và bản án sơ thẩm, giao hồ sơ vụ án cho Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại theo quy định của pháp luật. Khi thụ lý lại vụ án, Tòa án cấp sơ thẩm cần thông báo cho Tổng cục cảnh sát Bộ Công an biết việc Tòa án đã thụ lý lại vụ án để xét xử theo thủ tục chung nếu Cơ quan cảnh sát điều tra Bộ Công an khởi tố vụ án hình sự thì áp dụng khoản 4 Điều 189 Bộ luật tố tụng dân sự tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án kinh doanh, thương mại với lý do "cần đợi kết quả giải quyết vụ án khác có liên quan hoặc sự việc được phẩm luật quy định là phải do cơ quan tổ chức khác giải quyết trước mới giải quyết được vụ án" cho đến khi có kết luận của Cơ quan có sát điều tra. Bởi các lẽ trên, căn cứ vào khoản 3 Điều 291, khoản 3 Điều 297, khoản 2, 3 Điều 299 của Bộ luật tố tụng dân sự, QUYẾT ĐỊNH Hủy bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm số 12/2009/KDTM-PT ngày 19/01/2009 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội và bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số 13/2008/KDTMST ngày 07/5/2008 của Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật Bài 3: Nhận xét của anh, chị về: - Quan hệ pháp luật về nội dung trong vụ án - Thành phần, tư cách đương sự trong vụ án - Chứng cứ và sử dụng chứng cứ trong vụ án Quyết định giám đốc thẩm về vụ án "tranh chấp hợp đồng quyền sử dụng đất" Ngày 18 tháng 12 năm 2009, Tòa án nhân dân tối cao mở phiên tòa tại trụ sở để xét xử giám đốc thẩm vụ án kinh doanh thương mại “tranh chấp hợp đồng cam kết chuyển nhượng quyền sử dụng đất” giữa các đương sự: - Nguyên đơn: Công ty cổ phần Xây dựng và Dịch vụ Thương mại Vạn Niên; có trụ sở tại số 166, Nguyễn Thái Học, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An; Đại diện theo pháp luật của công ty là ông Chu Đức Long, chức vụ: Tổng giám đốc; ủy quyền cho bà Phạm Thu Hằng là Luật sư Văn phòng Luật sư Tôn Nữ Thu Hà và Cộng sự làm đại diện. - Bị đơn: Công ty Cổ phần Quan hệ quốc tế - Đầu tư sản xuất (viết tắt là công ty CIRI); có trụ sở tại số 508, đường Trường Chinh, phường Ngã Tư Sở, quận Đống Đa, thành phố Hà Nội; Đại diện theo pháp luật của Công ty là ông Phạm Thành Công, chức vụ Giám đốc; ủy quyền cho bà Lê Thúy Hạnh chức vụ Phó Giám Đốc Công ty làm đại diện. NHẬN THẤY Theo đơn khởi kiện đề ngày 20/11/2007 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn trình bày: Ngày 12/10/2005, Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội ra Quyết định số 6890/QĐ-UB phê duyệt kết quả đấu giá quyền sử dụng đất đợt 5 ô đất D13 khu đô thị mới Cầu Giấy, phường Dịch Vọng, quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội do Ủy ban nhân dân quận Cầu Giấy tổ chức vào ngày 29/9/2005, trong đó có khu đất xây dựng nhà chung cư cao tầng với diện tích 7.236m2; tổng số tiền phải nộp là 65.124.000.000 đồng; đơn vị trúng thầu là Công ty Cổ phần Quan hệ Quốc tế - Đầu tư sản xuất (viết tắt là Công ty CIRY). Ngày 10/11/2006, Công ty CIRI (bên A) đã ký “Hợp đồng cam kết chuyển nhượng quyền sử dụng đất ” số 458/HĐCNQSDĐ với Công ty Cổ phần xây dựng và dịch vụ thương mại Vạn Niên (bên B – viết tắt là Công ty Vạn Niên), theo đó: - Công ty CIRI cam kết chuyển nhượng cho công ty Vạn Niên lô C, ô D13, diện tích 7,236m2 với số tiền là 89.002.800.000 đồng; - Trong thời hạn không quá 10 ngày (ngày làm việc) kể từ ngày ký hợp đồng này được ký kết, Công ty Vạn Niên phải chuyển 65.124.000.000 đồng vào kho bạc Nhà nước quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội để công ty CIRI hoàn tất các thủ tục để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; - Trong thời hạn 5 ngày kể từ ngày công ty CIRI được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, hai bên sẽ ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất có xác nhận của phòng công chứng; - Trong trường hợp công ty CIRI không thực hiện đúng, đầy đủ các điều khoản đã quy định trong hợp đồng này, ngoài việc phải trả lại cho công ty Vạn Niên khoản tiền mà công ty Vạn Niên đã thanh toán cho công ty CIRI và các cơ quan nhà nước có liên quan, công ty CIRI sẽ phải chịu phạt vi phạm thỏa thuận bằng 10% giá trị của Hợp đồng căn cứ vào mức giá do hai bên thỏa thuận chuyển nhượng tại hợp đồng này. Ngày 4/12/2006 Công ty Vạn Niên đã chuyển cho Ban quản lý dự án - Ủy ban nhân dâ quận Cầu Giấy (qua tài khoản kho bạc quận Cầu Giấy) số tiền 65.124.000 đồng, để Công ty CIRI có đủ điều kiện xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với lô đất mà hai bên đã cam kết chuyển nhượng. Từ ngày nộp đủ tiền sử dụng đất theo đúng giá đất đã phê duyệt (ngày 04/12/2006), công ty CIRI đã không khẩn trương tiến hành các thủ tục để được bàn giao đất, trong khi Công ty CIRI có đầy đủ điều kiện để xin cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Việc làm chậm trễ này của Công ty CIRI đã vi phạm vào điểm 4.2.2 khoản 2 Điều 4 của “Hợp đồng cam kết chuyển nhượng quyền sử dụng đất”: “Trong thời hạn tối đa không quá 05 ngày kể từ ngày bên A nhận được thông báo về việc VPLS (Văn phòng luật sư) đã thực hiện chuyển khoản số tiền được quy định tại Điều 4.2.1 của Hợp đồng này vào kho bạc Nhà nước quận Cầu Giấy, Bên A có trách nhiệm hoàn tất các thủ tục còn lại để thực hiện việc xin cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất…”, ảnh hưởng rất lớn đền quyền và lợi ích hợp pháp của công ty Vạn Niên. Do vậy, ngày 20/11/2007, Công ty Vạn Niên có đơn khởi kiện tại Tòa án nhân dân quận Đống Đa, thành phố Hà Nội, yêu cầu buộc Công ty CIRI phải thực hiện đúng tiến độ thực hiện cam kết theo quy định tại “Hợp đồng cam kết chuyển nhượng quyền sử dụng đất” số 485/HĐCNQSDĐ ngày 11/10/2006. Bị đơn là Công ty CIRI trình bày: Công ty CIRI thừa nhận có ký kết Hợp đồng cam kết chuyển nhượng quyền sử dụng đất số 485/HĐCNQSDĐ ngày 11/10/2006 với Công ty Vạn Niên và Công ty Vạn Niên đã chuyển cho Ban quản lý dự án Ủy ban nhân dân quận Cầu Giấy 65.124.000.000 đồng để Công ty CIRI có đủ điều kiện xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với lô đất C/D13. Công ty CIRI đã nhận được Quyết định số 3206/QĐ-UBND ngày 15/8/2007 của Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội về thu hồi 7.220,9m2 đất tại lô C/D13 khu đô thị mới Cầu Giấy, giao cho công ty CIRI để xây dựng nhà ở chung cư và cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho công ty. Căn cứ vào Hợp đồng cam kết chuyển nhượng quyền sử dụng đất số 485/HĐCNQSDĐ ngày 11/10/2006 Căn cứ vào Hợp đồng cam kết chuyển nhượng quyền sử dụng đất số 485/HĐCNQSDĐ ngày 11/10/2006, thì sau khi công ty CIRI nhận được giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với lô đất nói trên, Công ty CIRI mới thực hiện các bước tiếp theo của hợp đồng. Tuy nhiên, tại thời điểm Công ty Vạn Niên khời kiện Công ty CIRI, Công ty CIRI vẫn chưa nhận được giấy chứng nhận quyền sở dụng đất (Tại Công văn 149/CIRI ngày 11/8/2009 của Công ty CIRI gửi Chánh án Tòa án nhân dân tối cao kèm theo bản photo (không có công chứng), Công văn số 444/STNMT- ĐKTK ngày 17/9/2008 của Sở Tài nguyên Môi trường thành phố Hà Nội thể hiện công ty CIRI nhận được giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vào ngày 18/02/2008). Vì vậy, Công ty CIRI chưa vi phạm “Hợp đồng cam kết chuyển nhượng quyền sử dụng đất” số 485/HĐCNQSDĐ ngày 11/10/2006. Việc được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chậm trễ là lý do khách quan, không do lỗi của Công ty CIRI, Công ty Vạn Niên đã có nhiều đơn thư gửi đến các cơ quan chức năng gây khó khăn trong việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, làm ảnh hưởng đến uy tín của Công ty CIRI. Trước khi khởi kiện, Công ty Vạn Niên còn tự ý xây dựng trên lô đất C/D13 của Công ty CIRI. Vì vậy, Công ty CIRI đề nghị Công ty Vạn Niên phải phá dỡ công trình xây dựng nêu trên và rút đơn khời kiện để hai công ty đàm phán thương lượng việc ký kết hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, vì đén nay Công ty CIRI đã nhận được giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Tại bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số 03/2008/KDTM-ST ngày 13 và ngày 18/3/2008, Tòa án nhân dân quận Đống Đa đã quyết định: 1. Chấp nhận yêu cầu thực hiện đúng hợp đồng cam kết chuyển nhượng quyền sử dụng đất của Công ty Vạn Niên đối với Công ty CIRI. 2. Buộc Công ty CIRI thực hiện đúng Hợp đồng cam kết chuyển nhượng quyền sử dụng đất số 485/HĐCNQSDĐ ngày 10/11/2006. Giao cho Công ty Vạn Niên diện tích 7.220,9 m2 đất tại ô đất C/D13 khu đô thị mới Cầu Giấy, phường Dịch Vọng, quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội và giao giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho Công ty Vạn Niên. 3. Công ty Vạn Niên có trách nhiệm thanh toán cho Công ty CIRI số tiền chưa thanh toán theo hợp đồng cam kết chuyển nhượng quyền sử dụng đất số 485/HĐCNQSDĐ ngày 10/11/2006. 4. Công ty Vạn Niên được sử dụng diện tích 7.220,9 m2 đất tại ô đất C/D13 khu đô thị mới Cầu Giấy, phường Dịch Vọng, quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội và hoàn tất thủ tục theo quy định của pháp luật. 5. Về án phí: Công ty CIRI phải nộp 218.353.850 đồng án phí kinh doanh thương mạii. Ngày 27/3/2008, Công ty CIRI có đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm. Tại Quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm số 10/2008/QĐ-PT ngày 19/5/2008, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội đã ra Quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm số 10/2008/QĐ-PT quyết định: 1. Đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án kinh doanh thương mại về việc tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa Công ty Vạn Niên và Công ty CIRI. 2. Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 03/2008/KDTM-ST ngày 18/3/2008 của Tòa án nhân dân quận Đống Đa có hiệu lực pháp luật kể từ ngày ra quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm. Ngoài ra, Tòa án cấp phúc thẩm còn quyết định về án phí. Sau khi Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội ra quyết định đình chỉ vụ án, Công ty CIRI có nhiều đơn khiếu nại và xuất trình bệnh án của bà Lê Thúy Hạnh, là người đại diện hợp pháp của Công ty CIRI, có nội dung la bà Hạnh nhập viện vào ngày 19/5/2008 (la ngày Tòa án mở phien tòa phúc thẩm) với chuẩn đoán bị “hội chứng tiền đình”, ra viện ngày 24/5/2008. Ngày 18/8/2008, Văn phòng Chính phủ có công văn số 5407/VPCP-KNTC chuyển đơn khiếu nại của Công ty CIRI đến Tòa án nhân dân tối cao đề nghị xem xét lại vụ án. Tại Quyết định số 13/2008/KDTM-KN-KT ngày 29/12/2008, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đã kháng nghị Quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án kinh doanh, thương mại số 10/2008/QĐ-PT ngày 19/5/2008 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội; đề nghị Tòa kinh tế Tòa án nhân dân tối cao xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm theo hướng hủy Quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án nêu trên của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xét xử phúc thẩm lại theo quy định của pháp luật. Ngày 04/02/2009, Công ty Vạn Niên có đơn khiếu nại quyết định kháng nghị nêu trên của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao. Tại Quyết định giám đốc thẩm số 10/2009/KDTM-GĐT Tòa Kinh tế Tòa án nhân dân tối cao đã chấp nhận kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, quyết định hủy Quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án kinh doanh thương mại số 10/2008/QĐPT ngày 19/05/2008 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xét xử phúc thẩm lại theo quy định của pháp luật. Ngày 16/6/2009, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao có Quyết định số 18/QĐ-KNGĐT-V12 kháng nghị Quyết định Giám đốc thẩm nêu trên của Tòa Kinh tế Tòa án nhân dân tối cao, đề nghị Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm theo hướng Quyết định giám đốc thẩm số 10/2009/KDTM-GĐT ngày 22/4/2009 của Tòa Kinh tế Tòa án nhân dân tối cao, giữ nguyên Quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án kinh doanh, thương mại số 10/2008/QĐ-PT ngày 19/5/2008 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội, với nhận định tóm tắt như sau: Quyết định giám đốc thẩm số 10/2009/KDTM-GĐT ngày 22/4/2009 của Tòa Kinh tế Tòa án nhân dân tối cao là không có căn cứ, vì: 1. Đối tượng xem xét quyết định giám đốc thẩm số 10/2009/KDTM-GĐT ngày 22/04/2009 của Tòa Kinh tế Tòa án nhân dân tối cao là quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án kinh doanh thương mại số 10/2008/QĐ-PT ngày 19/05/2008 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội, Quyết định giám đốc thẩm cho rằng Quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm là không đúng nhưng không chỉ ra được những sai phạm, không viện dẫn được điều luật mà Tòa án cấp phúc thẩm vi phạm. Công ty CIRI đã biết được thời gian mở lại phiên tòa xét xử phúc thẩm vào hồi 8h30 ngày 19/05/2008 theo quyết định hoãn phiên tòa số 96/2008/QĐ-PT của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội, nhưng khi mở lại phiên tòa để xét xử phúc thẩm, nhưng khi mở lại phiên tòa để xét xử vào ngày 19/5/2008, thì bà Lê Thúy Hạnh – đại diện cho bị đơn vẫn vắng mặt. Vì vậy, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội ban hành quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án là thực hiện đúng theo quy định của pháp luật. 2. Tại quyết định giám đốc thẩm, trong phần nhận định có nội dung không liên quan đến Quyết định phúc thẩm số 10/2008/QĐ-T ngày 19/5/2008 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội, mà liên quan đến bản án sơ thẩm, trong khi đó bản án sơ thẩm số 03/2008/KDTM-ST ngày 13,18/03/2008 của Tòa án nhân dân quận Đống Đa không bị kháng nghị để hủy quyết định phúc thẩm số 10/2008/QĐ-PT ngày 19/05/2008 là không đúng quy định pháp luật. Tại phiên tòa giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao đề nghị Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao. XÉT THẤY Ngày 10/04/2008, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội thụ lý vụ án theo trình tự phúc thẩm. Ngày 28/04/2008, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội có Giấy triệu tập số 165 triệu tập đại diện công ty CIRI đến Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội để tham gia giải quyết vụ án vào ngày 07/05/2008. Ngày 05/05/2008, Công ty CIRI có Công văn số 103/CV xin hoãn buổi làm việc đến ngày 25/05/2008 do bà Lê Thúy Hạnh - Ủy viên Hội đồng quản trị, Phó giám đốc Công ty là người đại diện Công ty tham gia tố tụng giải quyết vụ án đi công tác không kịp về, nhưng ngày 07/05/2008, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội vẫn ra quyết định đưa vụ án ra xét xử vào ngày 13/05/2008. Ngày 12/05/2008, Công ty CIRI tiếp tục có đơn xin hoãn phiên toàn vì lý do bà Lê Thúy Hạnh –là người được giám đốc công ty ủy quyền tham gia giải quyết vụ án đang đi công tác, chưa kịp về để tham gia phiên tòa ngày 13/05/2008. Ngày 13/5/2008, do bà Lê Thúy Hạnh- đại diện công ty vắng mặt, nên Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội đã ra quyết định hoãn phiên tòa số 96/2008/QĐ-PT ngày 13/05/2008 và ấn định ngày xét xử tiếp theo là vào ngày 19/5/2008 (chỉ sau 6 ngày kể từ ngày ra quyết định hoãn phiên tòa và vẫn trong thời gian mà phía bị đơn xin hoãn). Ngày 17/05/2008, bà Hạnh có đơn xin hoãn phiên toàn với lý do mặc dù bà đã cố gắng thu xếp công việc để về sớm kịp dự phiên toàn ngày 19/05/2008 nhưng vì lý do sức khỏe không thể có mặt tại phiên tòa. Ngày 19/05/2008, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội đã ra quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án kinh doanh,thương mại số 10/2008/QĐ-PT vì bà Lê Thúy Hạnh đại diện công ty CIRI vắng mặt. Như vậy, ngay từ khi nhận được giấy triệu tập lần đầu tiên của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội yêu cầu công ty CIRI đến tham gia giải quyết vụ án vào ngày 07/05/2008, bà Lê Thúy Hạnh là người đại điện của Công ty CIRI (người kháng cáo) đã có đơn yêu cầu đề nghị được chuyển ngày làm việc vào ngày 23/05/2008 với lý do đi công tác xa không kịp về. Nhưng ngày 07/05/2008, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội vẫn quyết định đưa vụ án ra xét xử vào ngày 13/05/2008. Sau đó, công ty CIRI đã hai lần nữa có đơn xin hoãn phiên tòa đến ngày 23/05/2008, nhưng Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội vẫn quyết định đưa vụ án ra xét xử trong thời gian đương sự xin hoãn, trong khi thời gian xét xử phúc thẩm còn dài (khoản 1 Điều 258 Bộ luật tố tụng dân sự thì thời hạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm là 02 tháng kể từ ngày thụ lý vụ án, đối với vụ án có tính chất phức tập thì thời hạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm có thể kéo dài thêm nhưng không quá 01 tháng; khoản 2 Điều 258 Bộ luật tố tụng dân sự quy định trong thời hạn 01 tháng kể từ ngày có quyết định đưa vụ án ra xét xử; Tòa án phải mở phiên toàn phúc thẩm; khoản 1 Điều 208 Bộ luật tố tụng dân sự quy định thời hạn hoãn phiên tòa không quá 30 ngày kể từ ngày ra quyết định hoãn phiên tòa) và chưa có căn cứ nói rằng đương sự cố ý trây ỳ, hoặc gây khó khăn cho việc xét xử của Tòa án. Trên thực tế, sau khi Tòa án cấp phúc thẩm ra quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm, Công ty CIRI đã có đơn khiếu nại và xuất trình bệnh án của bà Lê Thúy Hạnh, là người đại diện hợp pháp của công ty CIRI, có nội dung bà Hạnh nhập viện vào ngày 19/05/2008 (là ngày Tòa án mở phiên tòa phúc thẩm) với chẩn đoán bị “hội chứng tiền đình”, ra viện ngày 24/05/2008. Như vậy, việc bà Hạnh trình bày xin hoãn phiên tòa vì lý do sức khỏe là có căn cứ, trong khi thời hạn xét xử phúc thẩm vẫn còn nhiều, bà Hạnh chỉ yêu cầu xin hoãn phiên tòa đến ngày 23/05/2008. Tòa án cấp phúc thẩm đã không xác minh để xem xét các điều kiện xin hoãn của công ty CIRI, cũng không có văn bản thể hiện là không chấp nhận yêu cầu chuyển ngày xét xử của công ty CIRI, nhưng vẫn đưa vụ án ra xét xử là không đúng pháp luật, để từ đó, ra quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm làm mất quyền kháng cáo của công ty CIRI. Mặt khác, tại Quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm số 10/2008/QĐ-PT, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội đã quyết định: đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án kinh doanh thương mại về việc tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa Công ty Vạn Niên và Công ty CIRI là không đúng. Vì, “Hợp đồng cam kết chuyển nhượng quyền sử dụng đất” số 458 ngày 11/10/2006 giữa công ty CIRI và Công ty Vạn Niên không phải là hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, mà chỉ là giao dịch dân sự có điều kiện, nhưng có nội dung trái pháp luật đã vi phạm Điều 62 Luật đất đai quy định về điều kiện để đất tham gia thị trường bất động sản, điểm e khoản 2 Điều 7 Luật kinh doanh bất động sản quy định về điều kiện đối với bất động sản đưa vào kinh doanh, điểm a khoản 8 Điều 2 Nghị định số 17/NĐ-CP ngày 27/01/2006 của Chính phủ quy định về việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất của các dự án đầu tư xây dựng kinh doanh nhà ở để bán hoặc cho thuê và Điều 5 Quyết định số 3206/Q Đ-UBND ngày 15/8/2007 của Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội về việc thu hồi 7.220,9m2 đất tại lô C/D13 khu đô thị mới Cầu Giấy, giao cho công ty CIRI để xây dựng nhà ở chung cư (căn cứ vào các quy định nêu trên thì công ty CIRI không được phép chuyển nhượng quyền sử dụng lô đất đã được UBND thành phố Hà Nội giao để thực hiện dự án đầu tư xây dựng nhà chung cư khi chưa hoàn thành việc đầu tư xây dựng đồng bộ hạ tầng theo dự án được xét duyệt hoặc theo dự án thành phần của dự án đầu tư đã được xét duyệt), xâm phạm đến lợi ích của Nhà nươc nên vô hiệu ngay từ khi giao kết. Tòa án các cấp phải xem xét giải quyết đối với hợp đồng vô hiệu và giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự thì mới đảm bảo đúng quy định của pháp luật. Vì vậy, Quyết định giám đốc thẩm của Tòa Kinh tế Tòa án nhân dân tối cao hủy Quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội, giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xét xử phúc thẩm lại theo quy định của pháp luật là có căn cứ. Vì lẽ trên, căn cứ vào khoản 3 Điều 291, khoản 1 Điều 297 Bộ luật tố tụng dân sự; QUYẾT ĐỊNH - Không chấp nhận Kháng nghị số 18/QĐ-KNG ĐT-V12 ngày 16/6/2009 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao đối với Quyết định giám đốc thẩm số 10/2009/KDTM-GĐT ngày 22/4/2009 của Tòa Kinh tế Tòa án nhân dân tối cao về vụ án kinh doanh thương mại tranh chấp hợp đồng cam kết chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa Công ty cổ phần Xây dựng và Dịch vụ Thương Mại Vạn Niên và Công ty cổ phần Quan hệ quốc tế - Đầu tư sản xuất (viết tắt là công ty CIRI); - Giữ nguyên Quyết định giám đốc thẩm số 10/2009/KDTM-GĐT ngày 22/4/2009 của Tòa Kinh tế Tòa án nhân dân tối cao. Bài 4: Nhận xét của anh, chị về: - Quan hệ pháp luật về nội dung trong vụ án - Thành phần, tư cách đương sự trong vụ án - Chứng cứ và sử dụng chứng cứ trong vụ án Quyết định giám đốc thẩm số 12/2009/KDTM-GĐT ngày 14/12/2009 về vụ án tranh chấp hợp đồng hợp tác đầu tư Ngày 14/12/2009 Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã mở phiên tòa giám đốc thẩm để xét xử vụ án kinh doanh thương mại "Tranh chấp về hợp đồng hợp tác đầu tư" giữa các đương sự: Nguyên đơn: Công ty cổ phần cơ khí xây dựng Long An; có trụ sở tại km 1934, quốc lộ 1A, thị trấn Bến Lức, huyện Bến Lức, tỉnh Long An; do ông Nguyễn Văn Liên – Chủ tịch Hội đồng quản trị Công ty đại diện; Đồng bị đơn: - Công ty trách nhiệm hữu hạn thương mại xuất nhập khẩu Tân Lợi Lợi; có trụ sở tại số 439 Trần Xuân Soạn, phường Tân Kiểng, quận 7, thành phố Hồ Chí Minh; do bà Huỳnh Thị Kim Anh đại diện theo Giấy ủy quyền ngày 05/7/2007 của Giám đốc Công ty; - Công ty cổ phần tập đoàn Quốc tế Năm Sao; có trụ sở tại 385 Trần Xuân Soạn, phường Tân Kiểng, quận 7, thành phố Hồ Chí Minh; do ông Trần Mạnh Tưởng đại diện theo Giấy ủy quyền số 17-08/QĐUQ ngày 25/6/2008 của Tổng Giám đốc Công ty; Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: - Uỷ ban nhân dân tỉnh Long An - Công ty cổ phần sản xuất, dịch vụ, thương mại, xây dựng Thành Tài; có trụ sở tại 217 Đồng Đen, phường 11, quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh. NHẬN THẤY: Theo đơn khởi kiện đề ngày 07/4/2007 của Công ty cổ phần cơ khí xây dựng Long An (sau đây gọi tắt là Công ty LICO) đối với Công ty trách nhiệm hữu hạn thương mại xuất nhập khẩu Tân Lợi Lợi (sau đây gọi tắt là Công ty Tân Lợi Lợi) và đơn khởi kiện bổ sung đề ngày 22/10/2007 của Công ty LICO đối với Công ty cổ phần tập đoàn quốc tế Năm Sao (sau đây gọi tắt là Công ty Năm Sao), cùng các tài liệu, chứng cứ do nguyên đơn xuất trình thì: 1. Ngày 31/12/2003, Uỷ ban nhân dân tỉnh Long An có Công văn số 5667/CV-UB giao cho Công ty cơ khí xây dựng Long An (nay là Công ty cổ phần cơ khí xây dựng Long An) làm chủ đầu tư xây dựng hạ tầng công nghiệp tại Cụm công nghiệp Long Định – Long Cang mở rộng tại xã Long Định và xã Long Cang huyện Cần Đước với tổng diện tích là 50 ha; sau khi đầu tư xây dựng hạ tầng xong, Công ty LICO giao lại cho Uỷ ban nhân dân tỉnh Long An để Uỷ ban nhân dân tỉnh Long An cho các doanh nghiệp thuê đất. 2. Ngày 22/4/2005, Công ty LICO ký Hợp đồng hợp tác đầu tư số 59/HTĐT-05 với Công ty TNHH dịch vụ-thương mại-vận tải Tân Lợi Lợi (nay là Công ty TNHH thương mại xuất nhập khẩu Tân Lợi Lợi) với nội dung (tóm tắt): Hai bên hợp tác đầu tư xây dựng hạ tầng Cụm công nghiệp 50 ha do Công ty LICO làm Chủ đầu tư; mỗi bên góp vốn 50% của giá trị hợp đồng; giá trị hợp đồng tạm tính là 77 tỷ đồng, bao gồm: tổng giá trị bồi hoàn thực tế (căn cứ vào các quyết định của UBND huyện Cần Đước về việc phê duyệt phương án bồi hoàn thiệt hại thu hồi đất xây dựng Cụm công nghiệp Long Định-Long Cang…”; tổng giá trị san lấp và các chi phí khác (căn cứ vào quyết toán thực tế, báo cáo và các chứng từ hợp lệ) (Điều 1, 2, 4 Hợp đồng); - Về tiền bồi hoàn: Mỗi bên gửi 4,85 tỷ đồng vào Kho bạc Nhà nước huyện Cần Đước để chi trả tiền bồi hoàn đợt 1. Khi có quyết định chi trả tiền bồi hoàn cho các đợt tiếp theo thì các bên tiếp tục gửi tiền theo tỷ lệ góp vốn vào Kho bạc Nhà nước. Sau khi chi trả xong tiền bồi hoàn thì tiếp tục chi trả tiền san lấp mặt bằng và các chi phí phát sinh khác… cho việc đầu tư dự án… (Điều 6); trong quá trình bồi hoàn, nếu bên nào không góp đủ vốn theo tỷ lệ 50/50 thì bên còn lại được ưu tiên tăng vốn góp của mình và được hưởng lợi nhuận theo tỷ lệ tương ứng…; - Công ty LICO trực tiếp điều hành dự án…; sử dụng nguồn tiền góp vốn…để thanh toán các chi phí hợp lý phục vụ dự án; chia lợi nhuận theo tỷ lệ vốn góp; Công ty LICO có trách nhiệm bảo đảm số tiền góp vốn của mình và chỉ sử dụng cho mục tiêu đầu tư…thực hiện dự án, cung cấp kịp thời cho Công ty Tân Lợi Lợi những thông tin có liên quan việc sử dụng vốn của dự án; bảo đảm và hoàn tất các thủ tục pháp lý để Công ty Tân Lợi Lợi có được Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với 25 ha hoặc đối với diện tích đất tương ứng với tỷ lệ mà Công ty Tân Lợi Lợi đã góp vốn của Dự án ngay khi Công ty LICO nhận được Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Trong trường hợp Công ty Tân Lợi Lợi không được phép nhận chuyển nhượng phần diện tích đất đã bồi hoàn trong dự án đã đầu tư, thì Công ty LICO phải hoàn trả lại cho Công ty Tân Lợi Lợi toàn bộ số tiền mà Công ty Tân Lợi Lợi đã đầu tư, cùng với giá trị lợi nhuận tăng thêm mà đúng ra Công ty Tân Lợi Lợi được hưởng đối với phần đất đã được đầu tư (Điều 8 Hợp đồng); - Công ty Tân Lợi Lợi có nghĩa vụ: góp đủ vốn theo đúng tỷ lệ quy định trong hợp đồng và tiến độ thực hiện dự án; cùng phân chia thuận lợi và khó khăn trong khi thực hiện hợp đồng (Điều 8 Hợp đồng); - Nguyên tắc xác định lợi nhuận: Sau khi dự án 50 ha đã đầu tư xong và tất cả các khoản chi phí đã được hạch toán thì lợi nhuận được tính như sau: Lợi nhuận bằng (=) tổng doanh thu trừ (-) tất cả chi phí thực hiện dự án 50 ha (Điều 9 Hợp đồng); Nguyên tắc phân chia lợi nhuận theo tỷ lệ 1/1. Hình thức chia là mỗi bên nhận 50% diện tích đất hoặc theo tỷ lệ góp vốn ban đầu trên diện tích đất của dự án đã đầu tư (Điều 9 Hợp đồng); Việc thanh lý hợp đồng theo các trường hợp sau: Hai bên gặp bất khả kháng (thiên tai, chiến tranh, thay đổi chính sách của Nhà nước đối với dự án); một trong hai bên xin huỷ hợp đồng và được bên kia đồng ý; một trong hai bên vi phạm nghiêm trọng các điều khoản của hợp đồng, gây thiệt hại nghiêm trọng đến lợi ích của bên kia… (Điều 10 Hợp đồng); - Để hoàn thành nhiệm vụ đầu tư Cụm công nghiệp, hai bên sẽ thành lập 01 Ban quản lý dự án gồm 01 Trưởng ban (do Công ty LICO đề cử) và các thành viên Công ty Tân Lợi Lợi được cử người tham gia vào Ban quản lý dự án theo tỷ lệ góp vốn (Điều 5 Hợp đồng); Thực hiện hợp đồng, Công ty Tân Lợi Lợi đã góp được 16,95 tỷ đồng, trong đó lần đầu là ngày 13/5/2005 góp 4,7 tỷ đồng và lần góp cuối cùng là ngày 24/01/2006 góp 2,25 tỷ đồng. So với giá trị hợp đồng, tỷ lệ góp vốn của Công ty Tân Lợi Lợi là 22% (16,95 tỷ đồng/77 tỷ đồng). Công ty LICO có nhiều văn bản yêu cầu Công ty Tân Lợi Lợi tiếp tục góp vốn nhưng Công ty Tân Lợi Lợi không góp và có công văn không hợp tác với Công ty LICO. Do đó, Công ty LICO một mình tiếp tục thực hiện hợp đồng này. Ngày 09/02/2007, Uỷ ban nhân dân huyện Cần Đước xác nhận Công ty LICO đã bồi thường giải phóng mặt bằng xong và ngày 09/3/2007 Công ty LICO đã cùng tư vấn giám sát, tư vấn thiết kế lập và ký Biên bản nghiệm thu hoàn thành phần san lấp 50 ha xong. Công ty LICO đã thực chi cho Dự án là 61.339.774.566 đồng. Ngoài ra, còn có các khoản dự kiến chi phí khác gồm: Chi tái định cư 11.350.000.000 đồng; chi thưởng cho 34 hộ di dời sớm 112.370.000 đồng, chi tiền hỗ trợ tạm cư của năm 2008 là166.200.000 đồng. Vì vậy, Công ty LICO có đơn khởi kiện Công ty Tân Lợi Lợi với yêu cầu huỷ Hợp đồng hợp tác đầu tư số 59/HTĐT - 05 ngày 22/4/2005, vì Công ty Tân Lợi Lợi đã vi phạm hợp đồng do không góp tiếp vốn để thực hiện dự án; Công ty LICO đồng ý hoàn trả lại cho Công ty Tân Lợi Lợi 16,95 tỷ đồng đã góp. 3- Ngày 07/02/2006, Công ty LICO ký Hợp đồng hợp tác đầu tư số 015 K06HT với Công ty cổ phần quốc tế Năm Sao (nay là Công ty cổ phần tập đoàn quốc tế Năm Sao) với những nội dung chính (tóm tắt) sau đây: - Hai bên hợp tác đầu tư “Dự án đền bù, giải toả và san lấp mặt bằng Cụm công nghiệp Long Định, Long Cang huyện Cần Đước” với diện tích khoảng 25 ha trong tổng diện tích 50 ha do Công ty cơ khí xây dựng Long An làm chủ đầu tư; giá trị của hợp đồng tạm tính là 38,5 tỷ đồng (tương đương 50% tổng giá trị dự toán của dự án là 77 tỷ đồng). Giá trị hợp đồng này bao gồm: tiền bồi hoàn thực tế, giá trị san lấp và các chi phí khác (căn cứ vào quyết toán thực tế, báo cáo và các chứng từ hợp lệ); - Tỷ lệ góp vốn: Mỗi bên góp 50% của giá trị hợp đồng (tỷ lệ này có thể thay đổi); - Công ty LICO có nghĩa vụ bảo đảm số tiền góp vốn của Công ty Năm Sao chỉ sử dụng cho mục tiêu đầu tư…; phân chia lợi nhuận cho Công ty Năm Sao sau khi kết thúc dự án; - Sau khi được sự thống nhất của hai bên bằng văn bản, Công ty LICO được quyền đại diện cho hai bên ký tất cả các văn bản liên quan đến việc triển khai thực hiện dự án…, chuyển giao phần mặt bằng trong nội dung hợp tác cho đơn vị khác. Nếu Công ty LICO tự ý thực hiện các việc trên khi chưa có sự đồng ý của Công ty Năm Sao thì Công ty LICO sẽ chịu trách nhiệm trước Công ty Năm Sao và trước pháp luật. Các công việc và chi phí do Công ty LICO thực hiện trước khi ký hợp đồng hợp tác vẫn có giá trị và được Công ty Năm Sao thừa nhận. - Công ty Năm Sao có nghĩa vụ góp vốn đủ theo nội dung hợp đồng và tiến độ thực hiện dự án; được cử người tham gia Ban quản lý dự án; được chia lợi nhuận theo tỷ lệ góp vốn… - Việc chia lợi nhuận được thực hiện khi kết thúc dự án. Nguyên tắc xác định lợi nhuận: Tổng doanh thu trừ đi tất cả chi phí thực hiện tính cho 50% giá trị dự án (Các chi phí để thực hiện dự án sẽ được lập thành một bản báo cáo để hai bên xem xét); Nguyên tắc phân chia kết quả hợp tác: Căn cứ vào bảng báo cáo tất cả chi phí đầu tư dự án, hai bên sẽ xác định tổng nguồn vốn góp của mỗi bên. Trong trường hợp, nếu Công ty Năm Sao đề nghị được chia lợi nhuận bằng sản phẩm của dự án thì Công ty LICO có trách nhiệm liên hệ với các ngành chức năng của tỉnh Long An để chuyển giao quyền sử dụng đất cho Công ty Năm Sao tương ứng với lợi nhuận mà Công ty Năm Sao được chia; Khi xác định được phần vốn góp của mỗi bên và đã thực hiện các nghĩa vụ Nhà nước quy định, hai bên sẽ phân chia theo tỷ lệ góp vốn…; - Thanh lý hợp đồng khi:… hai bên tham gia gặp các trường hợp bất khả kháng như thua lỗ không còn khả năng thực hiện tiếp mục tiêu dự án hay gặp thiên tai, chiến tranh, Nhà nước thay đổi chính sách đối với dự án; Dự án bị cơ quan có thẩm quyền thu hồi chủ trương đầu tư; Một trong các bên xin huỷ hợp đồng hoặc vi phạm nghiêm trọng các điều khoản trong hợp đồng này dẫn đến vi phạm nghiêm trọng lợi ích của các bên… - Hai bên sẽ thành lập 01 Ban quản lý dự án với thành phần theo tỷ lệ góp vốn của mỗi bên để theo dõi, quản lý dự án (Trưởng ban Ban quản lý dự án là người của Công ty LICO); Thực hiện hợp đồng, ngày 09/02/2006 Công ty Năm Sao đã góp 7,55 tỷ đồng; sau đó ngừng việc góp vốn, mặc dù Công ty LICO đã có nhiều văn bản yêu cầu tiếp tục góp vốn. Còn Công ty Năm Sao cũng có nhiều văn bản thể hiện việc không tiếp tục thực hiện Hợp đồng số 015K06HT ngày 07/02/2006. Công ty LICO cho rằng Công ty Năm Sao đã vi phạm nghiêm trọng hợp đồng nên ngày 22/10/2007 đã có đơn khởi kiện với yêu cầu huỷ hợp đồng hợp tác đầu tư nêu trên và chấp nhận trả lại cho Công ty Năm Sao 7,55 tỷ đồng đã góp. Tại Bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số 02/2008/KDTM-ST ngày 04/9/2008, Toà án nhân dân tỉnh Long An đã quyết định: “- Chấp nhận một phần yêu cầu của Công ty cổ phần cơ khí xây dựng Long An về việc xin huỷ Hợp đồng hợp tác đầu tư số 59/HTĐT05 ngày 22/4/2005 và số 015/K06HT ngày 07/02/2006 giữa Công ty cơ khí Long An và Công ty trách nhiệm hữu hạn thương mại dịch vụ vận tải Tân Lợi Lợi và với Công ty cổ phần quốc tế Năm Sao. Huỷ các nội dung thoả thuận vô hiệu giữa Công ty cơ khí Long An với Công ty trách nhiệm hữu hạn thương mại dịch vụ vận tải Tân Lợi Lợi và với Công ty cổ phần tập đoàn quốc tế Năm Sao về việc chia lợi nhuận bằng diện tích đất cụ thể của dự án 50 ha, cụm công nghiệp Long Định, Long Cang, huyện Cần Đước, tỉnh Long An ghi tại Điều 8 của Hợp đồng số 59/HTĐT05 ngày 22/4/2005 và Điều 7 của Hợp đồng số 015/K06HT ngày 07/02/2006, vì trái với nội dung Công văn số 5667/CV-UB ngày 31/12/2003 của Uỷ ban nhân dân tỉnh Long An khi giao đất cho Công ty cơ khí Long An làm chủ đầu tư dự án và trái với Luật Đất đai năm 2003 và Bộ luật dân sự năm 2005. Xác định Công ty cổ phần cơ khí xây dựng Long An vẫn là chủ đầu tư xây dựng hạ tầng công nghiệp cụm Long Định-Long Cang, huyện Cần Đước, tỉnh Long An mở rộng theo Công văn số 5667/CV-UB ngày 31/12/2003 của Uỷ ban nhân dân tỉnh Long An, buộc Công ty trách nhiệm hữu hạn thương mại xuất nhập khẩu Tân Lợi Lợi và Công ty cổ phần tập đoàn quốc tế Năm Sao khôi phục lại tình trạng ban đầu và giao trả mặt bằng cho chủ đầu tư, trừ phần diện tích dự án Uỷ ban nhân dân tỉnh Long An đã giao cho Công ty trách nhiệm hữu hạn Thành Tài theo Quyết định số 1173/QĐ-UBND ngày 27/4/2007 của Uỷ ban nhân dân tỉnh Long An. Buộc Công ty cổ phần cơ khí xây dựng Long An phải hoàn trả phần vốn góp cho Công ty trách nhiệm hữu hạn thương mại xuất nhập khẩu Tân Lợi Lợi và Công ty cổ phần tập đoàn quốc tế Năm Sao và khoản lợi nhuận trước thuế được hưởng theo thoả thuận ghi trong hợp đồng, cụ thể: + Trả cho Công ty trách nhiệm hữu hạn thương mại xuất nhập khẩu Tân Lợi Lợi số tiền 48.736.508.121 đồng; + Trả cho Công ty cổ phần tập đoàn quốc tế Năm Sao số tiền 21.708.002.297 đồng…” Ngày 12/9/2008, Công ty Tân Lợi Lợi có đơn kháng cáo toàn bộ đối với bản án sơ thẩm. Ngày 15/9/2008, Công ty Năm Sao có đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm. Ngày 15/9/2008, Công ty LICO có đơn kháng cáo với nội dung không đồng ý với bản án sơ thẩm về việc chia tỷ lệ lợi nhuận cho Công ty Tân Lợi Lợi và Công ty Năm Sao. Ngày 26/9/2008, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Long An có Quyết định số 103/QĐ.KNPT.P5, kháng nghị bản án sơ thẩm theo thủ tục phúc thẩm theo hướng xác định các bên tham gia ký kết các hợp đồng hợp tác đầu tư đều có lỗi, dẫn đến các hợp đồng này bị vô hiệu cho nên phải cùng chịu thiệt hại khi khôi phục lại tình trạng ban đầu, đồng thời bản án sơ thẩm đã có sự mâu thuẫn giữa phần nhận định và quyết định. Tại phiên toà phúc thẩm ngày 28/11/2008, đại diện Viện phúc thẩm Viện kiểm sát nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh đã rút toàn bộ kháng nghị số 103/ QĐ.KNPT.P5 ngày 26/9/2008 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Long An. Tại Bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm số 159/2008/KDTM-PT ngày 28/11/2008, Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định (tóm tắt): - Giữ nguyên phần quyết định của bản án sơ thẩm huỷ phần thoả thuận vô hiệu về việc chia lợi nhuận bằng đất theo tỷ lệ vốn góp tại Hợp đồng hợp tác đầu tư số 59/HĐHTĐT-05 ngày 22/4/2005 giữa Công ty cơ khí Long An và Công ty trách nhiệm hữu hạn thương mại dịch vụ vận tải Tân Lợi Lợi, và tại Hợp đồng hợp tác đầu tư số 015/K06HT ngày 07/02/2006 giữa Công ty cổ phần cơ khí xây dựng Long An với Công ty cổ phần quốc tế Năm Sao. - Giữ nguyên phần quyết định của bản án sơ thẩm về chi phí định giá. - Sửa các phần quyết định khác của bản án sơ thẩm: + Công nhận các thoả thuận khác của Công ty cổ phần cơ khí xây dựng Long An, Công ty trách nhiệm hữu hạn thương mại xuất nhập khẩu Tân Lợi Lợi và của Công ty cổ phần quốc tế Năm Sao tại Hợp đồng hợp tác đầu tư số 59/HĐHTĐT-05 ngày 22/4/2005 và Hợp đồng hợp tác đầu tư số 015/K06HT ngày 07/02/2006. + Công nhận ba Công ty cổ phần cơ khí xây dựng Long An, Công ty trách nhiệm hữu hạn thương mại xuất nhập khẩu Tân Lợi Lợi, Công ty cổ phần quốc tế Năm Sao cùng hợp tác đầu tư dự án cụm công nghiệp Long Định-Long Cang mở rộng với diện tích thực tế là 49,86750 ha. + Công nhận thoả thuận chia tách dự án theo tỷ lệ góp vốn theo tinh thần Công văn số 213 ngày 01/11/2006 của Công ty cổ phần cơ khí xây dựng Long An và Công văn số 5957 ngày 04/12/2006 của Uỷ ban nhân dân tỉnh Long An. Cụ thể: - Công ty cổ phần cơ khí xây dựng Long An tiếp tục đầu tư theo tỷ lệ 24,012% dự án Cụm công nghiệp Long Định-Long Cang… (Công ty cổ phần cơ khí xây dựng Long An đã ký hợp đồng đền bù với Công ty cổ phần Thành Tài, được hưởng lợi nhuận từ Công ty Thành Tài). - Công ty cổ phần quốc tế Năm Sao tiếp tục đầu tư theo tỷ lệ 25,992% dự án Cụm công nghiệp Long Định-Long Cang… Công ty cổ phần quốc tế Năm Sao được quyền liên hệ với Uỷ ban nhân dân tỉnh Long An để làm thủ tục giao đất hoặc thuê đất theo quy định của Luật Đất đai năm 2003 theo vị trí đã phân chia trước khi khởi kiện ra Toà án. Sau khi được Uỷ ban nhân dân tỉnh Long An ra quyết định giao đất hoặc thuê đất, Công ty cổ phần quốc tế Năm Sao còn phải thanh toán cho Công ty cổ phần cơ khí xây dựng Long An số tiền vốn góp là 7.827.322.151 đồng và tiền lãi là 1.906.735.676 đồng. Tổng cộng là 9.734.057.827 đồng. - Công ty trách nhiệm hữu hạn thương mại xuất nhập khẩu Tân Lợi Lợi tiếp tục đầu tư theo tỷ lệ 49,996% dự án Cụm công nghiệp Long Định-Long Cang… Công ty trách nhiệm hữu hạn thương mại xuất nhập khẩu Tân Lợi Lợi được quyền liên hệ với Uỷ ban nhân dân tỉnh Long An để làm thủ tục giao đất theo quy định của Luật Đất đai năm 2003 theo vị trí đã được phân chia trước khi khởi kiện ra Toà án. Sau khi được Uỷ ban nhân dân tỉnh Long An ra quyết định giao đất hoặc thuê đất, Công ty trách nhiệm hữu hạn thương mại xuất nhập khẩu Tân Lợi Lợi còn phải thanh toán cho Công ty cổ phần cơ khí xây dựng Long An số tiền vốn góp là 12.628.508.705 đồng và tiền lãi là 3.076.304.720 đồng. Tổng cộng là 15.704.813.425 đồng… Sau khi xét xử phúc thẩm, Công ty cổ phần cơ khí xây dựng Long An có nhiều đơn đề nghị xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm đối với Bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm số 159/2008/KDTM-PT ngày 28/11/2008 của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh. Tại Quyết định số 23/QĐ-KNGĐT-V12 ngày 20/7/2009, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao kháng nghị Bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm số 159/2008/KDTM-PT ngày 28/11/2008 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh và đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao xét xử theo trình tự giám đốc thẩm theo hướng hủy Bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm số 159/2008/KDTM-PT ngày 28/11/2008 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh và Bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số 02/2008/KDTM-ST ngày 04/9/2008 của Toà án nhân dân tỉnh Long An; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án cấp sơ thẩm để giải quyết lại từ trình tự sơ thẩm, bảo đảm đúng quy định của pháp luật với nhận định như sau: “Về tố tụng: Việc Tòa án cấp sơ thẩm không đưa Uỷ ban nhân dân tỉnh Long An, Công ty TNHH Thành Tài vào tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là đúng quy định của pháp luật, bởi tranh chấp giữa các đương sự trong vụ kiện là tranh chấp phát sinh trong việc ký kết và thực hiện các hợp đồng: “Hợp tác đầu tư”. Uỷ ban nhân dân tỉnh Long An và Công ty TNHH Thành Tài không có quyền lợi, nghĩa vụ gỡ liên quan đến việc thực hiện các hợp đồng: “Hợp tác đầu tư” giữa Công ty cổ phần cơ khí Long An với Công ty TNHH thương mại xuất nhập khẩu Tân Lợi Lợi, Công ty cổ phần tập đoàn quốc tế Năm Sao. Tòa án cấp phúc thẩm đưa Uỷ ban nhân dân tỉnh Long An, Công ty TNHH Thành Tài vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ở trình tự phúc thẩm là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng. Về nội dung: Việc Tòa án hai cấp xử hủy phần thỏa thuận vụ hiệu về việc chia tách Dự án bằng đất theo tỷ lệ vốn góp hợp đồng hợp tác đầu tư số 59 ngày 22/4/2005 giữa Công ty cơ khí xây dựng Long An với Công ty TNHH thương mại xuất nhập khẩu Tân Lợi Lợi và tại hợp đồng số 015/K06HT ngày 7/02/2006, giữa Công ty cơ khí xây dựng Long An với Công ty cổ phần tập đoàn quốc tế Năm Sao là đúng với quy định tại Điều 410, 411 Bộ luật Dân sự năm 2005, Luật Đất đai năm 2003, Nghị quyết số 45/2005/QH11 ngày 14/6/2005 về việc hướng dẫn thi hành Bộ luật Dân sự. Công ty cổ phần cơ khí xây dựng Long An khởi kiện yêu cầu chấm dứt hợp đồng hợp tác đầu tư số 59/HTĐT ngày 22/5/2005 với Công ty TNHH thương mại xuất nhập khẩu Tân Lợi Lợi và hợp đồng số 015/K06HT ngày 07/02/2006 với Công ty cổ phần tập đoàn quốc tế Năm Sao do các Công ty này vi phạm hợp đồng, tự ý ngừng việc gúp vốn. Yêu cầu này của Công ty cổ phần cơ khí Long An là hợp pháp cần được chấp nhận, theo đó việc xác định lợi nhuận và phân chia kết quả hợp tác theo tỷ lệ vốn góp cho các bên phải trên cơ sở các thỏa thuận không bị vô hiệu tại hai hợp đồng này. Tại Hợp đồng số 59/HTĐT và hợp đồng số 015/K06HT ngày 7/02/2006, hai bên thỏa thuận trong trường hợp bên B (Công ty TNHH thương mại xuất nhập khẩu Tân Lợi Lợi, Công ty cổ phần tập đoàn quốc tế Năm Sao) không được phép nhận chuyển nhượng phần diện tích đất đó bồi hoàn trong dự án đầu tư thì bên A (Công ty cơ khí xây dựng Long An) phải hoàn trả cho bên B toàn bộ tiền mà bên B đó đầu tư cùng với giá trị lợi nhuận tăng thêm mà đáng ra bên B được hưởng đối với phần đất đó được đầu tư. Thỏa thuận này của các bên không vi phạm pháp luật nên Tòa án cấp sơ thẩm buộc Công ty cổ phần cơ khí xây dựng Long An phải hoàn trả phần vốn góp và khoản lợi nhuận trước thuế cho Công ty TNHH thương mại xuất nhập khẩu Tân Lợi Lợi và Công ty cổ phần tập đoàn quốc tế Năm Sao là đúng quy định của pháp luật. Theo báo cáo của Công ty cơ khí Long An số 169/CV-CKXDLA ngày 30/7/2008 và Công văn số 179/CV-LICO ngày 01/9/2008 thì Công ty đó chi tổng số tiền để thực hiện dự án là 61.618.334.566 đồng. Sau khi xem xét các chứng từ do Công ty cơ khí Long An xuất trình, Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận tổng số tiền chi thực tế, hợp lý, hợp lệ phục vụ cho dự án là 60.456.334.566 đồng. Tòa án cấp phúc thẩm chấp nhận số tiền chi phí hợp lý thực hiện dự án là 59.161.750 đồng. Ngày 21/3/2008, Hội đồng định giá tỉnh Long An đó định giá, trị giá của 50 ha đất dự án (thực tế là 498,591 m2) với đơn giá 470.000 đồng/m2, bằng 234.338.000.000 đồng. Việc định giá của Hội đồng định giá tỉnh Long An cần phải được chấp nhận bởi diện tích đất trên đó được Công ty cổ phần cơ khí Long An đầu tư xây dựng hạ tầng xong. Do đó, cách xác định lợi nhuận và chia lợi nhuận cho các bên theo như Tòa án cấp sơ thẩm (cuối trang 15, nửa đầu trang 16 bản án sơ thẩm) là phù hợp với thỏa thuận không bị vô hiệu của các bên trong hợp đồng. Tuy nhiên, do Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm có sự chấp nhận khác về chi phí đầu tư thực tế vào dự án của Công ty cổ phần cơ khí xây dựng Long An nên cần phải xem xét, đánh giá lại tất cả các chứng từ do Công ty cổ phần cơ khí xây dựng Long An xuất trình. Ngoài ra, theo Công ty cổ phần cơ khí xây dựng Long An thì Công ty còn phải tiếp tục chi trả cho dự án là 12.018.000.000 đồng, bao gồm: chi phí tái định cư là 11.350.000.000 đồng, chi hỗ trợ tạm cư một năm là 166.200.000 đồng, chi thưởng di dời sớm theo quy định là 112.370.000 đồng, những chi phí này chưa được Tòa án cấp sơ thẩm làm rừ để chấp nhận hoặc không chấp nhận khi xác định lợi nhuận và chia lợi nhuận cho các bên. Sau rất nhiều văn bản, quyết định chia tách dự án, giao đất, thu hồi đất, ngày 27/6/2008 Uỷ ban nhân dân tỉnh Long An có Quyết định 1714/QĐ-UBND “Về việc hủy bỏ Công văn số 845/UBND-KT ngày 15/02/2007, Quyết định số 716/QĐ-UBND ngày 16/3/2007…; Quyết định số 2433/QĐ-UBND ngày 20/9/2007…của Uỷ ban nhân dân tỉnh Long An; Quyết định số 1353/QĐ-UBND ngày 21/5/2008 thu hồi Quyết định 1171/QĐ-UBND ngày 24/4/2007 về việc giao đất cho Công ty cổ phần quốc tế Năm Sao và Quyết định số 1354 ngày 21/5/2008 thu hồi Quyết định số 1714/QĐ-UBND ngày 17/4/2007 về việc giao đất cho Công ty TNHH thương mại xuất nhập khẩu Tân Lợi Lợi”. Như vậy, đến thời điểm Tòa án nhân dân tỉnh Long An xét xử sơ thẩm, công văn (có thể coi như Quyết định) số 5667 ngày 31/12/2003 của Uỷ ban nhân dân tỉnh Long An vẫn còn hiệu lực thi hành, do đó quan điểm của Tòa phúc thẩm cho rằng: “để đảm bảo quyền lợi của các bên thì phương án chia tách dự án theo tỷ lệ góp vốn là hợp lý” là không đúng với chủ trương của Uỷ ban nhân dân tỉnh Long An thể hiện tại Công văn số 5667/CV-UB ngày 31/12/2003, Công văn số 1130/UBND-KT ngày 10/3/2008, Quyết định số 1714/QĐ-UBND ngày 27/6/2008. Việc Tòa án cấp phúc thẩm căn cứ vào Công văn số 213 ngày 01/11/2006 của Công ty cơ khí Long An và Công văn số 5957 ngày 4/12/2006 của Uỷ ban nhân dân tỉnh Long An để công nhận việc cả ba Công ty: Công ty cổ phần cơ khí xây dựng Long An, Công ty TNHH thương mại xuất nhập khẩu Tân Lợi Lợi, Công ty cổ phần quốc tế Năm Sao cùng hợp tác đầu tư Dự án cụm công nghiệp Long Định-Long Cang là thiếu tính pháp lý, không đúng với diễn biến của quá trình thực hiện hợp đồng giữa các bên. Bởi lẽ: tại Công văn số 213 ngày 01/11/2006 gửi Sở Tài nguyên môi trường tỉnh Long An, Công ty cơ khí Long An đề xuất phương án chia tách dự án nhưng không được các cơ quan có thẩm quyền của tỉnh Long An chấp nhận; Công ty TNHH thương mại xuất nhập khẩu Tân Lợi Lợi và Công ty cổ phần tập đoàn quốc tế Năm Sao vi phạm nghĩa vụ thực hiện hợp đồng; và tại Văn bản số 1130/UBND-KT ngày 10/3/2008, gửi Tòa án nhân dân tỉnh Long An quan điểm của Uỷ ban nhân dân tỉnh Long An vẫn thể hiện: “Chủ trương của Uỷ ban nhân dân tỉnh Long An chỉ giao Công ty cổ phần cơ khí xây dựng Long An đầu tư hạ tầng, sau khi đầu tư hạ tầng xong giao lại cho Uỷ ban nhân dân tỉnh thực hiện việc giao đất, cho thuê đất theo quy định của pháp luật về đất đai, Uỷ ban nhân dân tỉnh sẽ thang toán chi phí đó đầu tư và quyết định lợi nhuận dự án trên cho Công ty cổ phần cơ khí xây dựng Long An “ (phù hợp với tinh thần Văn bản số 5667/CV-UB ngày 31/12/2003). Mặt khác, Tòa án cấp sơ thẩm đó hủy phần chia lợi nhuận bằng đất theo tỷ lệ vốn góp trong hợp đồng hợp tác đầu tư giữa các bên, Tòa án cấp phúc thẩm cũng giữ nguyên phần quyết định này của Tòa án cấp sơ thẩm nhưng khi quyết định lại công nhận sự thỏa thuận chia tách dự án theo tỷ lệ vốn góp cho các bên đương sự là không đúng với các quy định tại Điều 410, 411 Bộ luật Dân sự năm 2005, Luật Đất đai năm 2003, Nghị quyết số 45/2005/QH11 ngày 14/6/2005 về việc hướng dẫn thi hành Bộ luật Dân sự. Như vậy, Bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm số 159/2008/KDTM-PT ngày 28/11/2008 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh có sai lầm cả về tố tụng cũng như nội dung, bản án sơ thẩm chưa tính đủ các chi phí hợp lý cho việc thực hiện Dự án của Công ty cổ phần cơ khí xây dựng Long An”. Tại phiên tòa giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao giữ nguyên quan điểm kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao. XÉT THẤY 1. Về tố tụng: Tại Công văn số 5667/CV-UB ngày 31/12/2003, Uỷ ban nhân dân tỉnh Long An đó giao cho Công ty cơ khí Long An (nay là Công ty cổ phần cơ khí xây dựng Long An) làm chủ đầu tư xây dựng hạ tầng công nghiệp tại Cụm công nghiệp Long Định-Long Cang mở rộng, theo đó “Sau khi đầu tư xây dựng hạ tầng xong, Công ty cơ khí Long An giao lại cho Uỷ ban nhân dân tỉnh Long An để Uỷ ban nhân dân tỉnh Long An giao lại cho các doanh nghiệp thuê đất”. Tại điểm 1 mục II Công văn số 1130/UBND-KT ngày 10/3/2008, Uỷ ban nhân dân tỉnh Long An khẳng định: “…Chủ trương của Uỷ ban nhân dân tỉnh Long An chỉ giao cho Công ty cổ phần cơ khí xây dựng Long An đầu tư hạ tầng, sau khi đầu tư hạ tầng xong giao lại Uỷ ban nhân dân tỉnh Long An thực hiện việc giao đất, cho thuê đất theo quy định của pháp luật về đất đai, Uỷ ban nhân dân tỉnh Long An sẽ thanh toán chi phí đó đầu tư và quyết định lợi nhuận dự án trên cho Công ty cổ phần cơ khí xây dựng Long An …”. Như vậy, để giải quyết triệt để tranh chấp các hợp đồng hợp tác đầu tư giữa Công ty LICO với Công ty Tân Lợi Lợi và giữa Công ty LICO với Công ty Năm Sao theo thỏa thuận về việc hoàn trả vốn đó đầu tư và giá trị lợi nhuận tăng thêm của Công ty LICO cho Công ty Tân Lợi Lợi và Công ty Năm Sao thì Uỷ ban nhân dân tỉnh Long An phải xem xét, phê duyệt các chi phí mà Công ty LICO đó đầu tư vào dự án theo đúng quy định của pháp luật, trên cơ sở đó sẽ thanh toán chi phí đó đầu tư và quyết định lợi nhuận cho Công ty LICO được hưởng từ việc đầu tư dự án. Tòa án cấp sơ thẩm, do đánh giá không đúng nội dung Công văn số 5667/CV-UB ngày 31/12/2003 và nội dung nêu tại điểm 1 mục I Công văn số 1130/UBND-KT ngày 10/3/2008 của Uỷ ban nhân dân tỉnh Long An nên đã không đưa Uỷ ban nhân dân tỉnh Long An vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là không đúng, vi phạm thủ tục tố tụng. Việc Tòa án cấp sơ thẩm không đưa Công ty Thành Tài vào tham gia tố tụng trong vụ án này với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vì cho rằng đã tách yêu cầu khởi kiện của Công ty LICO thành vụ án khác cũng là không đúng. Bởi lẽ, trong quá trình giải quyết vụ án, Công ty Tân Lợi Lợi đã cho rằng việc Công ty LICO ký hợp đồng với Công ty Thành Tài đã xâm phạm đến quyền và lợi ích của Công ty Tân Lợi Lợi (diện tích 10 ha đất mà Công ty LICO ký hợp đồng với Công ty Thành Tài trùng với vị trí đất mà Công ty LICO đã hợp tác đầu tư với Công ty Tân Lợi Lợi). Mặt khác, do Công ty Thành Tài cũng là đối tác hợp tác đầu tư với Công ty LICO như Công ty Tân Lợi Lợi và Công ty Năm Sao nên việc đầu tư và hưởng lợi nhuận của Công ty Thành Tài có liên quan đến cả ba Công ty LICO, Công ty Tân Lợi Lợi và Công ty Năm Sao. Do Tòa án cấp sơ thẩm đó xem xét (nhận định) về việc không đưa Uỷ ban nhân dân tỉnh Long An và Công ty Thành Tài tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án nên Tòa án cấp phúc thẩm đã xác định và đưa Uỷ ban nhân dân tỉnh Long An và Công ty Thành Tài tham gia tố tụng (ở giai đoạn phúc thẩm) với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là đúng. 2.Về nội dung: - Tại Công văn số 5667/CV-TA ngày 31/12/2003, Uỷ ban nhân dân tỉnh Long An đã có ý kiến chỉ đạo “Về chủ trương, Uỷ ban nhân dân tỉnh đồng ý giao cho Công ty cơ khí Long An làm chủ đầu tư xây dựng hạ tầng công nghiệp tại Cụm công nghiệp Long Định-Long Cang mở rộng…Sau khi đầu tư xây dựng hạ tầng xong, Công ty cơ khí Long An giao lại cho Uỷ ban nhân dân tỉnh Long An để Uỷ ban nhân dân tỉnh cho các doanh nghiệp thuê đất”, nhưng tại Hợp đồng hợp tác đầu tư số 59/HTĐT-05 ngày 22/4/2005, Công ty LICO và Công ty Tân Lợi Lợi thỏa thuận: Công ty LICO có trách nhiệm “Bảo đảm và hoàn tất các thủ tục pháp lý để bên B (Công ty Tân Lợi Lợi) có được Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với 25 ha hoặc đối với diện tích đất tương ứng với tỷ lệ mà bên B (Công ty Tân Lợi Lợi) đã gúp vốn của dự án ngay khi bên A (Công ty LICO) nhận được Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất…” và tại Hợp đồng hợp tác đầu tư số 015K06HT ngày 07/02/2006, Công ty LICO và Công ty Năm Sao thỏa thuận “Trong trường hợp bên B (Công ty Năm Sao) đề nghị được chia lợi nhuận bằng sản phẩm của dự án thì bên A (Công ty LICO) có trách nhiệm liên hệ với các ngành chức năng của tỉnh Long An để chuyển giao quyền sử dụng đất cho bên B (Công ty Năm Sao) tương ứng với lợi nhuận mà bên B được chia”. thỏa thuận trên đây của Công ty LICO với Công ty Tân Lợi Lợi và Công ty Năm Sao trái với chủ trương của Uỷ ban nhân dân tỉnh Long An, không phù hợp với quy định của Luật Đất đai. Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm xác định nội dung các thỏa thuận trên của các bên trong hợp đồng bị vô hiệu, lỗi thuộc về cả ba Công ty là có căn cứ, đúng pháp luật. - Các thỏa thuận khác còn lại của các bên trong hai hợp đồng trên không trái pháp luật, không vi phạm đạo đức xã hội có hiệu lực thi hành. Bởi vì: Cả hai hợp đồng được lập thành văn bản và được ký kết bởi những người đại diện có thẩm quyền của cả ba Công ty; sau khi Công ty LICO và Công ty Tân Lợi Lợi ký kết hợp đồng hợp tác đầu tư nói trên thì đã được Sở Công nghiệp và Uỷ ban nhân dân tỉnh Long An cho phép Công ty LICO được hợp tác đầu tư dự án. - Dự án đã thực hiện xong; các hợp đồng hợp tác đầu tư giữa Công ty LICO với Công ty Tân Lợi Lợi và giữa Công ty LICO với Công ty Năm Sao đều đã bị chấm dứt trước khi dự án hoàn thành, các bên có tranh chấp về việc thực hiện các hợp đồng này. Vì vậy, việc Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm giải quyết tranh chấp các hợp đồng hợp tác đầu tư ký giữa các bên đương sự nêu trên theo hướng giải quyết hậu quả của việc thanh lý hợp đồng là đúng. Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án thì Công ty Tân Lợi Lợi đã góp 16,95 tỷ đồng, Công ty Năm Sao góp 7,55 tỷ đồng; còn Công ty LICO báo cáo đã chi phí cho dự án là 61.618.334.566 đồng; ngoài ra, cũng theo báo cáo của Công ty LICO thì còn có các khoản dự kiến chi khác với tổng số tiền là 11.628.570.000 đồng. Công ty Tân Lợi Lợi và Công ty Năm Sao không đồng ý với báo cáo về chi phí cho dự án của Công ty LICO. Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm căn cứ báo cáo của Công ty LICO để xác định số tiền chi phí thực tế của Công ty LICO đã đầu tư vào dự án là 60.465.334.566 đồng (theo xác định của Tòa án cấp sơ thẩm) hoặc là 59.161.750.350 đồng (theo xác định của Tòa án cấp phúc thẩm) là không đúng và việc Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm căn cứ vào Biên bản định giá tài sản ngày 21/3/2008 của Hội đồng định giá tài sản tỉnh Long An để xác định tổng doanh thu và lợi nhuận trước thuế, từ đó xác định số tiền các Công ty được hưởng từ việc thực hiện dự án cũng là không đúng. Bởi vì, theo chủ trương của Uỷ ban nhân dân tỉnh Long An tại Công văn số 1130/UBND-KT ngày 10/3/2008 thì sau khi đầu tư hạ tầng xong, Công ty LICO giao lại cho Uỷ ban nhân dân tỉnh Long An để thực hiện việc giao đất, cho thuê đất theo quy định của pháp luật về đất đai; Uỷ ban nhân dân tỉnh Long An sẽ thanh toán chi phí đã đầu tư và quyết định lợi nhuận dự án trên cho Công ty cổ phần cơ khí xây dựng Long An. Do đó, toàn bộ các chi phí mà Công ty LICO đã đầu tư cho dự án cũng như lợi nhuận của dự án đều phải do Uỷ ban nhân dân tỉnh Long An xem xét, quyết định; trên cơ sở đó, Tòa án mới có căn cứ xem xét, xác định số tiền mà Công ty LICO đã góp vào dự án (bằng việc lấy tổng chi phí cho dự án được Uỷ ban nhân dân tỉnh Long An phê duyệt trừ đi số vốn mà Công ty Tân Lợi Lợi và Công ty Năm Sao đã góp) và lợi nhuận mà Công ty LICO, Công ty Tân Lợi Lợi và Công ty Năm Sao được hưởng theo thỏa thuận của các bên trong các hợp đồng hợp tác đầu tư. Mặt khác, trong quá trình giải quyết vụ án ở cấp phúc thẩm, Tòa án cấp phúc thẩm còn có các quyết định không phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Ví dụ như: Công nhận thỏa thuận chia tách dự án theo tỷ lệ góp vốn theo tinh thần Công văn số 213/CV-CKXDLA ngày 01/11/2006 của Công ty LICO và Công văn số 5957/UBND-KT ngày 04/12/2006 của Uỷ ban nhân dân tỉnh Long An. Theo Công văn số 213/CV-CKXDLA ngày 01/11/2006 thì Công ty LICO chấp nhận tách dự án 50 ha do Công ty LICO làm chủ đầu tư với các điều kiện Công ty Tân Lợi Lợi và Công ty Năm Sao phải chấp nhận: 12 ha/50 ha giao cho Công ty Thành Tài; chi phí đầu tư của Công ty LICO đã bỏ ra (từ ngày 10-5-2005 đến ngày 21/9/2006) là 37.844.552.557 đồng phải được chấp nhận; phân chia chi phí theo tỷ lệ góp vốn kể cả chi phí tái định cư…; chuyển 7,5 tỷ đồng ngay khi có chủ trương tách dự án. Thực tế, cả 3 Công ty nêu trên đều đã họp nhiều lần nhưng không thống nhất được chi phí và phân chia chi phí…Tại Công văn số 5957/UBND-KT ngày 04/12/2006, Uỷ ban nhân dân tỉnh Long An có chủ trương tách dự án và yêu cầu cả 3 doanh nghiệp phải thống nhất được chi phí phân chia chi phí đầu tư theo tỷ lệ góp vốn trước khi tách dự án nhưng cho đến thời điểm Uỷ ban nhân dân tỉnh Long An ban hành Công văn số 845/UBND-KT ngày 15/02/2007, Quyết định số 716/QĐ-UBND ngày 16/3/2007, Quyết định số 2433/QĐ-UBND ngày 20/9/2007, Quyết định số 1171/QĐ-UBND ngày 27/4/2007 (giao đất cho Công ty Năm Sao), Quyết định số 1174/QĐ-UBND ngày 27/4/2007 (giao đất cho Công ty Tân Lợi Lợi) thì các bên liên quan đến Hợp đồng số 59 và số 015 vẫn không thống nhất được chi phí và phân chia chi phí đã đầu tư cho dự án 50 ha. Với những nội dung như trên thì không có căn cứ để Tòa án cấp phúc thẩm áp dụng Công văn số 213/ CV-CKXDLA để công nhận Công ty LICO đã chấp nhận tách dự án…, theo đó giao đất dự án cho các bên là không đúng thẩm quyền. Việc giao đất hoặc cho thuê đất sau khi dự án hoàn thành thuộc thẩm quyền của Uỷ ban nhân dân tỉnh Long An theo quy định của pháp luật về đất đai. Với các lý do phân tích trên, cần thiết phải hủy Bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm số 159/2008/KDTM-PT ngày 28/11/2008 của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh và Bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số 02/2008/KDTM-ST ngày 04/9/2008 của Toà án nhân dân tỉnh Long An, giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân tỉnh Long An xét xử sơ thẩm lại theo hướng trên cơ sở quyết định của Uỷ ban nhân dân tỉnh Long An về tổng các chi phí mà Công ty LICO đã đầu tư vào dự án và lợi nhuận Công ty LICO được hưởng từ việc thực hiện dự án để xác định vốn góp và tỷ lệ vốn góp của Công ty LICO, Công ty Tân Lợi Lợi và Công ty Năm Sao vào việc thực hiện dự án và lợi nhuận của các bên được hưởng từ việc thực hiện dự án theo thỏa thuận tại các hợp đồng hợp tác đầu tư theo đúng quy định của pháp luật. Vì các lẽ trên, căn cứ vào khoản 3 Điều 291, khoản 3 Điều 297 và Điều 299 Bộ luật tố tụng dân sự; QUYẾT ĐỊNH: 1.Hủy Bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm số 159/2008/KDTM-PT ngày 28/11/2008 của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh và Bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số 02/2008/KDTM-ST ngày 04/9/2008 của Toà án nhân dân tỉnh Long An. 2.Giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân tỉnh Long An xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật. Chương 2 Phần 1: Nhận định sau đây đúng hay sai? Tại sao? Nêu căn cứ pháp lý? 11. Các đương sự kháng cáo phải nộp tạm ứng án phí dân sự phúc thẩm 12. Nguyên đơn phải là người có năng lực hành vi tố tụng dân sự đầy đủ 13. Đại diện Viện kiểm sát phải tham gia tất cả các phiên toà sơ thẩm vụ án dân sự 14. Bị đơn có quyền thay đổi và bổ sung yêu cầu trong vụ án 15. Khi vụ án bị đình chỉ thì đương sự không có quyền khởi kiện lại về vụ án dân sự đó 16. Mọi chứng cứ đều phải được công bố tại phiên tòa 17. Các biện pháp khẩn cấp tạm thời chỉ được áp dụng sau khi Toà án nhân dân tiến hành thụ lý giải quyết vụ án 18. Đương sự được yêu cầu Tòa án ghi chép, sao chụp tài liệu toàn bộ tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án 19. Địa vị tố tụng của các đương sự tại phiên toà sơ thẩm có thể bị thay đổi 20. Tất cả các Bản án, Quyết định đã có hiệu lực pháp luật do Toà án nhân dân các cấp tuyên đều có thể bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm Phần 2: Bài tập Bài 1: Nhận xét của anh, chị về: - Quan hệ pháp luật về nội dung trong vụ án - Thành phần, tư cách đương sự trong vụ án - Chứng cứ và sử dụng chứng cứ trong vụ án Quyết định giám đốc thẩm về vụ án "tranh chấp về hợp đồng liên doanh xây dựng nhà" Ngày 03/9/2009, tại trụ sở Tòa án nhân dân tối cao, đã mở phiên tòa giám đốc thẩm xét xử vụ án kinh doanh, thương mại tranh chấp về hợp đồng liên doanh xây dựng nhà giữa các đương sự: Nguyên đơn: Công ty cổ phần địa ốc Sài Gòn; có trụ sở tại số 63-65 Điện Biên Phủ, phường 15, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh; do bà Đặng Thị Hương Lan làm đại diện theo Giấy ủy quyền ngày 10/6/2008 của Chủ tịch Hội đồng quản trị Công ty; Bị đơn: Ông Trần Ngọc Cứ; có địa chỉ tại số 74 Kinh Dương Vương, phường 13, quận 6, thành phố Hồ Chí Minh. NHẬN THẤY Theo Đơn khởi kiện đề ngày 30/5/2006 và các tài liệu, chứng cứ do nguyên đơn xuất trình thì: Ngày 06/01/1993, Công ty xây dựng và kinh doanh nhà (nay là Công ty Cổ phần địa ốc Sài Gòn-sau đây viết tắt là Công ty địa ốc) và ông Trần Ngọc Cứ có ký kết Hợp đồng liên doanh xây dựng nhà số 02/93 với nội dung (tóm tắt) như sau: -Ông Cứ giao toàn bộ khu đất với diện tích là 552 m2 cho Công ty địa ốc đầu tư xây dựng 12 căn nhà; giá trị góp vốn của ông Cứ là 456 lượng vàng 9999; giá trị đầu tư xây dựng của Công ty địa ốc là 513,6 lượng vàng 9999; - Về trách nhiệm của các bên: ông Cứ lo toàn bộ thủ tục gồm Giấy phép sử dụng đất, Giấy phép xây dựng để bảo đảm tính pháp lý cho việc xây dựng nhà. Công ty địa ốc đầu tư vốn xây dựng, lo thủ tục chủ quyền nhà cho người mua; - Hình thức phân chia lợi nhuận: sau khi trừ chi phí, mỗi bên được chia 50% lợi nhuận; - Thời gian xây dựng là 06 tháng (từ ngày 15/02/1993 đến ngày 15/7/1993). Đến cuối năm 1993, Công ty địa ốc đã đầu tư xây dựng hoàn chỉnh khu nhà nhưng không đưa vào kinh doanh được vì Công ty địa ốc phát hiện ông Cứ đã gian dối khi sửa chữa Quyết định số 02 ngày 10/11/1986 của Lữ đoàn thông tin 596 (về việc giao đất cho ông Cứ) từ diện tích đất là 342 m2 thành 942 m2 và sử dụng phần diện tích đất lấn chiếm trái phép này để góp vốn kinh doanh với Công ty địa ốc. Do việc Bộ tư lệnh thông tin ra Quyết định số 206g3/QĐ ngày 18/6/1997 thu hồi phần đất do ông Cứ lấn chiếm, sử dụng trái phép là 666 m2 nên một số căn nhà mà Công ty địa ốc đã đầu tư xây dựng bị hoang phế, vốn đầu tư bị tồn đọng. Đến ngày 10/3/2000, Bộ Quốc phòng cùng Bộ tư lệnh thông tin mới có Biên bản bàn giao nhà, đất số 507/BB-TTLL bàn giao 619,6 m2 đất và 11 căn hộ cho Công ty địa ốc trong khi đó, ông Cứ không có trách nhiệm cùng Công ty giải quyết hậu quả. Vì vậy, Công ty địa ốc đã khởi kiện ra Tòa án với yêu cầu buộc ông Cứ phải bồi thường các khoản: - Thiệt hại do đọng vốn đầu tư trong 7 năm 4 tháng là 224,7 lượng vàng 999; - Chi phí giải quyết hậu quả trong thời gian Công ty địa ốc làm việc với các cơ quan của Bộ Quốc phòng là 200 triệu đồng; - Chi phí bảo vệ công trình (từ tháng 7/1993 đến tháng 6/2000) là 180 triệu đồng; - Chi phí sửa chữa, cải tạo công trình xây dựng do bỏ hoang 7 năm là 500 triệu đồng; Tổng cộng các khoản bồi thường, phạt là 273,18 lượng vàng SJC và 880 triệu đồng (theo Đơn bổ sung đề ngày 07/8/2006). Sau đó, tại Đơn bổ sung đề ngày 12/10/2007 Công ty địa ốc yêu cầu ông Cứ phải bồi thường 224,7 lượng vàng SJC và 460 triệu đồng. Tại phiên tòa sơ thẩm ngày 14/01/2008, Công ty địa ốc yêu cầu ông Cứ bồi thường 147 lượng vàng SJC và 460 triệu đồng. Ông Trần Ngọc Cứ trình bày: Ông thừa nhận có ký Hợp đồng số 02/93 với Công ty địa ốc nhưng sau đó Công ty địa ốc đã tự bán các căn hộ mà không thông báo cho Ông biết. Ông không có lỗi trong việc ký kết, thực hiện hợp đồng với Công ty địa ốc, không gây thiệt hại gì cho Công ty địa ốc, nên không đồng ý các yêu cầu của Công ty địa ốc đối với Ông. Tại Bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số 77/2008/KDTM-ST ngày 14/01/2008, Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh đã áp dụng Điều 15, Điều 16 Pháp lệnh Hợp đồng dân sự năm 1991, quyết định: “1.Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, buộc ông Trần Ngọc Cứ phải có trách nhiệm bồi thường cho Công ty cổ phần địa ốc Sài Gòn (do lỗi gây thiệt hại trong việc giao kết Hợp đồng liên doanh xây dựng nhà số 02/93 ngày 06/01/1993 bị vô hiệu) là 1.051.293.600 đồng. 2. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn đòi bồi thường thiệt hại vượt quá số tiền bồi thường được chấp nhận nói trên (số tiền chênh lệch là 1.937.106.400 đồng)…”. Ngày 16/01/2008, ông Trần Ngọc Cứ có đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm. Tại Bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm số 82/2008/KDTM-PT ngày 11/6/2008, Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh quyết định: “ 1. Buộc ông Trần Ngọc Cứ có trách nhiệm bồi thường cho Công ty cổ phần địa ốc Sài Gòn (do lỗi gây thiệt hại trong việc giao kết Hợp đồng liên doanh xây dựng nhà số 02/93 ngày 06/01/1993 bị vô hiệu) là 757.658.124 đồng. 2. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn đòi bồi thường thiệt hại vượt quá số tiền bồi thường được chấp nhận như đã nêu ở trên là 2.230.741.876 đồng…” Sau khi xét xử phúc thẩm, ngày 22/7/2008, ông Trần Ngọc Cứ có đơn đề nghị xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm đối với bản án phúc thẩm nêu trên. Tại Quyết định kháng nghị số 10/KN-VKSTC-V12 ngày 13/4/2009, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao kháng nghị Bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm số 82/2008/KDTM-PT ngày 11/6/2008 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh và đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm theo hướng: hủy bản án sơ thẩm và bản án phúc thẩm. Đình chỉ giải quyết vụ án theo đúng quy định của pháp luật, với nhận định như sau: “Về thời hiệu: Theo thỏa thuận trong hợp đồng xây dựng, trong vòng 6 tháng công trình xây dựng xong, đến ngày 15/7/1993 là hoàn thành. Nhưng do khu đất có quyết định thu hồi nên việc khai thác các căn nhà không được thực hiện. Như vậy, Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm xác định thời điểm phát sinh tranh chấp là sau ngày 15/7/1993 là đúng. Nhưng việc Tòa án hai cấp xác định và áp dụng Bộ luật dân sự năm 1995 và Bộ luật dân sự năm 2005 để xác định thời hiệu khởi kiện vụ án kinh doanh, thương mại này là hoàn toàn không đúng vì hai Bộ luật này không quy định thời hiệu hồi tố. Việc giao dịch giữa ông Cứ và Công ty địa ốc thực hiện xong năm 1993, vì vậy thời hiệu khởi kiện vụ án này phải được áp dụng khoản 1 Điều 31 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế có hiệu lực từ ngày 16/3/1994. Như vậy, ngày 09/6/2006, Công ty địa ốc Sài Gòn mới có đơn khởi kiện là đã quá thời hiệu khởi kiện trên 10 năm. Vụ án kinh doanh, thương mại trên đã hết thời hiệu khởi kiện. Việc Tòa án hai cấp sơ thẩm và phúc thẩm xác định vụ kiện này còn thời hiệu để thụ lý và xét xử là không đúng theo quy định của pháp luật. Về nội dung vụ án: Tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm đều xác định hợp đồng giữa Công ty địa ốc Sài Gòn ký với ông Cứ là vô hiệu toàn bộ. Do vậy việc xử lý hợp đồng này Tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm lại vận dụng Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự để giải quyết vụ án kinh doanh, thương mại là không đúng tại thời điểm hai bên ký hợp đồng năm 1993. Đối với vụ tranh chấp này phải áp dụng điểm c khoản 2 Điều 39 Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế có hiệu lực từ ngày 25/9/1989 thì “Thiệt hại phát sinh các bên phải chịu” mà không xem xét đến mức độ lỗi của các bên. Quyết định của bản án sơ thẩm và phúc thẩm nêu trên buộc ông Cứ phải bồi thường thiệt hại là không đúng với quy định của pháp luật và trái với quy định tại khoản 3 Chương II Nghị quyết số 04/NQ-HĐTP ngày 27/5/2003 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao trong việc xử lý Hợp đồng kinh tế vô hiệu thì “Theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 9 Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế thì trong trường hợp Hợp đồng kinh tế bị coi là vô hiệu toàn bộ, thiệt hại phát sinh các bên phải chịu mà không xem xét đến mức độ lỗi của các bên”. XÉT THẤY 1-Về quan hệ pháp luật tranh chấp: -Theo quy định tại Điều 1 và Điều 2 Pháp lệnh hợp đồng kinh tế thì Hợp đồng liên doanh xây dựng nhà số 02/93 ký ngày 06/01/1993 giữa ông Cứ với Công ty địa ốc không phải là hợp đồng kinh tế vì tuy thỏa mãn về hình thức (bằng văn bản) và mục đích kinh doanh nhưng không bảo đảm điều kiện về chủ thể do ông Cứ là cá nhân không có đăng ký kinh doanh. -Theo quy định tại Điều 1 và khoản 1 Điều 57 Pháp lệnh hợp đồng dân sự thì Hợp đồng liên doanh xây dựng nhà số 02/93 ký ngày 06/01/1993 giữa ông Cứ với Công ty địa ốc tuy thỏa mãn điều kiện về chủ thể nhưng không bảo đảm điều kiện về mục đích của hợp đồng dân sự là đáp ứng nhu cầu sinh hoạt, tiêu dùng vì cả Công ty địa ốc và ông Cứ đều có mục đích kinh doanh nhưng ông Cứ là cá nhân không có đăng ký kinh doanh. Tuy nhiên, căn cứ quy định tại Điều 394 Bộ luật dân sự năm 1995 (nay là Điều 388 Bộ luật dân sự năm 2005) về khái niệm hợp đồng dân sự (Hợp đồng dân sự là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự) thì Hợp đồng liên doanh xây dựng nhà số 02/93 nói trên là hợp đồng dân sự. Do xác định đây là hợp đồng dân sự và hợp đồng này được ký kết và thực hiện từ năm 1993 nên phải căn cứ quy định của Pháp lệnh hợp đồng dân sự để giải quyết vụ án. - Tòa án các cấp sơ thẩm và phúc thẩm thụ lý, giải quyết vụ án này bằng vụ án kinh doanh, thương mại và áp dụng quy định của Pháp lệnh hợp đồng dân sự để giải quyết vụ án là phù hợp với hướng dẫn của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao tại Nghị quyết số 01/2005/NQ-HĐTP ngày 31/3/2005 và quy định tại điểm d khoản 3 Nghị quyết của Quốc hội khóa IX kỳ họp thứ 8 về việc thi hành Bộ luật dân sự năm 1995 (Đối với các giao dịch dân sự được xác lập và thực hiện xong trước ngày Bộ luật dân sự có hiệu lực mà có tranh chấp xảy ra, thì áp dụng quy định của pháp luật có hiệu lực trước đây để giải quyết). 2- Về thời hiệu khởi kiện: - Theo quy định tại điểm 6 Nghị quyết của Quốc hội về việc thi hành Bộ luật dân sự năm 1995 (được Quốc hội khóa IX kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 28/10/1995) thì: “Việc áp dụng quy định pháp luật về thời hiệu được quy định như sau: a) Đối với các giao dịch dân sự được xác lập trước ngày Bộ luật dân sự có hiệu lực mà các văn bản pháp luật trước đây có quy định về thời hiệu hưởng quyền dân sự, thời hiệu miễn trừ nghĩa vụ dân sự và thời hiệu khởi kiện, thì áp dụng các quy định về thời hiệu của các văn bản pháp luật đó; b) Đối với các giao dịch dân sự được xác lập trước ngày Bộ luật dân sự có hiệu lực mà các văn bản pháp luật trước đây không quy định về thời hiệu hưởng quyền dân sự, thời hiệu miễn trừ nghĩa vụ dân sự và thời hiệu khởi kiện, thì áp dụng các quy định của Bộ luật dân sự về thời hiệu và thời điểm bắt đầu được tính từ ngày Bộ luật dân sự có hiệu lực”. -Theo hướng dẫn tại tiểu mục 1.1 mục 1 phần I Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thì “Đối với giao dịch dân sự được xác lập trước ngày 01/7/1996 (ngày Bộ luật dân sự có hiệu lực) mà các văn bản pháp luật trước đây có quy định về thời hiệu (thời hiệu hưởng quyền dân sự, thời hiệu miễn trừ nghĩa vụ dân sự và thời hiệu khởi kiện) thì phải áp dụng các quy định về thời hiệu của các văn bản pháp luật đó để xác định thời hiệu còn hay hết, không phân biệt giao dịch dân sự đó được thực hiện xong trước ngày 01/7/1996 hay từ ngày 01/7/1996…”. -Theo các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án thì không có căn cứ để áp dụng một trong các điểm a, b, c tiểu mục 1.1 mục 1 phần I Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP nêu trên vì các bên tham gia giao dịch dân sự (ký kết hợp đồng) không có thỏa thuận kéo dài thời hạn thực hiện hợp đồng hay thỏa thuận bổ sung hợp đồng. - Sau khi có Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP nêu trên, thì việc Tòa án các cấp sơ thẩm và phúc thẩm căn cứ vào Báo cáo tổng kết công tác ngành Tòa án nhân dân năm 1999 và phương hướng nhiệm vụ công tác năm 2000 để xem xét thời hiệu khởi kiện của vụ án này là không đúng. Để xác định đúng thời hiệu khởi kiện của vụ án này cần phải căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 56 Pháp lệnh hợp đồng dân sự (về thời hiệu khởi kiện); điểm 6 Nghị quyết của Quốc hội về việc thi hành Bộ luật dân sự năm 1995 và hướng dẫn tại tiểu mục 1.1 mục 1 Phần I Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP (đã trích dẫn ở trên) và xác định được đúng “thời điểm xảy ra vi phạm hợp đồng”. 3-Về đường lối giải quyết vụ án (trong trường hợp xác định còn thời hiệu khởi kiện): Tại thời điểm ký kết và thực hiện hợp đồng, ông Cứ chưa được Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của Luật Đất đai năm 1987 (đang có hiệu lực tại thời điểm này); trong diện tích đất mà ông Cứ dùng để góp vốn đầu tư xây dựng có diện tích đất lấn chiếm của Nhà nước, nhưng Công ty địa ốc có biết hay không chưa được Tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm làm rõ. Hợp đồng này có dấu hiệu vi phạm điều cấm của pháp luật. Vì vậy, việc Tòa án các cấp sơ thẩm và phúc thẩm áp dụng khoản 3 Điều 15 và khoản 4 Điều 16 Pháp lệnh Hợp đồng dân sự (khoản 3 Điều 15 Pháp lệnh Hợp đồng dân sự quy định: “Khi một bên hợp đồng bị nhầm lẵn về nội dung chủ yếu của hợp đồng, bị đe dọa hoặc bị lừa dối, thì có quyền yêu cầu Tòa án xác định hợp đồng vô hiệu”; khoản 4 Điều 16 Pháp lệnh Hợp đồng dân sự quy định: “Bên có lỗi trong việc giao kết hợp đồng vô hiệu mà gây ra thiệt hại cho bên kia, thì phải bồi thường, trừ trường hợp bên bị thiệt hại biết rõ lý do làm cho hợp đồng vô hiệu mà vẫn giao kết”) để xác định Hợp đồng số 02/93 là hợp đồng vô hiệu và xử lý hậu quả của hợp đồng vô hiệu là chưa có đủ căn cứ vững chắc. Kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao viện dẫn quy định tại điểm c khoản 2 Điều 39 Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế và mục 3 phần II Nghị quyết số 04/2003/NQ-HĐTP ngày 27/5/2003 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao để cho rằng “thiệt hại phát sinh các bên phải chịu” cũng không phù hợp với quy định của pháp luật và các tài liệu có trong hồ sơ vụ án. Để giải quyết đúng trách nhiệm và mức độ bồi thường thiệt hại của vụ án này thì phải xác minh, thu thập chứng cứ chứng minh diện tích đất mà ông Cứ dùng để góp vốn thực hiện hợp đồng chính xác là bao nhiêu?; trong đó, diện tích đất ông Cứ được giao sử dụng hợp pháp là bao nhiêu? diện tích đất ông Cứ lấn chiếm là bao nhiêu?; diện tích được cấp giấy phép xây dựng (nếu có) là bao nhiêu?; diện tích đất Công ty địa ốc đã sử dụng để xây dựng 12 căn nhà là bao nhiêu?; số vốn thực tế Công ty địa ốc góp để xây dựng 12 căn nhà nói trên? Khi nào thì việc xây dựng 12 căn nhà chính thức hoàn thành để đưa vào sử dụng và kinh doanh? Khi nào thì Công ty địa ốc biết việc ông Cứ sử dụng đất lấn chiếm của Nhà nước để góp vốn thực hiện hợp đồng? Tổng số tiền thu được từ việc bán 12 căn nhà này? Sau khi trừ các khoản chi phí hợp lệ, lợi nhuận thu được là bao nhiêu và đã xử lý khoản lợi nhuận này như thế nào theo thỏa thuận trong hợp đồng? Vì các lẽ trên, căn cứ vào khoản 3 Điều 291, khoản 3 Điều 297, Điều 299 Bộ luật tố tụng dân sự; QUYẾT ĐỊNH 1. Hủy Bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số 77/2008/KDTM-ST ngày 14/01/2008 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh và Bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm số 82/2008/KDTM-PT ngày 11/6/2008 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh; 2. Giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật. Bài 2: Nhận xét của anh, chị về: - Quan hệ pháp luật về nội dung trong vụ án - Thành phần, tư cách đương sự trong vụ án - Chứng cứ và sử dụng chứng cứ trong vụ án Quyết định Giám đốc thẩm số 06/2009/KDTM-GĐT ngày 15/07/2009 về vụ án tranh chấp giữa các thành viên công ty Ngày 15 Tháng 7 năm 2009, tại trụ sở Toà án nhân dân tối cao đã mở phiên toà giám đốc thẩm xét xử vụ án kinh doanh, thương mại tranh chấp giữa các thành viên của Công ty với nhau, có các đương sự: 1.Nguyên đơn: Chị Hoàng Thị Hương; trú tại tổ 1, khu 9, phường Hà Trung, thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh; - Chị Bùi Thị Thanh Hương; trú tại tổ 8, khu 3, phường Hồng Hải, thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh; - Chị Nguyễn Thị Ngọc Lan; trú tại tổ 1, khu 1, phường Hoà Lạc, thị xã Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh; người đại diện theo uỷ quyền của chị Nguyễn Thị Ngọc Lan; Luật sư Phạm Văn Lợi, Đoàn luật sư tỉnh Quảng Ninh; 2.Bị Đơn: Chị Đặng Thị Dịu; trú tại tổ 105, khu 6, phường Bạch Đằng, thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh; 3. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Bà Lê Thị Hộ, chị Đặng Thu Hương, chị Đặng Thị Xuân, đều trú tại tổ 3 khu 10, phường Hồng Hải, thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh. NHẬN THẤY Các nguyên đơn trình bày: Chị Đặng Thị Dịu (là con gái ông Đặng Tất Lộc - nguyên giám đốc Công ty trách nhiệm hữu hạn Hoàng Long; ông Lộc đã chết tháng 11/2004) là thành viên có ghi danh, có ý định chiếm đoạt tài sản Công ty nên đã triệu tập Hội nghị thành viên Công ty, bầu cử người trong gia đình không phải là thành viên Công ty, chiếm quyền quản lý cơ sở kinh doanh của Công ty, chiếm đoạt con dấu, Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, ngăn cản không cho các thành viên khác vào Công ty đến cơ sở kinh doanh để làm việc và quản lý tài sản của Công ty. Các nguyên đơn khởi kiện với yêu cầu Toà án buộc chị Đặng Thị Dịu trả lại cho tập thể con dấu, Giấy phép kinh doanh, giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh khách sạn Hoàng Long, trả lại toàn bộ giấy tờ, sổ sách của danh nghiệp mà chị Dịu đang chiếm giữ; không chấp nhận tư các Chủ tịch Hội đồng thành viên kiêm giám đốc Công ty Hoàng Long của chị Đặng Thị Dịu; việc cấp lại Giấy đăng ký kinh doanh cho Công ty là không hợp pháp phải thu hồi, huỷ bỏ. Bị đơn - Chị Đặng Thị Dịu trình bày: Công ty Hoàng Long thành lập và hoạt động từ năm 1993; chị Dịu là thành viên chính thức của Công ty từ khi thành lập cho đến nay. Ngày 29/11/2004, ông Đặng Tất Lộc - Giám đốc Công ty ốm chết; trước khi chết ông Lộc không để lại di chúc. Ngày 16/4/2005, ông Bùi Hữu Cần nhân danh Phó Chủ tịch Hội đồng quản trị triệu tập cuộc họp Hội đồng quản trị bầu Chủ tịch Hội đồng thành viên, bổ nhệm chị Hoàng Thị Hương làm Giám đốc Công ty; số người tham gia cuộc họp chỉ chiếm 24,82% tổng số vốn góp của các thành viên Công ty. Không chấp nhận kết quả cuộc họp nói trên, ngày 24/4/2005 các thành viên Công ty Hoàng Long chiếm 75,77% vốn điều lệ đã triệu tập Đại hội thành viên Công ty; số thành viên chiếm 24,82% vốn điều lệ không tham gia Đại hội. Đại hội đã bầu chị Đặng Thị Dịu làm Chủ tịch Hội đồng thành viên kiêm giám đốc Công ty Hoàng Long; số biểu quyết chiếm 75,77% vốn đều lệ. Tại Đại hội này các thành viên đã nhất chí Điều lệ Công ty sửa đổi lần thứ nhất cho phù hợp với Luật Doanh nghiệp 1999. Ngày 24/6/2005, Sở kế hoạch đầu tư tỉnh Quảng Ninh cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh số 2202000999 thừa nhận danh sách các thành viên, chị Đặng Thị Dịu là người đại diện theo pháp luật của Công ty. Chị Dịu đề nghị bác yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đứng về phía bị đơn đều đề nghị bác đơn yêu cầu của nguyên đơn. Tại bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số 04/KDTM-ST ngày 18/10/2005, Toà án nhân dân tỉnh Quảng Ninh quyết định: áp dụng các Điều 37, 38, 39 Luật Doanh nghiệp năm 1999: không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của các nguyên đơn gồm: chị Hoàng Thị Hương, chị Bùi Thị Thanh Hương, chị Nguyễn Thị Ngọc Lan. Ngoài ra, Hội đồng xét xử còn quyết định về án phí và quyền kháng cáo của các đương sự theo quy định của pháp luật. Ngày 03/10/2005, chị Hoàng Thị Hương và chị Nguyễn Thị Ngọc Lan có đơn kháng cáo bản án sơ thẩm. Ngày 01/11/2005, chị Bùi Thi Thanh Hương có đơn kháng cáo bản án sơ thẩm. Tại bản án kinh danh, thương mại phúc thẩm số 31/2006/KDTM-PT ngày 14/02/2006, Toà Phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại Hà Nội quyết định: Không chấp nhận kháng cáo của các nguyên đơn gồm: chị Hoàng Thị Hương, chị Bùi Thị Thanh Hương, chị Nguyễn Thị Ngọc Lan; giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm. Sau khi xét xử phúc thẩm, chị Hoàng Thị Hương, chị Bùi Thị Thanh Hương, chị Nguyễn Thị Ngọc Lan có nhiều đơn đề nghị xét lại bản án phúc thẩm theo thủ tục giám đốc thẩm với nội dung: + Không chấp nhận chị Đặng Thị Dịu là thành viên Công ty Hoàng Long vì không có vốn góp vào Công ty; Biên bản họp ngày 8/3/1998 không chính xác, chị Dịu không ký xác nhận, không có chứng từ góp vốn vào Công ty Hoàng Long; + Không chấp nhận bà Lê Thị Hộ, chị Đặng Thị Xuân, chị Đặng Thị Hương là thành viên Công ty. + Hồ sơ xin cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh có sự gian lận nên đề nghị xử huỷ bỏ Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh cấp lại. Tại Quyết định số 04/2009/KN-KDTM-TKT ngày 10/02/2009, Chánh án Toà án nhân dân tối cao kháng nghị Bản án kinh doanh thương mại số 31/2006/KDTM-PT ngày 14/02/2006 của Toà Phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao và đề nghị Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm theo hướng huỷ Bản án kinh doanh thương mại phúc thẩm số 31/2006/KDTM-PT ngày 14/02/2006 của Toà Phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại Hà Nội và Bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số 04/2005/KDTM-ST ngày 18/10/2005 của Toà án nhân dân tỉnh Quảng Ninh; giao hồ sơ vụ án về Toà án nhân dân tỉnh Quảng Ninh xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật. Tại phiên toà giám đốc thẩm, đại điện Viện Kiểm sát nhân dân tối cao phát biểu ý kiến nhất trí một phần nội dung kháng nghị của Chánh án Toà án nhân dân tối cao về việc Toà án các cấp sơ thẩm và phúc thẩm xác định: “Phòng đăng ký kinh doanh… cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh số 2202000999 ngày 24/6/2005 cho Công ty Hoàng Long (sau khi các đương sự đã khởi kiện vụ án) là hợp pháp, có căn cứ pháp luật” nhưng lại kiến nghị với Công ty trách nhiệm hữu hạn Hoàng Long và Phòng đăng ký kinh doanh… “xem xét lại tư cách thành viên Công ty của chi Bùi Thị Thanh Hương, Nguyễn Thị Ngọc Lan và trả lời cho Toà án biết” là không đúng pháp luật, vượt thẩm quyền” không đồng ý với các nội dung khác có liên quan đến vấn đề về tư cách thành viên Công ty và vốn góp của chị Đặng Thị Dịu; về tư cách thành viên Công ty của bà Lê Thị Hộ, chị Đặng Thị Thu Hương, chị Đặng Thị Xuân; về yêu cầu khởi kiện của các nguyên đơn… XÉT THẤY 1. Về tư cách thành viên Công ty Hoàng Long và vốn góp của chị Đặng Thị Dịu. Căn cứ Biên bản cuộc họp ngày 06/6/1993 (bản sao không có chứng thực) và Điều lệ Công ty năm 1993 (bản sao không có chứng thực), Giấy phép thành lập Công ty trách nhiệm hữu hạn số 001113/GP/TLDN ngày 10/10/1993 của Uỷ ban nhân dân tỉnh Quảng Ninh cấp cho Công ty Hoàng Long, Giấy chuyển nhượng khoản vốn góp thành lập Công ty trách nhiệm hữu hạn Hoàng Long đề ngày 10/10/2004 giữa ông Vũ Công Hưng và chị Đặng Thị Dịu thì chị Đặng Thị Dịu là sáng lập viên Công ty TNHH Hoàng Long và có vốn điều lệ là 90 triệu đồng. Riêng khoản tiền 350.000.000 đồng thì chưa đủ căn cứ vững chắc để xác định là vốn góp của chị Đặng Thị Dịu; bởi vì: trong hồ sơ vụ án không có tài liệu nào thể hiện việc chuyển nhượng hợp pháp số tiền 350.000.000 đồng từ ông Lộc sang chị Dịu theo quy định của pháp luật; Biên bản họp Hội đồng quản trị ngày 8/3/1998 là bản sao từ sổ ghi biên bản không có công chứng, chứng thực hợp pháp, không đủ độ tin cậy; hơn nữa, trong hồ sơ vụ án có tài liệu thể hiện ngày 30/8/1998 ông Lộc và chị Hoàng Thị Hương ký tên và đóng dấu vào bản danh sách sáng lập viên góp vốn, nhưng trong bản danh sách này không có tên chị Dịu. 2. Về tư cách thành viên Công ty Hoàng Long của bà Lê Thị Hộ và các chị Đặng Thị Thu Hương, Đăng Thị Xuân: - Bà Lê Thị Hộ là vợ ông Đặng Tất Lộc (giám đốc Công ty đã chết tháng 11/2004); các chị Đặng Thu Hương, Đặng Thị Xuân là con ông Đặng Tất Lộc. Ông Lộc chết không để lại di chúc. Ngày 16/12/2004, bà Lê Thị Hộ cùng các con Đặng Thị Dịu, Đặng Thu Hương, Đặng Thị Xuân, Đặng Thị Thường, Đặng Tất Bình lập “Văn bản thoả thuận” cử bà Hộ, chị Xuân, chị Hương “là người quả lý di sản phần vốn góp của ông Lộc tại Công ty TNHH Hoàng Long..”; “bà Hộ, chị Xuân, chị Hương được quyền duy trì vốn góp của ông Lộc tại Công ty TNHH Hoàng Long để tiếp tục cùng Công ty thực hiện kinh doanh dịch vụ…” (BL 283). - Căn cứ Biên bản họp Hội đồng thành viên Công ty TNHH Hoàng Long ngày 12/3/2005 thì Hội đồng thành viên Công ty Hoàng Long đã “chấp nhận văn bản thoả thuận thừa kế vốn góp trong Công ty của ông Đặng Tất Lộc kèm theo văn bản thoả thuận của gia đình ngày 16/12/2004” (BL 149). Chị Hoàng Thị Hương và những người đại diện cho chi Bùi Thị Thanh Hương (là ông Bùi Hữu Cầu) và chị Nguyễn Ngọc Lan (là ông Nguyễn Hữu Chính) đều đã ký biên bản này (BL59). Như vây, có thể xác định bà Hộ, chị Xuân, chị Hương đã được Hội đồng thành viên Công ty chấp nhận là những người thừa kế quyền, nghĩa vụ của ông Lộc; nhưng họ đã chính thức trở thành thành viên Công ty theo đúng quy định của Luật Doanh nghiệp 1999 hay chưa thì chưa đủ căn cứ khẳng định vì ngày 20/4/2005 bà Hộ, chị Xuân, chị Hương lại có đơn đề nghị công nhận thành viên Hội đồng Công ty trách nhiệm hữu hạn Hoàng Long. 3. Về yêu cầu khởi kiện của các nguyên đơn và việc việc giải quyết của Toà án các cấp: - Tại đơn khởi kiện đề ngày 15/6/2005 các chị Nguyễn Thị Ngọc Lan, Bùi Thị Thanh Hương, Hoàng Thị Hương đề nghị Toà án nhân dân tỉnh Quảng Ninh buộc chị Đặng Thị Dịu phải trả lại cho tập thể con dấu, giấy phép kinh doanh, giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh khách sạn Hoàng Long để các sáng lập viên tổ chức lại toàn bộ sổ sách giấy tờ của doanh nghiệp; do ông Lộc đã chết, vì vậy buộc Công ty phải thực hiện lập lại báo cáo tài chính từ năm 1993 đến nay.. (BL01). - Tại Biên bản lấy lời khai ngày 06/7/2005 ông Bùi Hữu Cầu (đại diện theo uỷ quyền của chị Bùi Thị Thanh Hương) giữ nguyên yêu cầu trên; ngoài ra, còn cho rằng chị Dịu có tên trong danh sách thành viên sáng lập nhưng không góp vốn (BL 218). Tại biên bản lấy lời khai ngày 08/8/2005, ông Cầu, ông Chính, chị Hoàng Thị Hương đều không thừa nhận chị Dịu có góp vốn vào Công ty; không thừa nhận tư cách thành viên Công ty của bà Hộ, chị Dịu, chị Hương, chị Xuân; không đồng ý với việc xác định vốn góp của các thành viên Công ty tại biên bản họp ngày 8/3/1998; không thừa nhận kết quả Đại hội thành viên Công ty ngày 24/4/2005 (BL 260-262). Với các căn cứ nêu trên, việc Toà án nhân dân tỉnh Quảng Ninh thụ lý đơn khởi kiện của các nguyên đơn để giải quyết bằng vụ án kinh doanh, thương mại tranh chấp giữa các thành viên của Công ty với nhau.. là đúng quy định tại khoản 3 Điều 29 Bộ luật tố tụng dân sự và hướng dẫn của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao tại điểm b tiểu mục 3.5 mục 3 phần I Nghị quyết số 01/2005/NQ.HĐTP ngày 31/3/2005 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao. Tuy nhiên, do chưa đủ căn cứ vững chắc để xác định phần vốn góp của chị Đặng Thị Dịu như nêu trên và về tư cách thành viên của bà Hộ, các chị Xuân, Hương cũng chưa có đủ căn cứ vững chắc để kết luận nên tính hợp pháp của Đại hội thành viên Công ty Hoàng Long ngày 24/4/2005 cần được xem xét lại. - Toà án cấp sơ thẩm xác định: “Phòng đăng ký kinh doanh… cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh số 2202000999 ngày 24/6/2005 cho Công ty Hoàng Long (sau khi các đương sự đã khởi kiện vụ án) là hợp pháp, có căn cứ pháp luật” nhưng lại kiến nghị với Công ty TNHH Hoàng Long và Phòng đăng ký kinh doanh… “xem xét lại tư cách thành viên Công ty của chi Bùi Thị Thanh Hương, Nguyễn Thị Ngọc Lan và trả lời cho Toà án biết” là không đúng pháp luật, vượt thẩm quyền. Toà án cấp phúc thẩm đã không phát hiện những sai lầm của Toà án cấp sơ thẩm và quyết định giữ nguyên các quyết định của bản án sơ thẩm là không đúng pháp luật. Bởi các lẽ trên; căn cứ vào khoản 3 Điều 291; khoản 3 Điều 297; khoản 1,2 Điều 299 của Bộ luật tố tụng dân sự. QUYẾT ĐỊNH Huỷ bản án kinh doanh thương mại phúc thẩm số 31/2006/KDTM-PT ngày 14-2-2006 của Toà Phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hà Nội và bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số 04/2005/KDTM-ST ngày 18/10/2005 của Toà án nhân dân tỉnh Quảng Ninh; giao hồ sơ vụ án cho Toà án nhân dân tỉnh Quảng Ninh xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật. Bài 3: Nhận xét của anh, chị về: - Quan hệ pháp luật về nội dung trong vụ án - Thành phần, tư cách đương sự trong vụ án - Chứng cứ và sử dụng chứng cứ trong vụ án Quyết định giám đốc thẩm về vụ án "kinh doanh, thương mại tranh chấp về hợp đồng dịch vụ" Ngày 15/7/2009, tại trụ sở Toà án nhân dân tối cao đã mở phiên toà giám đốc thẩm xét xử vụ án kinh doanh, thương mại tranh chấp về hợp đồng dịch vụ, giữa các đương sự: Nguyên đơn: Công ty nông sản thực phẩm xuất khẩu Cần Thơ; có địa chỉ tại 152-154 Trần Hưng Đạo, quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ; do ông Bùi Quang Nhơn làm đại diện theo Giấy ủy quyền ngày 12/05/2006 của Giám đốc Công ty; Bị đơn: Ông Nguyễn Hữu Mộc – Chủ cơ sở Hoàng Tuấn; có địa chỉ tại B11/16 ấp 2- xã Bình Chánh, huyện Bình Chánh; do ông Trần Văn Mây làm đại diện theo Giấy ủy quyền ngày 17/5/2006 của ông Mộc; Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: 1- Ông Trần Văn Mây, địa chỉ: 718 B D20 Hùng Vương, P13, quận 6, thành phố Hồ Chí Minh; 2- Bà Nguyễn Thị Ỷ, địa chỉ: khu phố 2, thị trấn Bến Lức, Long An. Bà Ỷ ủy quyền cho ông Trần Văn Mây theo Giấy ủy quyền ngày 18/5/2006. NHẬN THẤY Theo đơn khởi kiện (không đề ngày), lời trình bày của nguyên đơn và các tài liệu, chứng cứ do nguyên đơn xuất trình thì thấy: Ngày 01/8/1998, Công ty nông sản thực phẩm xuất khẩu Cần Thơ (sau đây gọi tắt là Công ty nông sản Cần Thơ) – Bên A ký với ông Trần Văn Mây (với tư cách Chủ cơ sở Hoàng Tuấn) Hợp đồng hợp tác chế biến nấm rơm muối xuất khẩu số 121/KH 98 với nội dung chính (tóm tắt) như sau: Bên A có trách nhiệm: “…Chuẩn bị mặt bằng để chế biến nấm rơm muối xuất khẩu; ký hợp đồng xuất khẩu; tổ chức bộ máy quản lý…; tổ chức giao nhận xuất hàng tại cảng; vay hộ vốn lưu động để thanh toán theo tiến độ mua nấm rơm nguyên liệu mỗi ngày trên cơ sở hợp đồng xuất khẩu đã ký. Khi bắt đầu sản xuất, bên A có thể ứng trước tiền hàng tương đương với giá trị 02 container hàng để bên B mua nguyên liệu (mua dự trữ ban đầu) chờ ký hợp đồng xuất…”; - Bên B (Cơ sở Hoàng Tuấn) có trách nhiệm: “…Tổ chức thu mua nguyên liệu, chịu trách nhiệm về giá mua, chất lượng nguyên liệu hao hụt gia công và chất lượng, số lượng hàng thành phẩm xuất khẩu, tự bỏ vốn đầu tư trang thiết bị để phục vụ cho chế biến nấm rơm muối xuất khẩu; chịu trách nhiệm tìm khách hàng nước ngoài mua hàng, đàm phán giá xuất khẩu để bên A trực tiếp ký Hợp đồng xuất khẩu và nếu chất lượng hàng xuất khẩu không đạt yêu cầu bị khách hàng giảm giá hoặc trả lại hàng thì bên B phải hoàn trả lại cho bên A về tiền hàng và toàn bộ chi phí phát sinh của lô hàng này; trường hợp hàng đã sản xuất xong, lưu kho tối đa 90 ngày mà không có khách hàng mua thì bên B phải hoàn trả lại cho bên A toàn bộ tiền hàng và tất cả chi phí phát sinh có liên quan…; trong trường hợp bên B không có khả năng tiêu thụ được hàng đã sản xuất hoặc kinh doanh không có hiệu quả phải chấm dứt hợp đồng thì bên B phải thanh toán toàn bộ tiền vốn cho bên A trong thời hạn 30 ngày…; thời hạn hợp đồng là 3 năm kể từ ngày 01/8/1998 đến 01/8/2001…”. Ngoài ra, hai bên còn thỏa thuận trong trường hợp phát sinh mâu thuẫn không thỏa thuận được, thì hai bên đồng ý đưa ra Tòa Kinh tế tỉnh (nay là thành phố) Cần Thơ giải quyết. Trong quá trình thực hiện hợp đồng, Công ty nông sản Cần Thơ vay vốn ứng trước cho ông Mây để ông Mây tiến hành công việc theo thỏa thuận trong hợp đồng, nhưng do phía ông Mây bán hàng tiền thu vào không cân đối nên dẫn đến còn nợ Công ty nông sản Cần Thơ. Đến ngày 31/3/2002, Công ty nông sản Cần Thơ và ông Mây có Biên bản đối chiếu công nợ số 02/BB 2002 với số tiền ông Mây nợ là : 1.244.833.843 đồng. Công ty nông sản Cần Thơ nhiều lần gửi công văn yêu cầu ông Mây thanh toán tiền nợ cho Công ty nhưng ông Mây không đến. Nay Công ty nông sản Cần Thơ yêu cầu ông Mây phải có trách nhiệm trả cho Công ty số tiền nợ gốc là 1.244.833.843 đồng cộng với lãi phát sinh từ số tiền trên tính từ tháng 4/2002 với lãi suất là 0,85%/tháng. Theo lời trình bày của ông Trần Văn Mây - đại diện bị đơn thì: Ông Nguyễn Hữu Mộc là dượng của ông Mây đứng ra xin giấy phép kinh doanh mang tên Cơ sở Hoàng Tuấn nhưng thực chất ông Mây là nguời quản lý cơ sở. Vì ông Mây có tay nghề và có khách nước ngoài nên Công ty nông sản Cần Thơ mới hợp tác với ông Mây với tư cách là nhân viên kỹ thuật của phân xưởng sản xuất chế biến nấm rơm muối xuất khẩu. Công ty nông sản Cần Thơ yêu cầu Ông ký Hợp đồng hợp tác mua chế biến nấm rơm muối xuất khẩu số 121/KH98 ngày 01/8/1998 thì Công ty mới ứng vốn cho phân xưởng sản xuất chứ không phải ứng cho Cơ sở Hoàng Tuấn. Anh Lý và anh Thương là người của Công ty nông sản Cần Thơ giao tiền cho Ông để tiến hành thu mua sản xuất nấm rơm cho phân xưởng. Hàng xuất là do Công ty nông sản Cần Thơ quản lý, xuất hóa đơn; các hợp đồng mua bán với đối tác nước ngoài đều do Công ty nông sản Cần Thơ theo dõi thu tiền (BL 351). Ngày 01/8/1998, Công ty nông sản Cần Thơ yêu cầu Ông ký biên bản với số công nợ 1.403.593.843 đồng; các khoản kê ra đúng như thực tế nhưng là do lỗi của Công ty; nhưng vì vẫn muốn hợp tác để giải quyết vấn đề này nên Ông đã ký vào biên bản để được Công ty tiếp tục ứng vốn. Biên bản đối chiếu công nợ số 02/BB 2002 ngày 31/3/2002 là do Ông ký, số nợ đúng với thực tế nhưng không phải Ông nợ Công ty mà là nợ của bên nước ngoài và hàng tồn, cộng với khoản lãi ngân hàng, thực chất hàng tháng Công ty nông sản Cần Thơ yêu cầu Ông ký biên bản như vậy. Sau khi thụ lý vụ án, ngày 11/3/2004, Tòa án nhân dân tỉnh (nay là thành phố) Cần Thơ ra Quyết định số 04/QĐ- CVA chuyển vụ án đến Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh để giải quyết vì cho rằng vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh (BL 127). Tại đơn khởi kiện đề ngày 16/4/2004, Công ty nông sản thực phẩm xuất khẩu Cần Thơ yêu cầu Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh, thành phố Hồ Chí Minh buộc cá nhân ông Trần Văn Mây và vợ là bà Nguyễn Thị Ỷ trả số tiền còn nợ 1.244.833,843 đồng (BL 347). Tại đơn khởi kiện đề ngày 10/9/2004, Công ty nông sản thực phẩm xuất khẩu Cần Thơ yêu cầu buộc ông Mây trả số tiền nợ gốc là 877.863.924 đồng và tiền lãi theo mức 0,85%/tháng kể từ tháng 4/2002 (BL 346). Ngày 14/3/2005, Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh, thành phố Hồ Chí Minh có Công văn số 46/CVTA chuyển hồ sơ vụ án đến Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh giải quyết với lý do người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là Công ty YUAN_JEN_SHINE CORP có trụ sở ở nước ngoài. Ngày 21/7/2005, Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh, thành phố Hồ Chí Minh có Quyết định số 09/2005/DS-ST chuyển vụ án đến Tòa án nhân dân quận 6 thành phố Hồ Chí Minh giải quyết theo thẩm quyền với lý do bị đơn hiện đang cư trú tại 718b đường Hùng vương, phường 13 quận 6, thành phố Hồ Chí Minh (BL. 373). Ngày 28/12/2005, Tòa án nhân dân quận 6, thành phố Hồ Chí Minh có Quyết định số 03/2005/CVA.KDTM-ST chuyển vụ án đến Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh để giải quyết theo thẩm quyền. Ngày 30/12/2005, Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh thụ lý vụ án. Ngày 15/3/2006, Công ty nông sản Cần Thơ có đơn khởi kiện Cơ sở Hoàng Tuấn, do ông Nguyễn Hữu Mộc làm Chủ cơ sở và người liên quan là ông Trần Văn Mây và bà Nguyễn Thị Ỷ với yêu cầu Tòa án xem xét hủy Hợp đồng số 121/KH98 ngày 01/8/1998 và xem xét trách nhiệm của ông Trần Văn Mây trong việc nhận tiền của Công ty nông sản Cần Thơ, buộc gia đình ông Mây, bà Ỷ phải trả cho Công ty số tiền 1.244.833.843 đồng và tiền lãi theo lãi suất nợ quá hạn nêu trên kể từ tháng 4/2002 (BL 538). Tại Bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số 595/2006/KDTM-ST ngày 27/11/2006, Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh quyết định: “… Chấp nhận một phần yêu cầu của nguyên đơn Tuyên bố Hợp đồng hợp tác mua chế biến nấm rơm muối xuất khẩu số 121/KH.98 ngày 01/8/1998 giữa Công ty nông sản thực phẩm xuất khẩu Cần Thơ và cơ sở Hoàng Tuấn bị vô hiệu toàn bộ. Đình chỉ giải quyết đối với yêu cầu đòi nợ của Công ty nông sản thực phẩm xuất khẩu Cần Thơ đối với ông Trần Văn Mây và bà Nguyễn Thị Ỷ…” Ngày 07/12/2006, Công ty nông sản Cần Thơ có đơn kháng cáo toàn bộ bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm nêu trên. Tại Bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm số 52/2007/KTPT ngày 07/6/2007, Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh quyết định: “…Bác kháng cáo và giữ nguyên bản án sơ thẩm về việc đình chỉ giải quyết vụ án dân sự, đối với yêu cầu đòi nợ. Tuyên xử: Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là Công ty nông sản thực phẩm xuất khẩu Cần Thơ; Đình chỉ giải quyết vụ án dân sự về yêu cầu đòi nợ của Công ty nông sản thực phẩm xuất khẩu Cần Thơ đối với ông Trần Văn Mây và bà Nguyễn Thị Ỷ …” Ngày 28/8/2007, Công ty nông sản Cần Thơ có đơn đề nghị xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm đối với cả hai bản án nêu trên. Tại Quyết định số 07/2009/KDTM-KN-TKT ngày 31/3/2009, Chánh án Toà án nhân dân tối cao đã kháng nghị Bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm số 52/2007/KDTM-PT ngày 07/6/2007 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh; đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm theo hướng hủy Bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số 595/2006/KDTM-ST ngày 27/11/2006 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh và Bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm số 52/2007/KDTM-PT ngày 07/6/2007 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật. Tại kết luận số 18/KL-VKSTC-V12 ngày 02/6/2009 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao và tại phiên toà giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã hoàn toàn nhất trí với Quyết định kháng nghị số 07/2009/ KDTM-KN-TKT ngày 31/3/2009 của Chánh án Toà án nhân dân tối cao đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm theo hướng hủy Bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số 595/2006/KDTM-ST ngày 27/11/2006 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh và Bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm số 52/2007/KDTM-PT ngày 07/6/2007 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật. XÉT THẤY Tại phiên tòa sơ thẩm, người đại diện hợp pháp của Công ty nông sản Cần Thơ cho rằng Hợp đồng hợp tác chế biến nấm rơm muối xuất khẩu số 121/KH.98 ngày 01/8/1998 giữa Công ty nông sản Cần Thơ và Cơ sở Hoàng Tuấn là vô hiệu do ông Trần Văn Mây không có tư cách ký hợp đồng. Nội dung của hợp đồng là có, việc nhận tiền, thu mua nấm rơm do ông Mây nhận, ông Mây có biên bản xác nhận công nợ, do đó Công ty yêu cầu ông Mây bà Ỷ có trách nhiệm trả lại tiền (BL587). Theo các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án thì ngày 01/8/1998, ông Trần Văn Mây (với tư cách Chủ Cơ sở Hoàng Tuấn) và Công ty nông sản Cần Thơ ký kết Hợp đồng hợp tác chế biến nấm rơm muối xuất khẩu số 121/KH.98, nhưng theo Giấy phép kinh doanh số 110/GP-UB ngày 09/7/1996 do Ủy ban nhân dân huyện Bình Chánh, thành phố Hồ Chí Minh cấp cho Cơ sở Hoàng Tuấn, thì ông Nguyễn Hữu Mộc mới là Chủ cơ sở này. Ông Trần Văn Mây không phải là Chủ Cơ sở Hoàng Tuấn nhưng lại ký kết hợp đồng hợp tác chế biến nấm rơm muối xuất khẩu với Công ty nông sản Cần Thơ với tư cách là Chủ cơ sở Hoàng Tuấn; trong khi ông Mộc khai ông chỉ đứng tên Chủ cơ sở dùm cho ông Mây, việc kinh doanh của ông Mây ông Mộc hoàn toàn không biết. Còn ông Mây cũng thừa nhận Ông thực chất là người quản lý Cơ sở Hoàng Tuấn. Tại phiên toà sơ thẩm, ông Mây cũng thừa nhận khi ký hợp đồng Ông không được ông Mộc uỷ quyền; việc Ông ký hợp đồng chỉ là hình thức để thành lập phân xưởng nấm rơm xuất khẩu; Ông chỉ là người làm công trong phân xưởng sản xuất chế biến nấm rơm do Công ty nông sản Cần Thơ thành lập; việc đối chiếu công nợ là hoạt động bình thường của phân xưởng, ông ký đối chiếu công nợ với tư cách là nhân viên kỹ thuật của phân xưởng; Công ty nông sản Cần Thơ dựa vào các biên bản đối chiếu công nợ để buộc Ông thanh toán thực tế Ông không được nhận, số tiền này là tiền lỗ, tiền hàng tồn, tiền nợ của khách hàng nước ngoài, tiền lãi suất ngân hàng... của phân xưởng... (BL586, 587). Tòa án các cấp sơ thẩm và phúc thẩm chưa xác minh làm rõ bản chất của việc thành lập và hoạt động của Cơ sở Hoàng Tuấn; Tại sao ông Mộc lại giao Giấy phép kinh doanh cho ông Mây? Ông Nguyễn Hữu Mộc có biết việc ông Trần Văn Mây ký kết và thực hiện Hợp đồng hợp tác chế biến nấm rơm muối xuất khẩu số 121/KH.98 ngày 01/8/1998 không? Tòa án các cấp sơ thẩm và phúc thẩm căn cứ điểm e khoản 1 Điều 168, khoản 2 Điều 192 Bộ luật tố tụng dân sự tuyên bố Hợp đồng hợp tác chế biến nấm rơm muối xuất khẩu số 121/KH.98 ngày 01/8/1998 giữa ông Mây với tư cách chủ Cơ sở Hoàng Tuấn và Công ty nông sản Cần Thơ bị vô hiệu toàn bộ với lý do: “…ông Trần Văn Mây không có tư cách đại diện của ông Nguyễn Hữu Mộc – Chủ Cơ sở Hoàng Tuấn để ký hợp đồng… Các biên bản gọi là đối chiếu công nợ giữa phân xưởng và Công ty là tài liệu về hạch toán nội bộ của Công ty, không có giá trị về nghĩa vụ pháp lý đối với Cơ sở Hoàng Tuấn do ông Nguyễn Hữu Mộc làm chủ, cũng như không có nghĩa vụ pháp lý đối với ông Trần Văn Mây với tư cách công dân độc lập. Đó là công nợ giữa phân xưởng với Công ty… nên Công ty không có quyền khởi kiện…” (nhận định của bản án sơ thẩm); hoặc “…số tiền nợ là 1.244.833.843 đồng mà Công ty nông sản thực phẩm xuất khẩu Cần thơ có đơn khởi kiện đòi ông Trần Văn Mây (Cơ sở Hoàng Tuấn)…thực chất đây không phải số tiền mà Công ty…đã xuất chi tạm ứng cho người nhận là ông Trần Văn Mây, mà đây là số tiền thua lỗ của phân xưởng… Ông Trần Văn Mây chỉ là người có tay nghề, được phân xưởng… phân công phụ trách kỹ thuật…Còn các Biên bản đối chất công nợ… thực chất là tài liệu hạch toán nội bộ của Công ty…, không có nghĩa vụ pháp lý đối với ông Trần Văn Mây…Do là công nợ giữa phân xưởng… với Công ty…là hạch toán nội bộ Công ty nên Công ty không có quyền khởi kiện…” (nhận định của bản án phúc thẩm) là chưa đủ căn cứ vững chắc và không đúng pháp luật. Trong hồ sơ vụ án có nhiều tài liệu (từ BL 21 đến BL 316) thể hiện việc ông Mây với tư cách Chủ cơ sở Hoàng Tuấn đã trực tiếp hoặc ký Giấy giới thiệu cho các ông Trần Hữu Sử và Nguyễn Văn Tính đến Công ty nông sản Cần Thơ nhận tiền tạm ứng mua nguyên liệu. Sau đó, đã nhiều lần xác nhận công nợ với tư cách là một bên của hợp đồng. Vì vậy, Công ty nông sản Cần Thơ có quyền khởi kiện Cơ sở Hoàng Tuấn và ông Mây theo hợp đồng. Dù hợp đồng có bị vô hiệu hay không thì cũng phải thanh lý, giải quyết hậu quả của việc thực hiện hợp đồng. Tòa án cấp sơ thẩm tuyên bố Hợp đồng hợp tác chế biến nấm rơm muối xuất khẩu số 121/KH.98 ngày 01/8/1998 giữa Công ty nông sản Cần Thơ và Cơ sở Hoàng Tuấn bị vô hiệu toàn bộ nhưng không giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu mà đình chỉ việc giải quyết vụ án đối với yêu cầu đòi nợ của Công ty nông sản Cần Thơ đối với ông Trần Văn Mây và bà Nguyễn Thị Ỷ là không đúng pháp luật. Trong trường hợp có căn cứ để Tòa án tuyên bố Hợp đồng hợp tác chế biến nấm rơm muối xuất khẩu số 121/KH.98 là vô hiệu thì cũng cần phải xem xét, giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu. Khi xét xử phúc thẩm, Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh đã không phát hiện ra sai lầm của Toà án cấp sơ thẩm, mà vẫn quyết định: “... giữ nguyên bản án sơ thẩm về việc đình chỉ giải quyết vụ án dân sự, đối với yêu cầu đòi nợ” và tuyên xử: “Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là Công ty nông sản thực phẩm xuất khẩu Cần Thơ; Đình chỉ giải quyết vụ án dân sự về yêu cầu đòi nợ của Công ty nông sản thực phẩm xuất khẩu Cần Thơ đối với ông Trần Văn Mây và bà Nguyễn Thị Ỷ …” cũng là không đúng. Bởi các lẽ trên; căn cứ vào khoản 3 Điều 291; khoản 3 Điều 297; khoản 1, 2 Điều 299 của Bộ luật tố tụng dân sự, QUYẾT ĐỊNH Hủy Bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số 595/2006/KDTM-ST ngày 27/11/2006 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh và bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm số 52/2007/KDTM-PT ngày 07/6/2007 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật. Bài 4: Nhận xét của anh, chị về: - Quan hệ pháp luật về nội dung trong vụ án - Thành phần, tư cách đương sự trong vụ án - Chứng cứ và sử dụng chứng cứ trong vụ án Quyết định giám đốc thẩm về vụ án "tranh chấp về hợp đồng thuê mặt bằng" Ngày 11 tháng 12 năm 2007, tại trụ sở Tòa án nhân dân tối cao đã mở phiên tòa giám đốc thẩm xét xử vụ án kinh doanh thương mại tranh chấp về hợp đồng thuê mặt bằng giữa các đương sự: - Nguyên đơn: Công ty vật liệu xây dựng (nay là Công ty cổ phẩn địa ốc 7) Có trụ sở tại 211 Điện Biên Phủ, phường 6, quận 3, thành phố Hồ Chí Minh; có ông Phan Đức Linh đại diện theo giấy ủy quyền ngày 09/8/2006 của ông Vũ San, Tổng giám đốc Công ty. - Bị đơn: Bà Liên Muối Kía – chủ Doanh nghiệp tư nhân nông lâm sản Ánh Sáng. Địa chỉ: 154 Phạm Đình Hổ, phường 2, quận 6, thành phố Hồ Chí Minh; do ông Trầm Sang đại diện theo giấy ủy quyền ngày 26/7/2006 của bà Liên Muối Kía. NHẬN THẤY Theo đơn khởi kiện đề ngày 05/4/2004 của Công ty vật liệu xây dựng (nay là Công ty cổ phần địa ốc 7) và các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án thì: ngày 22/02/1991 Công ty vật liệu xây dựng và Xí nghiệp tư doanh Ánh Sáng (nay là Doanh nghiệp tư nhân nông lâm sản Ánh Sáng) ký hợp đồng số 14 với nội dung: Công ty vật liệu xây dựng cho Doanh nghiệp tư nhân nông lâm sản Ánh Sáng thuê mặt bằng nhà xưởng tại số 35 khu phố 1, thị trấn An Lạc, huyện Bình Chánh, thành phố Hồ Chí Minh. Thời hạn thuê là 6 năm. Giá thuê là 21 chỉ vàng SJC/tháng, thanh toán bằng tiền mặt 6 tháng một lần; nếu chậm trả phải chịu lãi 0,4% tháng. Hợp đồng được giám đốc Sở nhà đất duyệt. Thực hiện hợp đồng trên Doanh nghiệp tư nhân nông lâm sản Ánh Sáng đã nhận mặt bằng nhà xưởng để sử dụng và sản xuất, nhưng từ tháng 8/1993 Doanh nghiệp tư nhân nông lâm sản Ánh Sáng không trả tiền thuê mặt bằng hàng tháng. Ngày 21/10/1993, Doanh nghiệp tư nhân nông lâm sản Ánh Sáng có văn bản xác định sẽ ngưng trả tiền mặt bằng để chờ ý kiến các ban ngành và Thanh tra thành phố Hồ Chí Minh. Ngày 12/9/1994 Công ty vật liệu xây dựng đã nộp đơn khởi kiện số 131 đến Tòa kinh tế Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh để khởi kiện yêu cầu Doanh nghiệp tư nhân nông lâm sản Ánh Sáng phải trả tiền thuê nhà tính đến ngày 12/9/1994 là 292 chỉ vàng SJC. Ngày 06/10/1994 Tòa kinh tế Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh có văn bản số 12/TKT xác định: “Được biết những vấn đề liên quan đến vụ tranh chấp này cũng được Thanh tra thành phố Hồ Chí Minh tiến hành thanh tra nhưng đến nay chưa có kết luận cuối cùng. Để đảm bảo việc giải quyết trên đúng pháp luật, Tòa kinh tế Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh sẽ thụ lý và giải quyết khi có kết luận chính thức của Thanh tra thành phố Hồ Chí Minh”. Tại Kết luận thanh tra số 199/KL-TTr ngày 14/5/2003 của Thanh tra thành phố Hồ Chí Minh và công văn số 6968/UB-ĐT ngày 31/12/2003 của Ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh có chỉ đạo: “Tổng công ty địa ốc Sài Gòn chịu trách nhiệm thu hồi nợ của Doanh nghiệp tư nhân nông lâm sản Ánh Sáng... chỉ đạo Công ty vật liệu xây dựng tiếp tục khởi kiện Doanh nghiệp tự nhân nông lâm sản Ánh Sáng tại Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh để thu hồi một số nợ”. Do đó ngày 05/4/2004 nguyên đơn tiếp tục có đơn khởi kiện yêu cầu Doanh nghiệp tư nhân nông lâm sản Ánh Sáng phải trả số nợ tiền thuê mặt bằng tính đến thời điểm khởi kiện là 3.728 chỉ vàng SJC và lãi chậm trả phát sinh là 1.040 chỉ vàng SJC (0,6%/tháng). Tại bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 147/2006/KDTM-ST ngày 19/4/2006 Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh quyết định: Chấp nhận một phần yêu cầu của Công ty cổ phần địa ốc 7, buộc bà Liên Muối Kía chủ Doanh nghiệp tư nhân nông lâm sản Ánh Sáng phải trả cho Công ty cổ phần địa ốc 7 số tiền thuê mặt bằng - nhà xưởng là 3.420 chỉ vàng SJC. Trong đó có nợ tiền thuê mặt bằng là 2.772 chỉ vàng SJC và tiền lãi chậm trả là 630 chỉ. Ngoài ra Tòa án cấp sơ thẩm còn tuyên phần án phí, lãi suất do chậm thi hành án và quyền kháng cáo theo luật định. Ngày 07 tháng 5 năm 2006, bà Liên Muối Kía có đơn kháng cáo yêu cầu xem xét lại vụ án. Tại bản án kinh doanh thương mại phúc thẩm số 100/2006/KDTM-PT ngày 05/10/2006, Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh quyết định: Giữ nguyên bản án sơ thẩm. Sau khi vụ án được xét xử phúc thẩm bà Liên Muối Kía có đơn khiếu nại đề nghị xem xét lại vụ án theo thủ tục giám đốc thẩm. Tại Kháng nghị số 13/2007/KN-AKT ngày 11/7/2007 đối với bản án kinh doanh thương mại phúc thẩm số 100/2006/KDTM-PT ngày 05/10/2006 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao nhận định: Việc xác định thời hiệu khởi kiện và căn cứ Điều 31 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế và khoản 3 Điều 159 Bộ luật tố tụng dân sự để áp dụng thời hiệu cho vụ kiện này là chưa chính xác. Tòa án các cấp cần xem xét lại vấn đề này. Hợp đồng số 14 ngày 22/02/1991 giữa Công ty vật liệu xây dựng được ký với Doanh nghiệp tư nhân nông lâm sản Ánh Sáng vi phạm điểm a khoản 1, Điều 8 Pháp lệnh hợp đồng kinh tế: “Nội dung hợp đồng kinh tế vi phạm pháp luật”. Do vậy hợp đồng số 14 bị vô hiệu toàn bộ, vụ án phải được giải quyết theo quy định tại Điều 39 Pháp lệnh hợp đồng kinh tế ngày 25/9/1989 của Hội đồng Nhà nước. Việc Tòa án cấp sơ thẩm đã buộc Doanh nghiệp tư nhân nông lâm sản Ánh Sáng trả toàn bộ tiền thuê mặt bằng cả gốc và lãi là không đúng theo quy định của pháp luật. Ngoài ra trong quá trình xảy ra tranh chấp giữa các bên, ngày 20/9/2000 Ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh có Quyết định 6368/UB thu hồi mặt bằng nhà xưởng số 35 Hương lộ 5 Bình Chánh, Quyết định này đã được xét xử bằng một vụ án hành chính. Do đó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao xét xử theo hướng hủy bản án sơ thẩm và phúc thẩm, giao hồ so cho Tòa án cấp sơ thẩm xét xử lại theo quy định chung của pháp luật. Tại phiên tòa giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao nhận định thời hiệu khởi kiện của vụ án vẫn còn, nên rút kháng nghị về phần này, còn các phần nội dung khác vẫn giữ nguyên như đã nêu trong kháng nghị. XÉT THẤY Theo hợp đồng cho thuê mặt bằng nhà xưởng số 14/HĐ ngày 22/02/1991 thì Xí nghiệp tư doanh Ánh Sáng (nay là Doanh nghiệp tư nhân Ánh Sáng) phải trả tiền thuê 6 tháng/1 lần; nhưng từ tháng 8/1993 Xí nghiệp tư nhân Ánh Sáng đã không trả tiền thuê mặt bằng và ngày 21-10-1993 có công văn về việc ngưng trả tiền thuê mặt bằng. Ngày 07/5/1994 Công ty vật liệu xây dựng (nay là Công ty cổ phần địa ốc 7) đã có đơn gửi Trọng tài kinh tế thành phố Hồ Chí Minh đề nghị giải quyết (BL99); Trong thời gian này các cơ quan Trọng tài kinh tế chuẩn bị giải thể, nên Trọng tài kinh tế thành phố Hồ Chí Minh không giải quyết. Ngày 12/9/1994, Công ty vật liệu xây dựng có đơn khởi kiện đề nghị Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh giải quyết (BL100). Tại Công văn số 12/TKT ngày 06/10/1994 Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh trả lời Công ty vật liệu xây dựng có nội dung do vụ việc đang được Thanh tra thành phố Hồ Chí Minh tiến hành thanh tra, Tòa kinh tế Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh sẽ thụ lý và giải quyết vụ án khi có kết luận chính thức của Thanh tra thành phố. Như vậy, đơn khởi kiện của Công ty vật liệu xây dựng nằm trong thời hiệu khởi kiện theo quy định tại Điều 31 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế và điểm 2 phần I Thông tư liên ngành số 04/TTLN ngày 07/01/1995 của Tòa án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế. Do quá trình thanh tra, vụ việc bị kéo dài, đến ngày 31/5/2004 Ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh ra Quyết định số 4265/QĐ-UB thu hồi đất. Ngày 05/4/2004, Công ty vật liệu xây dựng có đơn tiếp tục khởi kiện đến Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh. Lúc này Doanh nghiệp tư nhân Ánh Sáng vẫn đang quản lý chiếm dụng mặt bằng nhà xưởng mà chưa trả lại như thỏa thuận trong hợp đồng. Vì vậy Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh thụ lý vụ án là đúng pháp luật. Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã công nhận và rút kháng nghị về phần này là có căn cứ. Mặt bằng nhà xưởng mà Công ty vật liệu xây dựng cho Doanh nghiệp tư nhân Ánh Sáng thuê có nguồn gốc thuộc quyền sử dụng của Xí nghiệp vôi gạch sự trực thuộc Sở nhà đất thành phố Hồ Chí Minh. Tại Quyết định số 474/QĐ ngày 09/12/1987 Sở nhà đất thành phố Hồ Chí Minh giải thể Xí nghiệp vôi gạch sứ, giao toàn bộ cơ sở vật chất cho Xí nghiệp vật tư (BL57); Ngày 12/12/1988 Ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh có quyết định số 261/QĐ-UB thành lập Công ty vật liệu xây dựng trên cơ sở cúng cố và xây dựng Xí nghiệp vật tư. Theo quy định tại khoản 3 Điều 2 Quyết định này thì Công ty vật liệu xây dựng có quyền liên doanh, liên kết với các đơn vị kinh tế trong và ngoài nước để sản xuất vật liệu xây dựng và một số sản phẩm công nghiệp khác có liên quan đến ngành nhà đất (BL58). Ngày 22/02/1991 Công ty vật liệu xây dựng ký hợp đồng số 14/HĐ cho Doanh nghiệp tư nhân Ánh Sáng thuê mặt bằng nhà xưởng. Việc Công ty vật liệu xây dựng cho Doanh nghiệp tư nhân Ánh Sáng thuê mặt bằng nhà xưởng là sử dụng không đúng mục đích do Ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh quy định là liên doanh liên kết để sản xuất vật liệu xây dựng đã vi phạm quy định tại Điều 5 Luật đất đai năm 1987: “nhận đât được giao mà không sử dụng, sử dụng không đúng mục đích...”. Thanh tra thành phố Hồ Chí Minh đã có nhiều văn bản báo cáo, Ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh nhiều lần khẳng định Công ty vật liệu xây dựng ký hợp đồng cho Doanh nghiệp tư nhân Ánh Sáng thuê mặt bằng nhà xưởng tại số 35 khu phố 1, thị trấn An Lạc, huyện Bình Chánh, thành phố Hồ Chí Minh là vi phạm pháp luật. Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm đã xác định hợp đồng này có giá trị pháp lý là không đúng dẫn đến việc giải quyết tranh chấp là không đúng. Bởi các lẽ trên và căn cứ vào khoản 3 Điều 297; khoản 2 Điều 299 Bộ luật tố tụng dân sự. QUYẾT ĐỊNH Hủy bản án kinh doanh thương mại phúc thẩm số 100/2006/KDTM-PT ngày 05/10/2006 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh; giao hồ sơ vụ án cho Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật. Bài 5: Nhận xét của anh, chị về: - Quan hệ pháp luật về nội dung trong vụ án - Thành phần, tư cách đương sự trong vụ án - Chứng cứ và sử dụng chứng cứ trong vụ án Quyết định giám đốc thẩm về vụ án "tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa" Ngày 07 tháng 8 năm 2007, tại trụ sở Tòa án nhân dân tối cao đã mở phiên tòa giám đốc thẩm xét xử vụ án kinh doanh thương mại tranh chấp về hợp đồng mua bán hàng hóa giữa: 1- Nguyên đơn: Theo xác định của Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm là Doanh nghiệp tư nhân sản xuất thương mại Đông Hoa có trụ sở tại 39/17A Lũy Bán Bích, phường 20, quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh; có ông Bùi Quốc Thanh làm đại diện theo giấy ủy quyền ngày 28/11/2005 của bà Dương Thiết Hòn là Chủ doanh nghiệp. 2- Bị đơn: Công ty trách nhiệm hữu hạn Liên Hoa có trụ sở tại Lô số 4, đường số 5, nhóm CN4, khu công nghiệp Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh; có bà Nguyễn Thanh Vân làm đại diện theo giấy ủy quyền ngày 06/6/2005 của ông Yang Hui Sheng là Giám đốc Công ty. NHẬN THẤY Theo đơn khởi kiện đề ngày 05/5/2005 của bà Dương Thiết Hòn là chủ Doanh nghiệp tư nhân sản xuất thương mại Đông Hoa thì: Doanh nghiệp tư nhân sản xuất thương mại Đông Hoa (gọi tắt là Doanh nghiệp Đông Hoa) do bà Dương Thiết Hòn làm chủ doanh nghiệp được Sở kế hoạch và đầu tư thành phố Hồ Chí Minh cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh số 006716 ngày 06/12/1996 với số vốn đầu tư ban đầu 340.000.000 đồng; ngành nghề kinh doanh là sản xuất lắp ráp máy công cụ, phụ tùng xe gắn máy; thương mại và dịch vụ thương mại. Ngày 24/12/1999 Doanh nghiệp Đông Hoa cùng với ông Yang Hui Sheng, quốc tịch Đài Loan và 5 người Đài Loan khác thành lập Công ty liên doanh Liên Hoa để sản xuất phụ tùng xe gắn máy, được Ban quán lý khu chế xuất và công nghiệp thành phố Hồ Chí Minh cấp giấy phép đầu tư số 44/GP-KCN-HCM ngày 24/12/1999 với số vốn đầu tư và vốn pháp định là 700.000 USD; trong đó: Bên Việt Nam: Doanh nghiệp Đông Hoa góp 210.000 USD, chiếm 30% vốn pháp định gồm 150.000 USD bằng tiền mặt và 60.000 USD bằng máy móc, thiết bị. Bên nước ngoài: - Ông Yang, Hui Sheng góp 81.667 USD bằng tiền mặt, chiếm 11,66% vốn pháp định. - Ông Yang, Hui Tai góp 81.667 USD bằng tiền mặt, chiếm 11,66% vốn pháp định. - Ông Yang, Hui Che góp 81.667 USD bằng tiền mặt, chiếm 11,66% vốn pháp định. - Ông Yang, Hui Chi góp 81.667 USD bằng tiền mặt, chiếm 11,66% vốn pháp định. - Ông Yang, Kuo Chiang góp 81.667 USD bằng tiền mặt, chiếm 11,66% vốn pháp định. - Ông Yang, Kuo Feng góp 81.667 USD bằng tiền mặt, chiếm 11,66% vốn pháp định. Ngày 01/11/2000 bà Dương Thiết Hòn là chủ Doanh nghiệp Đông Hoa ký hợp đồng nhượng lại vốn đầu tư trong Công ty liên doanh Liên Hoa cho ông Yang, Kuo Chiang 70.000 USD để hưởng hoa hồng 1.500 USD và cho ông Yang, Hui Sheng 140.000 USD để hưởng hoa hồng 3.000 USD (vì Doanh nghiệp Đông Hoa chưa thực hiện việc góp vốn vào Công ty liên doanh Liên Hoa). Ngày 01/11/2000 Hội đồng quản trị Công ty liên doanh Liên Hoa có Nghị quyết về việc chuyển đổi hình thực đầu tư và chuyển nhượng vốn với nội dung bên Việt Nam - Doanh nghiệp tư nhân sản xuất thương mại Đông Hoa chuyển nhượng toàn bộ số vốn phải góp là 210.000 USD cho hai chủ đầu tư là: - Ông Yang, Kuo Chiang: 70.000 USD. - Ông Yang, Hui Sheng: 140.000 USD. Đồng thời nhất trí để ông Yang, Hui Sheng là Tổng giám đốc Công ty liên doanh Liên Hoa tiến hành làm các thủ tục chuyển đổi từ Công ty liên doanh thành Công ty 100% vốn đầu tư nước ngoài với tên gọi là Công ty trách nhiệm hữu hạn Liên Hoa. Ngày 11/01/2001 Ban quản lý các khu chế xuất và công nghiệp thành phố Hồ Chí Minh cấp giấy phép đầu tư số 44A/GP-KCN-HCM cho Công ty trách nhiệm hữu hạn Liên Hoa 100% vốn nước ngoài. Trước đó, ngày 26/9/2000 giữa bà Dương Thiết Hòn, chủ Doanh nghiệp Đông Hoa và Công ty liên doanh Liên Hoa ký biên bản thỏa thuận với nội dung: Doanh nghiệp Đông Hoa nhượng lại phần vốn trong Công ty liên doanh Liên Hoa cho ông Yang, Hui Sheng và Yang, Kuo Chiang với các điều kiện sau: Khi công ty Liên Hoa bắt đầu hoạt động thì phải mua lại toàn bộ máy móc thiết bị và toàn bộ hàng tồn kho hiện có của Doanh nghiệp Đông Hoa. Từ thỏa thuận này, Doanh nghiệp Đông Hoa đã chuyển giao toàn bộ máy móc, thiết bị, xe cộ cho Công ty trách nhiệm hữu hạn Liên Hoa, được thể hiện qua 21 hóa đơn giá trị gia tăng sau đây: - Hóa đơn số 002063 ngày 31/8/2001 với số tiền: 89.985.000 đồng. - Hóa đơn số 002064 ngày 31/8/2001 với số tiền: 87.675.000 đồng. - Hóa đơn số 002066 ngày 31/8/2001 với số tiền: 262.500.000 đồng. - Hóa đơn số 002067 (không đề ngày) với số tiền: 87.570.000 đồng. - Hóa đơn số 002068 ngày 31/8/2001 với số tiền: 35.875.500 đồng. - Hóa đơn số 002069 ngày 31/8/2001 với số tiền: 435.750.000 đồng. - Hóa đơn số 002077 ngày 31/8/2001 với số tiền: 5.500.000 đồng. - Hóa đơn số 002078 ngày 31/8/2001 với số tiền: 6.300.000 đồng. - Hóa đơn số 002080 ngày 01/9/2001 với số tiền: 130.152.000 đồng. - Hóa đơn số 002081 ngày 01/9/2001 với số tiền: 4.928.000 đồng. - Hóa đơn số 002086 ngày 07/9/2001 với số tiền: 76.972.000 đồng. - Hóa đơn số 002087 ngày 07/9/2001 với số tiền: 195.689.000 đồng. - Hóa đơn số 002090 ngày 07/9/2001 với số tiền: 556.412.800 đồng. - Hóa đơn số 002091 ngày 07/9/2001 với số tiền: 232.168.000 đồng. - Hóa đơn số 002097 ngày 13/10/2001 với số tiền: 241.178.850 đồng. - Hóa đơn số 0020103 ngày 20/10/2001 với số tiền: 638.550 đồng. Số hóa đơn trên là chuyển giao máy móc, thiết bị. Còn 5 hóa đơn sau là tiền gia công xỉ mạ gồm: - Hóa đơn số 002092 ngày 21/9/2001 với số tiền: 859.056 đồng. - Hóa đơn số 002093 ngày 21/9/2001 với số tiền: 27.068.250 đồng. - Hóa đơn số 002094 ngày 21/9/2001 với số tiền: 39.725.400 đồng. - Hóa đơn số 002104 ngày 29/11/2001 với số tiền: 30.576.150 đồng. - Hóa đơn số 002105 ngày 29/11/2001 với số tiền: 34.600.000 đồng. Tổng cộng: 2.582.106.780 đồng Doanh nghiệp Đông Hoa yêu cầu Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh giải quyết, buộc Công ty trách nhiệm hữu hạn Liên Hoa phải trả số tiền trên và tiền lãi suât phát sinh. Phía bị đơn là Công ty trách nhiệm hữu hạn Liên Hoa trình bày: Công ty trách nhiệm hữu hạn Liên Hoa có nhận hàng theo 21 hóa đơn nêu trên với tổng giá trị là 2.582.106.780 đồng như nguyên đơn trình bày. Tuy nhiên, Công ty Liên Hoa đã thanh toán xong, không còn nợ Doanh nghiệp Đông Hoa. Mặt khác, việc đòi nợ này đã hết thời hiệu khởi kiện theo quy định của pháp luật. Tại bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 245/2005/KDTM-ST ngày 29/8/2005, Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh quyết định: 1- Chấp nhận một phần yêu cầu của nguyên đơn buộc Công ty trách nhiệm hữu hạn Liên Hoa phải thanh toán cho Doanh nghiệp tư nhân sản xuất thương mại Đông Hoa số tiền còn nợ theo 21 hóa đơn tài chính là 3.257.856.030 đồng; trong đó 2.319.616.786 đồng là tiền gốc và 938.249.244 đồnglà tiền lãi. 2- Bác yêu cầu của nguyên đơn về việc đòi Công ty trách nhiệm hữu hạn Liên Hoa thanh toán số tiền theo hóa đơn 002066 ngày 31/8/2001 có trị giá 262.500.000 đồng. Ngoài ra, Tòa án còn quyết định về án phí và tuyên bố quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật. Ngày 08/9/2005 Công ty trách nhiệm hữu hạn Liên Hoa kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm. Ngày 09/9/2005 Doanh nghiệp tư nhân sản xuất thương mại Đông Hoa có đơn kháng cáo xin xét xử lại phần quyết định đối với hóa đơn số 002066 ngày 31/8/2001 về mua bán xe ô tô trị giá 262.500.000 đồng. Tại bản án kinh doanh thương mại phúc thẩm số 91/2005/KDTM-PT ngày 29/11/2005, Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh quyết định giữ nguyên bản án sơ thẩm. Sau khi vụ án được xét xử phúc thẩm, ông Yang Hui Sheng là Giám đốc Công ty trách nhiệm hữu hạn Liên Hoa có nhiều đơn khiếu nại đề nghị xem xét lại vụ án theo thủ tục giám đốc thẩm và có đơn gửi Cơ quan cảnh sát điều tra Bộ Công an tố cáo ông Yang Kuo Chiang (Dương Quốc Cường) cấu kết với chị ruột là bà Dương Thiết Hòn chiếm đoạt tài sản của Công ty trách nhiệm hữu hạn Liên Hoa. Ngày 18/5/2006 Cơ quan cảnh sát điều tra Bộ Công an có Công văn số 296/C16B (P5) gửi Chánh án Tòa án nhân dân tối cao kèm theo hồ sơ vụ án đề nghị Chánh án Tòa án nhân dân tối cao xem xét lại vụ án theo thủ tục giám đốc thẩm. Tại Kháng nghị số 04/2007/KT-TK ngày 02/3/2007 Chánh án Tòa án nhân dân tối cao kháng nghị đối với bản án kinh doanh thương mại phúc thẩm số 91/2005/KDTM-PT ngày 29/11/2005 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh và đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm hủy bản án kinh doanh thương mại phúc thẩm nêu trên và bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 245/2005/KDTM-ST ngày 29/8/2005 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh để xét xử sơ thẩm lại vụ án theo đúng quy định của pháp luật. Tại Kết luận số 11/KLGĐT-KDTM ngày 15/6/2007, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao nhất trí với Kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao. Tại phiên tòa giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao giữ nguyên ý kiến tại Kết luận số 11/KLGĐT-KDTM ngày 15/6/2007 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao. XÉT THẤY 1- Về thủ tục tố tụng Theo quy định tại khoản 3 Điều 101 Luật doanh nghiệp năm 1999 (khoản 3 Điều 143 Luật doanh nghiệp năm 2005) thì chủ doanh nghiệp tư nhân là nguyên đơn, bị đơn hoặc người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trược Trọng tài hoặc Tòa án trong các tranh chấp liên quan đến doanh nghiệp. Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm xác định Doanh nghiệp tư nhân sản xuất, thương mại Đông Hoa là nguyên đơn trong vụ án là không đúng. Theo quy định tại Điều 45 Luật thương mại năm 1997 thì việc thỏa thuận mau bán máy móc, thiết bị ngày 26/9/2000 giữa Doanh nghiệp Đông Hoa và Công ty TNHH Liên Hoa là hành vi thương mại; do đó, quyền khởi kiện và thời hiệu khởi kiện trong vụ án này phải được giải quyết theo quy định tại Điều 241 và Điều 242 Luật thương mại năm 1997. Tại khoản 1 Điều 241 Luật thương mại năm 1997 quy định: “Thời hạn khiếu nại là thời hạn mà bên có quyền lợi bị vi phạm có quyền khiếu nại đối với bên vi phạm. Quá thời hạn khiếu nại, bên có quyền lợi bị vi phạm mất quyền khởi kiện tại Trọng tài, Tòa án có thẩm quyền”. Theo quy định tại điểm c, khoản 2 Điều 241 Luật thương mại năm 1997 và Nghị quyết số 746/2005/NQ-UBTVQH11 ngày 28/01/2005 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về việc giải thích điểm c khoản 2 Điều 241 Luật thương mại năm 1997 thì: “Thời hiệu khiếu nại về nghĩa vụ thanh toán là 3 tháng kể từ khi bên vi phạm phải hoàn thành nghĩa vụ theo hợp đồng”. Thực hiện Biên bản thỏa thuận giữa hai bên ngày 26/9/2000, Doanh nghiệp Đông Hoa đã lập 21 hóa đơn giá trị gia tăng từ ngày 03/8/2001 đến ngày 29/11/2001 với hình thức thanh toán là 30 ngày. Tại đơn khởi kiện, tại phiên tòa sơ thẩm và tại phiên tòa phúc thẩm, Doanh nghiệp Đông Hoa đòi Công ty trách nhiệm hữu hạn Liên Hoa phải trả tiền gốc là 2.582.106.780 đồng và tiền lại từ tháng 12/2001 là 938.249.244 đồng; Doanh nghiệp Đông Hoa cho rằng tại hóa đơn giá trị gia tăng đã ghi thời hạn thanh toán là 30 ngày, nhưng Công ty trách nhiệm hữu hạn Liên Hoa đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán nên phải trả lãi. Công ty trách nhiệm hữu hạn Liên Hoa không phản đối hình thức thanh toán đó mà cho rằng đã thanh toán xong cho Doanh nghiệp Đông Hoa. Tuy nhiên, trong hồ so vụ án không có tài liệu nào thể hiện kể từ ngày lập hóa đơn bán hàng cuối cùng là 29/11/2001 đến khi khởi kiện Doanh nghiệp Đông Hoa đã có khiếu nại hay đòi tiền đối với Công ty trách nhiệm hữu hạn Liên Hoa. Ngày 05/5/2005 bà Dương Thiết Hòn là chủ Doanh nghiệp Đông Hoa mới có đơn khởi kiện tới Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh. Như vậy, Doanh nghiệp Đông Hoa đã bị mất quyền khởi kiện tại Tòa án theo quy định tại khoản 1 Điều 241 Luật thương mại năm 1997 từ ngày 01/4/2002; đồng thời, thời hiệu khởi kiện của vụ án cũng đã hết. Mặt khác, Doanh nghiệp Đông Hoa đã giải thể từ ngày 01/02/2002; do đó, Doanh nghiệp này đã không còn tư cách để tham gia tố tụng trong vụ án này được. Lẽ ra Tòa án cấp sơ thẩm phải trả lại đơn cho đương sự theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 168 Bộ luật tố tụng dân sự, nhưng lại thụ lý vụ án và đã quyết định chấp nhận đơn khởi kiện ngày 05/5/2005 của Doanh nghiệp Đông Hoa là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng. Tòa án cấp phúc thẩm không phát hiện được những sai lầm này của Tòa án cấp sơ thẩm và vẫn giữ nguyên bản án so thẩm cũng là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng. 2- Về nội dung Trong trường hợp thời hiệu khởi kiện vụ án vẫn còn thì nội dung vụ án theo các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án do Cơ quan cảnh sát điều tra Bộ Công an đã điều tra, xác minh thu thập được tại Ngân hàng ChinhFon; Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam chi nhánh Tân Thuận, thành phố Hồ Chí Minh; Cục thuế thành phố Hồ Chí Minh và lời khai của các đương sự tại Cơ quan cảnh sát điều tra cho thấy: Khi thành lập Công ty liên doanh Liên Hoa, Doanh nghiệp Đông Hoa đăng ký vốn góp trong Công ty liên doanh 210.000 USD bằng trang thiết bị máy móc và tiền mặt, chiếm 30% vốn pháp định. Bà Hòn chủ Doanh nghiệp Đông Hoa không có tiền góp vốn, còn trang thiết bị máy móc có nguồn gốc là do Công ty StartTrading của ông Yang Hui Sheng chuyển qua. Ngày 01/11/2000 bà Dương Thiết Hòn đã ký văn bản xác lập về việc chuyển nhượng phần vốn đầu tư phải góp của Doanh nghiệp Đông Hoa cho ông Yang Huo Chiang (Dương Quốc Cường) là em ruột bà Hòn và ông Yang Hui Sheng để được nhận 4500 USD tiền hoa hồng (BL 83). Tại văn bản này đã ghi rõ Doanh nghiệp Đông Hoa chưa góp vốn vào Công ty liên doanh Liên Hoa. Cùng ngày 01/11/2000 ông Yang Hui Sheng có công văn gửi Ban quản lý các Khu chế xuất và công nghiệp thành phố Hồ Chí Minh xin chuyển đổi Công ty liên loanh Liên Hoa thành Công ty trách nhiệm hữu hạn Liên Hoa với hình thức 100% vốn nước ngoài (BL 85). Ngày 11/01/2001 Ban quản lý khu Chế xuất và Công nghiệp thành phố Hồ Chí Minh cấp giấy phép đầu tư số 44A/GP-KCN-HCM chuẩn y việc chuyển nhượng quyền lợi và nghĩa vụ của Doanh nghiệp Đông Hoa cho Công ty trách nhiệm hữu hạn Liên Hoa 100% vốn nước ngoài (BL 90). Ngày 01/02/2002, Doanh nghiệp Đông Hoa có Quyết định số 01/02/QĐ giải thể Doanh nghiệp (BL 203). Trong quá trình làm thủ tục thành lập Công ty liên doanh Liên Hoa sau đó chuyển thành Công ty trách nhiệm hữu hạn Liên Hoa 100% vốn nước ngoài giữa Doanh nghiệp Đông Hoa và ông Yang Hui Sheng đã lập biên bản thỏa thuận ngày 26/9/2000 với nội dung: khi Công ty trách nhiệm hữu hạn Liên Hoa đi vào hoạt động thì phải mua lại toàn bộ máy móc, thiết bị và hàng tồn kho của Doanh nghiệp Đông Hoa. Trên cơ sở đó Doanh nghiệp Đông Hoa đã lập 21 hóa đơn giá trị gia tăng bán cho Công ty trách nhiệm hữu hạn Liên Hoa các trang thiết bị, máy móc và hàng hóa tồn kho với thời hạn thanh toán là 30 ngày. Ngày 10/9/2001 bà Ong Bích Du, thủ quỹ của Doanh nghiệp Đông Hoa (cũng đồng thời kiêm thủ quỹ của Công ty liên doanh Liên Hoa) có rút 120.000 USD tại tài khoản của Công ty Liên Hoa mở tại Ngân hàng ChinhFon (BL 370), được Ngân hàng này trả bằng tiền mặt 1.800.480.000 đồng; cùng ngày bà Ong Bích Du đã nộp đúng số tiền này vào tài khoản của Doanh nghiệp Đông Hoa mở tại Ngân hàng Vietcombank chi nhánh Tân Thuận (BL 379). Ngày 24/9/2001 rút tiếp 100.000 USD của Công ty Liên Hoa và được nộp vào tài khoản của Doanh nghiệp Đông Hoa cũng theo phương thức trên. Đồng thời, ngày 24/9/2001 Kế toán trưởng Phạm Thị Thúy Oanh và thủ quỹ Ong Bích Du đã làm thủ tục mua 167.000 USD của Ngân hàng Vietcombank chi nhánh Tân Thuận (tương ứng 2.507.543.000 đồng) chuyển trả cho Công ty StartTrading của ông Yang Hui Sheng. Việc nhập quỹ và trả nợ này của Doanh nghiệp Đông Hoa còn được thể hiện trên sổ quỹ của Doanh nghiệp Đông Hoa (BL 303). Khi giải thể Doanh nghiệp Đông Hoa trên sổ sách chứng từ và kết quả kiểm tra của Cục thuế thành phố Hồ Chí Minh không có khoản nợ của Công ty trách nhiệm hữu hạn Liên Hoa. Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm không xem xét, đánh giá toàn diện diễn biến xuất xứ cảu các trang thiết bị, máy móc hàng hóa được thể hiện qua 21 hóa đơn nêu trên, đến việc được chuyển giao sang cho Công ty trách nhiệm hữu hạn Liên Hoa, cũng như việc thanh toán được rút tiền từ tài khoản của Công ty trách nhiệm hữu hạn Liên Hoa tại ngân hàng ChinhFon, rồi được nhập vào tài khoản của Doanh nghiệp Đông Hoa tại Ngân hàng ngoại thương Việt Nam chi nhánh Tân Thuận; sau đó, lại được chuyển trả cho Công ty StartTrading (Đài Loan) mà chỉ xem xét ở công đoạn hai bên lập hợp đồng mua bán và xuất hóa đơn bán hàng nên quyết định buộc Công ty trách nhiệm hữu hạn Liên Hoa phải trả cho Doanh nghiệp Đông Hoa số tiền qua 21 hóa đơn giá trị gia tăng là 3.257.856.030 đồng (gồm 2.319.616.786 đồng tiền gốc + 938.249.244 đồng tiền lãi) là chưa có căn cứ. Bởi các lẽ trên và căn cứ vào khoản 3 Điều 297 và Điều 299 Bộ luật tố tụng dân sự, QUYẾT ĐỊNH Hủy bản án kinh doanh thương mại phúc thẩm số 91/2005/KDTM-PT ngày 29/11/2005 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh và bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 245/KDTM-ST ngày 29/8/2005 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh về vụ án tranh chấp về kinh doanh thương mại giữa nguyên đơn là Doanh nghiệp tư nhân sản xuất thương mại Đông Hoa và bị đơn là Công ty trách nhiệm hữu hạn Liên Hoa; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm lại vụ án theo đúng quy định của pháp luật. Chương 3: Phần 1: Nhận định sau đây đúng hay sai? Tại sao? Nêu căn cứ pháp lý? 1. Tất cả các yêu cầu về dân sự có yếu tố nước ngoài thì thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân cấp Tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương 2. Toà án nhân dân cấp huyện không có quyền giải quyết các yêu cầu về hôn nhân và gia đình có đương sự ở nước ngoài 3. Tất cả các Quyết định sơ thẩm giải quyết việc dân sự đều có thể bị các bên đương sự kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm 4. Đại diện Viện kiểm sát phải tham gia tất cả các phiên họp giải quyết việc dân sự 5. Hội thẩm nhân dân không tham gia phiên họp giải quyết việc dân sự 6. Người yêu cầu có quyền lựa chọn Tòa án để giải quyết việc dân sự 7. Không có thủ tục giám đốc thẩm đối với các quyết định giải quyết việc dân sự 8. Thời điểm thụ lý giải quyết việc dân sự là khi người yêu cầu giao nộp biên lai đóng tạm ứng lệ phí 9. Đơn yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam quyết định của Trọng tài nước ngoài phải gửi đến Tòa án nhân dân cấp tỉnh nơi người phải thi hành cư trú, làm việc hoặc nơi có tài sản giải quyết 10. Người yêu cầu vắng mặt lần thứ nhất thì Tòa án phải hoãn phiên họp giải quyết việc dân sự Phần 2: Bài tập Bài 1: Nhận xét của anh, chị về: - Quan hệ pháp luật về nội dung trong vụ án - Thành phần, tư cách đương sự trong vụ án - Chứng cứ và sử dụng chứng cứ trong vụ án Quyết định giám đốc thẩm về vụ án "tranh chấp về hợp đồng tín dụng" Ngày 08 /5/ 2007, tại trụ sở Tòa án nhân dân tối cao đã mở phiên tòa giám đốc thẩm xét xử vụ án tranh chấp về hợp đồng tín dụng giữa: 1. Nguyên đơn: Ngân hàng Công thương Việt Nam; Trụ sở tại: 108 Trần Hưng Đạo, quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội; Do bà Hoàng Thị Ngân (sinh năm 1961) - Phó giám đốc Chi nhánh 1 Ngân hàng Công thương Việt Nam (trụ sở chi nhánh tại số 79 Hàm Nghi, quận I, thành phố Hồ Chí Minh) đại diện theo Giấy ủy quyền số 106/UQ-NHCT 18 ngày 01/01/2005 của Tổng giám đốc Ngân hàng Công thương Việt Nam. 2. Bị đơn: Bà Nguyễn Thị Kim Lan (sinh năm 1955) - cá nhân có đang ký kinh doanh. Địa chỉ: 150XA Bến Chương Dương, quận I, thành phố Hồ Chí Minh. 3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Nguyễn Khuyến (sinh năm 1941); Bà Trần Thị Xuyên (sinh năm 1945) Điạh chỉ: 87T Đinh Tiên Hoàng, phường 3, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh. NHẬN THẤY Ngày 18/11/2001, Ngân hàng Công thương Việt Nam có đơn khởi kiện khách hàng là bà Nguyễn Thị Kim Lan (cá nhân có đăng ký kinh doanh) và người bảo lãnh là ông Nguyễn Khuyến và bà Trần Thị Kim Xuyên ra Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh để đòi số tiền nợ cả gốc và lãi còn của 7 khế ước ký từ ngày 11/4/1995 đến ngày 29/5/1995 và yêu cầu phát mại tài sản thế chấp của người bảo lãnh là ngôi nhà số 87T Đinh Tiên Hoàng, phường 3, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh để thanh toán. Tại Bản án kinh tế sơ thẩm số 88/KTST ngày 03/6/2002, Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh đã xử: Chấp nhận một phần yêu cầu của nguyên đơn: - Buộc bà Nguyễn Thị Kim Lan phải thanh oán cho Ngân hàng Công thương Việt Nam tổng cộng là 870.398.602 đồng, trong đó số tiền vốn vay còn nợ là 273.000.000 đồng và số nợ lãi là 633.398.602 đồng. - Hủy phần quyết định “bác yêu cầu của Ngân hàng Công thương Việt Nam đòi phát mãi tài sản thế chấp là ngôi nhà số 87T Đinh Tiên Hoàng thuộc quyền sở hữu của ông Nguyễn Khuyến và bà Trần Thị Xuyên. Ngân hàng Công thương Việt Nam có trách nhiệm hoàn trả giấy tờ chủ quyền nhà nói trên cho ông Nguyễn Khuyến và bà Trần Thị Xuyên”. Giao hồ sơ vụ án cho cấp sơ thẩm điều tra và xét xử lại theo quy định của pháp luật. Ngày 18/10/2002, Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh thụ lý lại phần bị hủy của vụ án và ra quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án để chờ kết quả giám định chữ ký của bà Trần Thị Xuyên trên “Giấy cam kết bảo lãnh tài sản thế chấp vay vốn ngân hàng” ký ngày 25/3/1995. Ngày 12/02/2004, sau khi cơ quan khoa học hình sự trả lời không đủ tài liệu để giám định, Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh thụ lý lại phần bị hủy của vụ án. 1. Theo trình bày của nguyên đơn (Ngân hàng Công thương Việt Nam) Năm 1993, ông Nguyễn Khuyến và bà Trần Thị Xuyên có thế chấp ngôi nhà số 87T Đinh Tiên Hoàng, phường 3, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh cho Ngân hàng Công thương Việt Nam để bảo lãnh cho bà Nguyễn thị Kim Lan vay của Ngân hàng 200 triệu đồng - “Giấy thế chấp tài sản” ký ngày 24/9/1993, có chứng nhận của Công chứng nhà nước. Hợp đồng tín dụng này đã được bà Lan thanh toán xong cả gốc và lãi cho Ngân hàng, nhưng Ngân hàng chưa hoàn trả các giấy tờ cho người bảo lãnh. Từ ngày 11/4/1995 đến ngày 29/5/1995, Ngân hàng Công thương Việt Nam lại cho bà Nguyễn Thị Kim Lan vay bằng 7 khế ước với tổng số tiền vay là 400 triệu đồng. Toàn bộ số tiền vay này được bảo đảm bằng tài sản thế chấp là ngôi nhà số 87T Đinh Tiên Hoàng, phường 3, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh thuộc sở hữu của hai vợ chồng người bảo lãnh là ông Nguyễn Khuyễn và bà Trần Thị Xuyên - thông qua giấy thế chấp có Công chứng nhà nước nhận ngày 24/9/1993 và Giấy cam kết bảo lãnh ngày 25/3/1995. Tại bản án kinh tế phúc thẩm số 39/KTPT ngày 06/9/2002, Tòa phúc thấm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh đã xử buộc bà Lan phải thanh toán cho Ngân hàng tổng cộng là 870.398.602 đồng, trong đo: Nợ gốc là: 237.000.000 đồng; Nợ lãi là: 633.398.602 đồng. Bản án đã có hiệu lực pháp luật, nhưng từ đó đến nay, bà Lan vẫn chưa thanh toán tiền cho Ngân hàng Công thương Việt Nam. Do bà Lan không có khả năng thanh toán nợ vay, nên Ngân hàng yêu cầu người bảo lãnh là ông Nguyễn Khuyến và bà Trần Thị Xuyên có nghĩa vụ trả nợ thay bằng việc phát mãi tài sản thế chấp là ngôi nhà số 87T Đinh Tiên Hoàng. 2. Theo trình bày của bị đơn (bà Nguyễn Thị Kim Lan): - Xác nhận còn nợ của Ngân hàng toàn bộ số tiền mà Bản án kinh tế phúc thẩm số 39/KTPT ngày 06/9/2002 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh đã xử: - Ông Nguyễn Khuyến và bà Trần Thị Xuyên thế chấp nhà có Công chứng nhà nước để đảm bảo số nợ vay cho bà trong hợp đồng vay vào năm 1993, bà đã thanh toán đầy đủ cho Ngân hàng; - Việc ký vào “Giấy cam kết bảo lãnh tài sản thế chấp để vay vốn ngân hàng” ngày 25/3/1995 là do Ngân hàng “nói là để lấy giấy tờ của nhà ông Khuyến và bà Xuyên ra”. Nghe Ngân hàng nói vậy bà đã ký tên vào dưới dòng chữ bên được bảo lãnh, bà không nhờ bảo lãnh. Vì vậy, bà yêu cầu không phát mãi ngôi nhà của ông Nguyễn Khuyến và bà Trần Thị Xuyên. 3. Theo trình bày của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan (ông Nguyễn Khuyến và bà Trần Thị Xuyên): - Năm 1993, vợ chồng tôi là Nguyễn Khuyến và Trần Thị Xuyên có ký để thế chấp căn nhà số 87T Đinh Tiên Hoàng để bảo lãnh cho bà Nguyễn Thị Kim lan vay 200 triệu đồng của Ngân hàng, có công chứng việc thế chấp. Hợp đồng này bà Lan đã thanh toán đầy đủ cho Ngân hàng, sau đó, chúng tôi không còn bảo lãnh có công chứng lần nào nữa, những lần sau này toàn do Ngân hàng và bà Lan làm bậy. - Ngày 25/3/1995, tôi đang họp ở cơ quan thì đại diện Ngân hàng và bà Nguyễn Thị Kim Lan đến và yêu cầu tôi ký vào “Giấy cam kết bảo lãnh tài sản thế chấp để vay vốn ngân hàng”, tôi có xem lướt qua nội dung và có ký vào dưới dòng chữ “Người cam kết thế chấp – chồng”. Tôi có nói: Về phần vợ tôi thì mang về nhà cho bà ấy ký. Sau này tôi được biết chữ ký “Xuyên” trong tờ giấy này không phải là chữ ký của vợ tôi. Vì vậy, vợ chồng tôi không chấp nhận nghĩa vụ bảo lãnh cho bà Nguyễn Thị Kim Lan, không chấp nhận yêu cầu của Nguyên đơn. Tại bản án sơ thẩm số 138/2006/KDTM-ST ngày 14/3/2006, Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh đã xử: Chấp nhận một phần yêu cầu của Ngân hàng Công thương Việt Nam – chi nhánh 1. Ông Nguyễn Khuyễn có nghĩa vụ bảo lãnh trả nợ thay cho bà Nguyễn Thị Kim Lan các nghĩa vụ trả nợ cho Ngân hàng Công thương Việt Nam – chi nhánh 1 theo Bản án sơ thẩm số 88/KTST ngày 03/6/2002 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh và Bản án phúc thẩm số 39/KTPT ngày 06/9/2002 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh vào thời điểm thi hành án. Ông Nguyễn Khuyến kháng cáo. Tại bản án kinh tế phúc thẩm số 63/2006/KT-PT ngày 13/7/2006 Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tói cao tại thành phố Hồ Chí Minh đã giữ nguyên các quyết định của bản án sơ thẩm số 138/2006/KDTM-ST ngày 14/4/2006 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh. Ngày 20/7/2006, ông Nguyễn Khuyến khiếu nại giám đốc thẩm, khẳng định: Từ năm 1994 đến 1997, không hề ký văn bản nào bảo lãnh thế chấp tài sản có công chứng cho bà Lan vay tiền của Ngân hàng Công thương Việt Nam mà chỉ ký vào đơn đề nghị năm 1997 cà các biên bản cuộc họp năm 1998, 1999 theo hướng dẫn của Ngân hàng nhằm giúp Ngân hàng đòi tiền của bà Lan. Vì vậy, xin được xem xét lại bản án phúc thẩm nngayf 13/7/2006 cho đúng bản chất sự việc. Tại Quyết định kháng nghị số 02/KN-AKT ngày 19/01/2007, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã nhận định: - Khoản vay 200 triệu đồng của bà Lan được ông Nguyễn Khuyến và bà Trần Thị Xuyên ký giấy bảo lãnh ngày 24/9/1993, bà Lan đã thanh toán đấy đủ cho Ngân hàng. - Giấy bảo lãnh ngày 25/3/1995 là bất hợp pháp vì: + Chỉ có một mình ông Nguyễn Khuyến ký; người khác ký tên của bà Xuyên vào giấy bảo lãnh để hợp pháp hóa. + Không được công chứng, không theo mẫu giấy bảo lãnh của Ngân hàng; + Không ghi rõ số tiền được bảo lãnh; - Bản chất là sự tùy tiện của Ngân hàng trong việc cho vay tiền. Ngoài 7 hợp đồng cho vay 400 triệu năm 1995, trong năm 1994 Ngân hàng còn cho bà Lan mượn 6 hợp đồng khác với tổng số tiền cay là 600 triệu đồng và đều ghi không đúng sự thật là được bảo đảm bằng tài sản thế chấp của người vay là căn nhà số 87T Đinh Tiên Hoàng. - Việc sau này ông Nguyễn Khuyến có ký vào đơn đề nghị và các biên bản làm việc với Ngân hàng là do Ngân hàng động viên ông Khuyến để ông giúp Ngân hàng thu hồi nợ của bà Lan, đây là động cơ tốt của ông Khuyến, không thể vì việc ký các giấy tờ này mà buộc ông Nguyễn Khuyến phải chịu trách nhiệm bảo lãnh bằng 1/2 gias trị ngôi nhà 87T Đinh Tiên Hoàng. Bản án sơ thẩm số 88/KTST ngày 03/6/2002 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh buộc Ngân hàng phải trả lại giấy tờ chủ quyền căn nhà 87T Đinh Tiên Hoàng cho ông Nguyễn Khuyến và bà Trần Thị Xuyên là phù hợp với thực tế và có căn cứ pháp luật. Từ những nhận định trên, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao giữ nguyên quan điểm đã nêu trong bản kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao. XÉT THẤY 1. Đối với “Giấy thế chấp tài sản” ký ngày 29/4/1993, có chứng thực của Công chứng nhà nước: Đối chiếu với các quy định của pháp luật tại thời điểm ký kết, “Giấy thế chấp tài sản” này là hợp pháp, có hiệu lực thi hành. Tại Biên bản phiên tòa sơ thẩm ngày 03/6/2002, chính Ngân hàng Công thương khai: khoản vay 200 triệu đồng được bảo lãnh theo “Giấy thế chấp tài sản” ngày 24/9/1993 đã được bà Nguyễn Thị Kim Lan “trả dứt nợ gốc và lãi”, nhưng Ngân hàng Công thương chưa trả lại giấy tờ nhà cho ông Nguyễn Khuyến và bà Trần Thị Xuyên. Theo quy định tại điểm g của “Giấy thế chấp tài sản” này thì “tài sản thế chấp chỉ được giải tỏa sau khi bà Nguyễn Thị Kim Lan đã trả dứt nợ gốc và lãi cho Ngân hàng Công thương Việt Nam”. Vì vậy, nghĩa vụ bảo lãnh của ông Nguyễn Khuyến và bà Trần Thị Xuyên theo “Giấy thế chấp tài sản” ngày 24/9/1993 đã được chấm dứt. 2. Đối với “Giấy cam kết bảo lãnh tài sản thế chấp để vay vốn ngân hàng” đề ngày 25/3/1995, Hội đồng Thẩm phán thấy rằng: Về hình thức: Pháp luật có hiệu lực tại thời điểm 25/3/1995 quy định như sau: - “Việc thế chấp tài sản phải được lập thành văn bản và được cơ quan công chứng Nhà nước chứng thực” (khoản 1 Điều 31 Pháp lệnh Hợp đồng nhân sự). - “Việc thế chấp tài sản phải được làm bằng thành văn bản có sự xác nhận của cơ quan công chứng hoặc cơ quan có thẩm quyền đăng ký kinh doanh (trường hợp không có cơ quan công chứng)”; “Việc bảo lãnh tài sản phải được làm bằng văn bản có sự xác nhận về tài sản của Ngân hàng nơi người bảo lãnh giao dích và cơ quan công chứng hoặc cơ quan có thẩm quyền đăng ký kinh doanh (trường hợp không có cơ quan công chứng)” (Điều 2 Nghị đính số 17/HĐBT ngày 16/01/1990 của Hội đồng Bộ trưởng - Quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế). “Giấy cam kết bảo lãnh tài sản thế chấp để vay vốn ngân hàng” đề ngày 25/3/1995 không có chứng thực của cơ quan Công chứng nhà nước theo quy định của pháp luật hiện hành đã dẫn chiếu trên. Về nội dung: - Xác định giá trị tài sản thế chấp: Pháp luật có hiệu lực tại thời điểm 25/3/1995 quy định: + Trong văn bản thế chấp phải ghi rõ…trị giá tài sản; thời hạn thế chấp; phương thức xử lý tài sản thế chấp” (khoản 2 Điều 3 Pháp lệnh Hợp đồng dân sự) + “…Ngân hàng cùng bên vay xác định giá trị tài sản thế chấp. Thỏa thuận của bên vay và bên cho vay về giá trị tài sản thế chấp phải có chứng nhận của phòng công chứng địa phương, nơi Ngân hàng cho vay đóng trụ sở. Nơi chưa có phòng công chứng, phải có xác nhận của cơ quan chính quyền, huyện, thị xã” (khoản 3 Điều 2 bản Quy định về việc thế chấp tài sản để vay vốn ngân hàng ban hành kèm theo Quyết định số 156/NH-QĐ ngày 18/11/1989 của Ngân hàng nhà nước. + “Khi thế chấp tài sản, bên vay và tổ chức tín dụng cho vay phải cùng đánh giá tài sản thế chấp, có sự chứng kiến và xác nhận của cơ quan Công chứng hoặc Tài chính giá cả” (khoản 26.3 Điều 26 bản Thể lệ tín dụng ngắn hạn đối với các tổ chức kinh tế ban hành kèm theo Quyết định số 01/NH-QĐ ngày 08/01/1991 của Ngân hàng nhà nước). “Giấy cam kết bảo lãnh tài sản thế chấp để vay vốn ngân hàng” đề ngày 25/3/1995 không có thỏa thuận về giá trị tài sản thế chấp và xác nhận của Công chứng nhà nước, chính quyền cấp huyện hoặc cơ quan Tài chính giá cả như quy định đã dẫn chiếu trên của pháp luật. - Quyền định đoạt tài sản sở hữu chung: Ngôi nhà 87T Đinh Tiên Hoàng thuộc sở hữu chung của vợ chồng ông Nguyễn Khuyến và bà Trần Thị Xuyên. Theo quy định của pháp luật có hiệu lực từ thời điểm ký kết thì: + “Bán nhà thuộc sở hữu chung của nhiều người phải được sự đồng ý bằng văn bản của tất cả các chủ sở hữu. (Điều 34 của Pháp lệnh về Nhà ở năm 1991) + Tài sản thế chấp thuộc quyền sở hữu chung của nhiều người (từ 2 người trở lên), trong hồ sơ thế chấp phải có đầy đủ chữ ký của những người đồng sở hữu” (Điều 5 bản Quy định về việc thế chấp tài sản để vay vốn ngân hàng ban hành kèm theo Quyết định số 156/NH-QĐ ngày 18/11/1989 và Điều 24 bản thể lệ tín dụng ngắn hạn đối với các tổ chức kinh tế ban hành kèm theo Quyết định số 01/NH-QĐ ngày 08/01/1991 của Ngân hàng nhà nước). (Giấy cam kết bảo lãnh tài sản thế chấp để vay vốn ngân hàng” đề ngày 25/3/1995 tuy có đủ cả hai chữ ký dưới chữ “Chồng” và “Vợ”, nhưng chỉ có một mình ông Nguyễn Khuyến xác nhận là chữ ký của mình, còn bà Trần Thị Xuyên lại khẳng định không ký vào văn bản này, mặc dù Tòa án sơ thẩm đã tiến hành trưng cầu giám định nhưng không có căn cứ để kết luận chữ ký đó có đúng là của bà Trần Thị Xuyên. Vì vậy, “Giấy cam kết bảo lãnh tài sản thế chấp để vay vốn ngân hàng” đề ngày 25/3/1995 là giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm pháp luật cả về hình thức và nội dung. Ngân hàng Công thương đã không tuân thủ pháp luật và quy định của Ngân hàng nhà nước trong nghiệp vụ cho vay, nên không có căn cứ để buộc ông Nguyễn Khuyến phải chịu nghĩa vụ bảo lãnh bằng tài sản là 1/2 giá trị ngôi nhà 87T Đinh Tiên Hoàng phường 3, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh theo giấy cam kết mà ông Nguyễn Khuyến đã ký. Tại phiên tòa phúc thẩm, Hội đồng xét xử không làm rõ việc ông Nguyễn Khuyến có tự nguyện dùng tài sản của mình để thực hiện nghĩa vụ trả nợ thay cho bà Nguyễn Thị Kim Lan hay không? Mặc dù “Giấy cam kết bảo lãnh tài sản thế chấp để vay vốn ngân hàng” đề ngày 25/3/1995 bị vô hiệu, nhưng Tòa án vẫn có thể ghi nhận sự tự nguyện (nếu có) của ông Nguyễn Khuyến trong việc dùng tài sản thuộc sở hữu của mình để trả nợ thay toàn bộ hoặc một phần cho bà Nguyền Thị Kim Lan. 3. Về xác định tài sản bảo lãnh: Theo quy định tại Điều 29 và Điều 95 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, việc chia tài sản chung của vợ chồng được thực hiện theo thỏa thuận hoặc do Tòa án giải quyết trên nguyên tắc “Tài sản chung của vợ cồng về nguyên tắc được chia đôi, nhưng có xem xét hoàn cảnh của mỗi bên, tình trạng tài sản, công sức đóng góp của mỗi bên vào việc tạo lập, duy trì, phát triển tài sản này” Tòa án cấp sơ thẩm và cấp phúc thẩm buộc ông Nguyễn Khuyến phải chịu trách nhiệm bảo lãnh trong giới hạn bằng 1/2 giá trị căn nhà số 87T Đinh Tiên Hoàng là chưa có căn cứ vì vợ chống ông Nguyễn Khuyến và bà Trần Thị Xuyên không có ai đề nghị hoặc thỏa thuận chia tài sản chung và cũng không có bản án có hiệu lực pháp luật nào chia cho ông Nguyễn Khuyến được 1/2 giá trị ngôi nhà 87T Đinh Tiên Hoàng phường 3, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh. Bởi các lẽ trên và căn cứ vào khoản 3 Điều 291; khoản 3 Điều 297; khoản 2 Điều 299 của Bộ luật tố tụng dân sự, QUYẾT ĐỊNH Hủy bản án kinh tế phúc thẩm số 63/2006/KT-PT ngày 13/7/2006 của Tpaf phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minnh xét xử phúc thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật. . Bài 2: Nhận xét của anh, chị về: - Quan hệ pháp luật về nội dung trong vụ án - Thành phần, tư cách đương sự trong vụ án - Chứng cứ và sử dụng chứng cứ trong vụ án Bài 2: Quyết định giám đốc thẩm về vụ án "tranh chấp hợp đồng phân phối (tôm giống)" Ngày 07/3/2007, tại trụ sở Tòa án nhân dân tối cao, đã mở phiên tòa giám đốc thẩm xét xử vụ án kinh doanh thương mại tranh chấp về hợp đồng phân phối tôm giống giữa: Nguyên đơn: Công ty TNHH số 1; có trụ sở tại C25 Trung tâm thương mại đường Bà Triệu, thị xã Bạc Liêu, tỉnh Bạc Liêu; do ông Bùi Quang Nhơn đại diện theo ủy quyền; Bị đơn: ông Nguyễn Trường Sinh; trú tại Khóm I, thị trấn Duyên Hải, huyện Duyên Hải, tỉnh Trà Vinh. NHẬN THẤY Ngày 07/01/2004 Công ty TNHH số 1 ký hợp đồng số 05/HĐKT và hợp đồng số 06/HĐKT về việc phân phối tôm giống với ông Nguyễn Trường Sinh là cá nhân không có đăng ký kinh doanh – đại diện Trung tâm phân phối tôm giống cho tỉnh Trà Vinh và tỉnh Bến Tre; hai bên thỏa thuận với nhau về đối tượng và điều kiện để thực hiện hợp đồng, phương thức đặt hàng: bên nhận phải đăng ký trước sản lượng từng tháng, từng tuần, đơn đặt hàng không được hủy ngang với bất cứ lý do nào, mỗi đơn đặt hàng phải tối thiểu 540.000 con/lần (45 thùng); phương thức thanh toán: bên nhận phải chuyển khoản đủ số tiền trong đơn đặt hàng trước khi nhận hàng 3 ngày, sau khi chuyển khoản xong fax phiếu chuyển tiền báo cho bên giao thì việc giao hàng mới được thực hiện. Quá trình thực hiện hợp đồng từ khi ký ngày 07/01/2004 đến ngày 14/4/2004 theo Biên bản xác nhận công nợ thì ông Nguyễn Trường Sinh còn nợ Công ty TNHH số 1 là 100.712.000 đồng, ngoài ra từ ngày 15/4/2004 đến ngày 28/4/2004 hai bên vẫn tiếp tục giao nhận hàng vì thế ông Sinh còn nợ thêm 43.740.000 đồng. Nhưng sau đó, ông Nguyễn Trường Sinh không thanh toán hết số tiền hàng còn thiếu, nên ngày 10/7/2004 Công ty TNHH số 1 đã có đơn khởi kiện đến Tòa án nhân dân tỉnh Trà Vinh theo yêu cầu ông Nguyễn Trường SInh phải thanh toán tổng cộng số tiền hàng còn thiếu là 153.422.000 đồng và lãi suất do thanh toán chậm. Ngày 22/11/2004 ông Sinh có đơn yêu cầu phản tố với nội dung: - Ông công nhận giữa hai bên có ký 02 hợp đồng như đã nêu trên: theo điều khoản của hợp đồng, ông đã chuyển vào tài khoản của Công ty TNHH số 1 là 1.349.300.000 đồng; trong khi đó Công ty TNHH số 1 chỉ giao hàng tính thành tiền là 775.050.000 đồng. Như vậy, ông đã trả tiền thừa cho Công ty TNHH số 1 là: 574.250.000 đồng và yêu cầu Công ty TNHH số 1 phải trả ông số tiền mà ông đã trả thừa; - Văn bản xác nhận nợ qua fax là do Công ty TNHH số 1 tạo ra để buộc ông phải trả nợ. Tại bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 02/2005/KDTM-ST ngày 22/8/2005 Tòa án nhân dân tỉnh Trà Vinh đã quyết định: 1/. Bác yêu cầu đòi tiền của Công ty TNHH số 1 đối với ông Nguyễn Trường Sinh. 2/. Chấp nhận yêu cầu phản tố của ông Nguyễn Trường Sinh buộc Công ty TNHH số 1 phải trả cho ông Sinh số tiền còn thiếu là 574.250.000 đồng và số tiền lãi phát sinh từ ngày ông Sinh làm đơn phản tố đến khi xét xử so thẩm là 9 tháng bằng 66.153.600 đồng. Tổng cộng Công ty TNHH số 1 phải trả cho ông Nguyễn Trường Sinh số tiền là 640.403.600 đồng. Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về án phí và quyền kháng cáo toàn bộ nội dung của bản án kinh tế sơ thẩm nêu trên. Ngày 23/8/2005 và ngày 17/02/2006, Công ty TNHH số 1 có đơn kháng cáo toàn bộ nội dung của bản án kinh tế sơ thẩm theo quy định của pháp luật. Ngày 23/8/2005 và ngày 17/02/2006,Công ty TNHH số 1 có đơn kháng cáo toàn bộ nội dung của bản án kinh tế sơ thẩm nêu trên. Tại bản án kinh doanh thương mại phúc thẩm số 12/2006/KDTMPT ngày 24/02/2006 Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định: Bác kháng cáo của Công ty TNHH số 1 và giữ nguyên án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 02/2005/KDTMST ngày 22/8/2005 của Tòa án nhân dân tỉnh Trà Vinh. Ngoài ra, Tòa án cấp phúc thẩm còn quyết định về án phí của các đương sự theo quy định của pháp luật. Sau khi xét xử phúc thẩm, ngày 27/3/2006 Công ty TNHH số 1 có đơn khiếu nại gửi Tòa án nhân nhân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao đề nghị xem xét lại vụ án theo thủ tục giám đốc thẩm với nội dung: - Tòa án cấp sơ thẩm và cấp phúc thẩm không đưa bà Kiều Xuyên (vợ của ông Nguyễn Trường Sinh) và ông Thành (là em ruột của ông Sinh) tham gia tố tụng tại phiên tòa là không đúng pháp luật; - Tòa án không chấp nhận Biên bản dối chiếu công nợ ngày 15/4/2004 giữa hai bên và Bản kết luật giám định số 90/KLGĐ ngày 15/8/2004 của Tổ chức giám định kỹ thuật hình sự tỉnh Trà Vinh là vi phạm tố tụng. Tại Quyết định kháng nghị số 06/2006/KN – KT ngày 22/11/2006, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao kháng nghị bản án kinh doanh thương mại số 12/2006/KDTMPT ngày 24/2/2006 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh và đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm hủy bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 02/2005/KDTM-ST ngày 22/8/2005 của Tòa án nhân dân tỉnh Trà Vinh và bản án kinh doanh thương mại phúc thẩm nêu trên: giao hồ sơ về cho Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại theo đúng quy định của pháp luật. Tại Kết luận số 01/KL-AKT ngày 19-01-2007 Viện trưởng Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao nhất trí với quyết định kháng nghị số 06/2006/KN-KT ngày 22/11/2006 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đối với bản án kinh doanh thương mại phúc thẩm số 12/2006/KDTMPT ngày 24/02/1006 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh và đề nghị Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao xét xử theo hướng, hủy bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 02/2005/KDTM-ST ngày 22/8/2005 của Tòa án nhân dân tỉnh Trà Vinh và bản án kinh doanh thương mại phúc thẩm số 12/2006/KDTMPT ngày 24/02/2006 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án cấp sơ thẩm xét xử lại theo đúng quy định của pháp luật. Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao phát biểu giữ nguyên quan điểm xét xử vụ án như Kết luận nêu trên. XÉT THẤY: Ngày 15/4/2004, Công ty TNHH số 1 gửi qua máy fax Bản xác nhận công nợ tháng 3, tháng 4 năm 2004 cho Trung tâm phân phối Trường An (ông Nguyễn Trường Sinh) trong đó có nội dung ông Sinh nợ Công ty TNHH số 1 tổng số tiền tôm giống là 100.712.000 đồng; cùng ngày ông Sinh đã xác nhận, ký tên vào bản fax này và gửi lại cho Công ty TNHH số 1, đồng thời có ghi thêm ở phần ghi là chỉ yêu cầuCông ty TNHH số 1 hỗ trợ 40 thùng tôm bị chết và bị phát sáng; nhưng Tòa án các cấp không chấp nhận bản fax này vì là bản phô tô coppy. Về việc này, theo yêu cầu của Tòa án nhân dân tối cao thì ngày 11/9/2006 Công ty TNHH số 1 đã giao nôp cho Tòa án nhân dân tối cao bản fax gốc Bản xác nhận công nợ ngày 15/4/2004 và theo bản Kết luận giám định số 90/KLGĐ ngày 15/8/2005 của Tổ chức giám định kỹ thuật hình sự tỉnh Trà Vinh thì chữ viết trên tờ fax công nợ tháng 3, tháng 4 năm 2004 chữ viết (của ông Sinh) ở phần B trong hợp đồng phân phối số 05, số 06 nêu trên là do cùng một người viết ra; và tại Giấy xác nhận của Bưu điện huyện Duyên Hải, tỉnh Trà Vinh xác nhận số máy fax trên bản fax của ông Sinh gửi 1994. Hơn nữa, trong nội dung hai bản hợp đồng đã ký kết giữa hai bên đều thỏa thuận về phương tiện làm việc bằng máy điện thoại, máy fax. Như vậy, căn cứ theo khoản 3 Điều 49 Luật thương mại năm 1997 quy định: “…Điện báo, telex, fax, thư điện tử và các hình thức thông tin điện tử khác cũng được coi là hình thức văn bản”. Tòa án các cấp chỉ dựa vào lời khai của ông Sinh để bác bỏ, không chấp nhận tài liệu là bản fax mà hai bên đã thỏa thuận và giao dịch với nhau là không đúng pháp luật. - Mặt khác, Tòa án các cấp cho rằng Công ty TNHH số 1 không xác định được 16 hóa đơn mà ông Sinh không công nhận với lý do: công ty đã giao hàng cho ai? Địa điểm nhậ hàng ở đâu? có đơn đặt hàng của ông Sinh hay không? Mặc dù, hai bên đã thỏa thuận trong hợp đồng: bên nhận phải chuyển khoản đủ số tiền trong đơn đặt hàng trước khi nhận hàng 3 ngày, sau khi chuyển khoản xong, fax phiếu chuyển tiền báo cho bên giao hàng thì việc giao hàng mới được thực hiện; nhưng thực tế, trong khi thực hiện việc giao nhận hàng thì hai bên đều không tuân thủ theo thỏa thuận này. Tuy nhiên, căn cứ theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án thể hiện từ ngày 14/4/2004 trở về trước ông Sinh chuyển trả số tiền là 1.169.300.000 đồng; đến ngày 15/4/2004 tại bản đối chiếu công nợ, ông Sinh xác nhận còn nợ 100.712.000 đồng và ông chỉ yêu cầu Công ty TNHH số 1 hỗ trợ số tôm chết và bị phát sáng. Ngày 16/4/2004 ông Sinh chuyển tiếp số tiền 180.000.000 đồng trả Công ty TNHH số 1. Sau đó, hai bên tiếp tục giao nhận tôm giống đến ngày 28/4/2004. Vì vậy, ông Sinh tiếp tục nợ tiền tôm giống thêm 43.740.000 đồng. Vì vậy, ông Sinh tiếp tục nợ nần tiền tôm giống thêm 43.740.000 đồng; và cũng từ sau ngày 28/4/2004 hai bên không còn quan hệ giao nhận tôm, chuển tiền qua lại cho nhau nữa. Ngoài ra, trong hồ sơ còn thể hiện bức thư ngày 28/4/2004 ông Sinh fax cho Công ty TNHH số 1 với nội dung ông còn nợ tiền tôm giống của Công ty TNHH số 1 và ông Sinh đề nghị hai bên ngồi lại với nhau đẻ làm việc vào ngày mai (tức ngày 29/4/2004), nhưng trong hồ sơ chưa có tài liệu nào thể hiện hai bên đã giải quyết về vấn đề còn nợ của nhau như thế nào? sau ngày 28/4/2004. Bởi vậy, chưa có cơ sở vững chắc để khẳng định là ông Sinh đã chuyển tiền thừa cho Công ty TNHH số 1 đến 640.430.600 đồng. Việc xác định giao nhận tôm phải căn cứ vào 31 hóa đơn mà hai bên đã giao nhận, song hiện nay ông Sinh chỉ thừa nhận 15 hóa đơn và tù chối 16 hóa đơn. Trong số 16 hóa đơn này, có 10 hóa đơn là có việc ông Sinh đặt hàng và trong đơn đặt hàng ông Sinh có chỉ định địa điểm đưa hàng, khi đến địa điểm đưa hàng có người ký nhận hàng, (riêng có 01 hóa đơn số 877 là không có người ký nhận hàng, theo Công ty TNHH số 1 giải trình thì lô hàng này theo phiếu đặt hàng là 177 thùng nhưng trên hóa đơn chỉ ghi 148 thùng đã được ông Thành làm thủ tục đăng ký tại trạm kiểm dịch); còn 6 hóa đơn tuy không có phiếu đặt hàng của ông Sinh, nhưng đều có người nhận hàng ký tên (ông Chỉnh, ông Sái, ông Sáu…). Hơn nữa, xét về 16 hóa đơn không được ông Sinh chấp nhận đều thể hiện toàn bộ những hóa đơn này hai bên giao nhận hàng từ ngày 12/4/2004 trở về trước; thời điểm này đã được các bên chốt nợ thể hiện tại Bản đối chiếu công nợ ngày 15/4/2004 nêu trên, Tòa án các cấp không chấp nhận cả 16 hóa đơn nêu trên của Công ty TNHH số 1 mà không phân tích rõ ràng lý do cụ thể của từng hóa đơn là chưa có căn cứ. - Ngoài ra, Tòa án các cấp cần triệu tập một số người có liên quan đến việc giao nhận tôm giống, tham gia tố tụng tại phiên tòa để làm sáng tỏ nội dung vụ án như: + Ông Hồ Văn Chiến: tại Bản xác nhận ngày 28/4/2004 ông Chiến xác nhận có nhận tôm giống của Công ty TNHH số 1 theo phiếu giao nhận hàng từ ngày 14/4/2004 đến ngày 27/4/2004; ngày 17/7/2005 ông Chiến xác nhận có nhận tôm giống từ tháng 1/2004 đến tháng 5/2004 với số lượng 4.041.000 con tôm giống. Nội dung các văn bản này đều thể hiện ông Chiến có nhận tôm giống của Công ty TNHH số 1 thông qua ông Sinh theo đơn đặt hàng của ông Sinh. Bởi vậy, căn cứ khoản 4 Điều 56 Bộ luật tố tụng dân sự cần phải đưa ông Hồ Văn Chiến tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan để giải quyết vụ án cho đúng pháp luật. + Ông Huỳnh Công Thành: ngày 5/8/2005 ông Thành xác nhận có nhận tôm giống của Công ty TNHH số 1 từ tháng 3/2004 đến tháng 4/2004 theo lệnh đặt hàng của ông Nguyễn Trường Sinh với số lượng 5.439.000 post và đã thanh toán tiền cho ông Nguyễn Trường Sinh, nhưng ngày 7/10/2005 ông Thành lại đính chính là chỉ nhận tôm giống với số lượng 2.000.000 post. Như vậy, hai bản xác nhận này của ông Thành là không thống nhất, việc giải quyết vụ án có liên quan đến quyền lợi của ông Thành nên cần đưa ông Thành tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan căn cứ khoản 4 Điều 56 Bộ luật tố tụng dân sự. + Tại bản xác nhận của Chi cục Bảo vệ và phát triển nguồn lợi thủy sản tỉnh Trà Vinh, thể hiện ông Nguyễn Trung Thành (em ruột của ông Sinh), bà Trương Kiều Xuyên (vợ ông Nguyễn Trường Sinh) có ký xác nhận tôm giống qua Trạm kiểm dịch. Về việc này, theo giải trình của Công ty TNHH số 1 là hàng nhập vào đều phải có kiểm dịch của Trạm kiểm dịch, khi đưa hàng vào kiểm dịch thì phải có Giấy đăng ký kinh doanh của người mua “nhưng ông Sinh không có Giấy đăng ký kinh doanh”, nên ông Sinh phải mượn bà Trương Kiều Xuyên (là vợ của ông Sinh) và ông Nguyễn Trung Thành (là em ruột của ông Sinh) có Giấy đăng ký kinh doanh để đăng ký kiểm dịch khi qua trạm; về nguyên tắc là hàng tôm giống phải qua trạm kiểm dịch 100%. Tuy nhiên, trên thực tế có một số trung tâm phân phối và điểm phân phối không qua trạm kiểm dịch (vì rất xa trạm kiểm dịch); cho nên số lượng hàng thực tế mua bán giữa Công ty TNHH số 1 với ông Sinh về (hóa đơn giao nhận hàng) không khớp với tài liệu kiểm dịch (Giấy chứng nhận). Mặt khác, số lượng tôm mua bán là căn cứ vào thực tế hai bên giao và nhận chứ không phải căn cứ vào tài liệu kiểm dịch. Để có cơ sở giải quyết vụ án, Tòa án cần căn cứ theo quy định tại Điều 65 Bộ luật tố tụng dân sự đưa ông Nguyễn Trung Thành, bà Trương Kiều Xuyên, Chi cục bảo vệ…nguồn lợi thủy sản… vào tham gia tố tụng với tư cách là người làm chứng để làm sáng tỏ tính chất của các số liệu tôm giống do Trung tâm kiểm dịch cung cấp. Bởi các lẽ trên và căn cứ vào khoản 3 Điều 219; khoản 3 Điều 297, khoản 1 Điều 299 Bộ luật tố tụng dân sự. QUYẾT ĐỊNH Hủy bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 02/2005/KDTM-ST ngày 22/8/2005 của Tòa án nhân dân tỉnh Trà Vinh và bản án kinh doanh thương mại phúc thẩm số 12/2006/KDTMPT ngày 24/02/2006 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân tỉnh Trà Vinh giải quyết, xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật. . Bài 3: Nhận xét của anh, chị về: - Quan hệ pháp luật về nội dung trong vụ án - Thành phần, tư cách đương sự trong vụ án - Chứng cứ và sử dụng chứng cứ trong vụ án Quyết định giám đốc thẩm về vụ án "Tranh chấp quyền sử dụng đất" …….. Ngày 25 tháng 11 năm 2008, tại trụ sở Tòa án nhân dân tối cao mở phiên tòa giám đốc thẩm xét xử vụ án dân sự “tranh chấp quyền sử dụng đất” giữa: Nguyên đơn: Bà Đỗ Thị Quyên sinh năm 1922 (chết ngày 07-8-2005). Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn: 1. Chị Nguyễn Thị Lan Anh sinh năm 1960; trú tại nhà số 108 Vinh Sơn, phường 5, thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng; 2. Chị Nguyễn Thị Lan Oanh sinh năm 1963; trú tại nhà số 131 Âu Tinh, phường 5, thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng. Bị đơn: 1. Anh Bùi Quang Trung sinh năm 1956; (anh Trung ủy quyền cho vợ là chị Nguyễn Thị Lan Khương); 2. Nguyễn Thị Lan Khương sinh năm 1959; Anh Trung, chị Khương cùng trú tại nhà số 178 đường Huyền Trân Công Chúa, phường 4, thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: 1. Anh Nguyễn Bá Thụ sinh năm 1955; địa chỉ 8811 Tioga Woods Dr Sacramencoto CA 95828 USA; 2. Chị Nguyễn Thị Lan Hương sinh năm 1957; địa chỉ: 50 Sat Camp Alzour Kuwait; 3. Chị Nguyễn Thị Lan Anh sinh năm 1960; trú tại nhà số 108 Vinh Sơn, phường 5, thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng; 4. Chị Nguyễn Thị Lan Oanh sinh năm 1963; trú tại nhà số 131 Âu Tinh, phường 5, thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng; (Anh Thụ và chị Lan Hương ủy quyền cho chị Lan Anh và chị Lan Oanh). 5. Anh Nguyễn Viết Tuấn sinh năm 1973; trú tại nhà số 178 đường Huyền Trân Công Chúa, phường 4, thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng. NHẬN THẤY: Theo các đơn khởi kiện đề ngày 10 và đề ngày 20-7-2004, bà Đỗ Thị Quyên cùng các con của bà là anh Nguyễn Bá Thụ, chị Nguyễn Thị Lan Anh, chị Nguyễn Thị Lan Oanh và chị Nguyễn Thị Lan Hương yêu cầu vợ chồng anh Bùi Quang Trung và chị Nguyễn Thị Lan Khương (là con rể và con gái của bà Quyền) trả lại toàn bộ diện tích đất (không đòi nhà) tại số 178 đường La Vang, phường 5, thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng (nay là đường Huyền Trân Công Chúa, phường 4, thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng). Theo bà Quyên thì căn nhà cấp 3, tường gạch, nền ximent, mái tôn có diện tích 80m2 và một số cây ăn trái trên diện tích khoảng 10.000m2 tại số 178 đường Huyền Trân Công Cúa, phường 4, thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng là của vợ chồng bà khai phá, sử dụng từ năm 1963. Năm 1975 ông Nguyễn Văn Tuyền (là chồng của bà) chết không để lại di chúc, bà và các con vẫn tiếp tục sử dụng nhà đất. Khoảng năm 1978 (sau khi chị Lan Khương kết hôn với anh Trung) do kinh tế khó khăn bà phải chuyển về sống tại căn nhà số 108 Vinh Sơn, phường 5, thành phố Đà Lạt, nên tạm giao cho chị Lan Khương và anh Trung quản lý căn nhà số 178 đường La Vang. Năm 1979, vợ chồng chị Khương, anh Trung chuyển về ở tại căn nhà 129 đường Âu Tinh, phường 5, thành phố Đà Lạt, căn nhà số 178 nêu trên không ai ở nhưng bà có bỏ tiền mua tole, gỗ, thuê người thay mái làm chỗ nghỉ ngơi, chứa vật dụng và canh tác đất. Năm 1993 vợ chồng chị Khương, anh Trung bán nhà 129 đường Âu Tinh cho ông Nguyễn Văn Đoàn và xin bà về ở tại căn nhà số 178 đường La Vang. Ngày 09-01-1994 bà và các con của bà là anh Thụ, chị Lan Anh, chị Lan Oanh đã ký biên bản họp hội đồng gia tộc đồng ý cho vọ chồng chị Khương, anh Trung căn nhà 178 đường La Vang. Sau khi được cho nhà, anh Trung, chị Khương đã nộp lệ phí trước bạ chuyển quyền sở hữu nhà. Khi cho nhà bà chỉ cho vợ chồng chị Khương, anh Trung mượn một phần đất để sản xuất, nhưng vợ chồng chị Khương, anh Trung tự ý kê khai đăng ký để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng mà không có sự đồng ý của bà và các con của bà, đồng thời bán một phần đất cho người khác, vì vậy bà yêu cầu vợ chồng chị Khương, anh Trung trả lại cho bà diện tích đất (sau khi trừ diện tích đất có nhà). Ngày 14-7-2004, bà Quyên ủy quyền cho chị Lan Anh và chị Lan Oanh tham gia tố tụng. Bị đơn là anh Trung, chị Khương cho rằng cha, mẹ của chị là ông Nguyễn Văn Tuyền, bà Đỗ Thị Quyên có khai phá một phần nhỏ diện tích đất để cất nhà ở, năm 1968 do chiến tranh nên ông Tuyền, bà Quyên chuyển về Y Dinh sinh sống, nhà đất bỏ hoang không ai sử dụng. Năm 1978 bà Quyên cho vợ chồng anh, chị căn nhà diện tích 80m2 (lúc đến ở nhà lụp xụp, đổ nát); quá trình quản lý, sử dụng anh, chị khai hoang, phục hóa toàn bộ phần đất triền đồi bỏ hoang phía sau căn nhà. Năm 1996 anh Trung kê khai đăng ký hơn 4000m2 đất, nhưng đến năm 1998 Ủy ban nhân dân thành phố Đà Lạt mới cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng diện tích 2.268m2 (loại đất nông nghiệp, thửa số 157), còn thửa số 141 được cấp giấy chứng nhận 300m2 đất ở trên có căn nhà diện tích 95,18m2, phần diện tích còn lại của thửa 141 là 2.230m2 chưa được cấp giấy chứng nhận vì chính quyền địa phương chưa có chủ trương. Vì vậy, anh chị không đồng ý trả đất như yêu cầu của bà Quyên và những người con khác của bà Quyên. Đối với diện tích 301,25m2 đã chuyển nhượng cho anh Tuấn, thì vợ chồng chị không tranh chấp. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là anh Nguyễn Viết Tuấn trình bày: năm 2004 anh có nhận chuyển nhượng của vợ chồng anh Trung 301,21m2 đất để làm nhà ở ổn định. Quá trình sử dụng nhà đất anh đã kê khai và ngày 10-6-2004 đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; do đó, yêu cầu công nhận hợp đồng. Tại bản án dân sự sơ thẩm số 10/2005/DSST ngày 29-7-2005, Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng quyết định: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Đỗ Thị Quyên. 1- Anh Bùi Quang Trung được quyền sở hữu căn nhà và tạm sử dụng lô đất có diện tích 225,92m2 (chưa trừ lộ giới) tại thửa 141 tờ bản đồ số 2 tọa lạc tại 178 Huyền Trân Công Chúa, phường 4, thành phố Đà Lạt (có sơ đồ kèm theo) và có trách nhiệm hoàn trả cho bà Đỗ Thị Quyên 4.196,87m2 đất thuộc thửa 141 và 157 tờ bản đồ số 2, phường 4, thành phố Đà Lạt. Anh Trung, chị Khương, bà Quyên có trách nhiệm liên hệ với cơ quan chức năng để được cấp quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật. 2- Kiến nghị Ủy ban nhân dân thành phố Đà Lạt thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên anh Bùi Quang Trung theo sổ số M554214 cấp ngày 28-9-1998 để cấp quyền sử dụng đất cho bà Đỗ Thị Quyên. 3- Anh Nguyễn Viết Tuấn được quyền sử dụng diện tích 301,21m2 thuộc một phần thửa đất số 157 (thửa mới 719) tờ bản đồ số 2, phường 4 theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số Đ591538 do Ủy ban nhân dân thành phố Đà Lạt cấp ngày 10-6-2004. Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về án phí và tuyên quyền kháng cáo của các đương sự. Ngày 01-8-2005, anh Trung, chị Khương có đơn kháng cáo. Ngày 07-8-2005 bà Quyên chết không để lại di chúc. Tại quyết định số 05/2006/DSPT-QĐ ngày 24-7-2006, Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án với lý do bà Đỗ Thị Quyên chết mà chưa có người đại diện hợp pháp theo quy định của pháp luật. Tại quyết định số 276/2007/QĐ-DSPT ngày 02-7-2007, Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh quyết định đưa vụ án ra xét xử. Tại phiên Tòa phúc thẩm chị Lan Anh và chị Lan Oanh thay đổi yêu cầu chỉ đề nghị vợ chồng anh Trung, chị Khương trả lại 2.230m2 đất tại thửa số 141 (không bao gồm căn nhà trên 225,92m2 đất). Tại bản án dân sự phúc thẩm số 222/2007/DSPT ngày 24-7-2007, Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh quyết định: Chấp nhận một phần yêu cầu kháng cáo của anh Bùi Quang Trung và chị Nguyễn Thị Lan Khương. Sửa một phần bản án sơ thẩm như sau: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Đỗ Thị Quyên do chị Nguyễn Thị Lan Anh, Nguyễn Thị Lan Oanh đại diện. 1- Anh Bùi Quang Trung, chị Nguyễn Thị Lan Khương được quyền sở hữu căn nhà và tạm sử dụng lô đất có diện tích 225,92m2 (chưa trừ lộ giới) thuộc thửa 141 tờ bản đồ số 2, tọa lạc tại 178 Huyền Trân Công Chúa, phường 4, thành phố Đà Lạt (có sơ đồ kèm theo) và có trách nhiệm hoàn trả cho bà Quyên do bà Nguyễn Thị Lan Anh và Nguyễn Thị Lan Oanh đại diện các đồng thừa kế nhận quản lý 2.230m2 thuộc thửa 141 tờ bản đồ số 2, phường 4 thành phố Đà Lạt (sau khi đã trừ 225,92m2). Anh Trung, chị Khương, chị Lan Anh và chị Lan Oanh có trách nhiệm liên hệ với cơ quan chức năng để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. 2- Ghi nhận sự tự nguyện của chị Nguyễn Thị Lan Anh, Nguyễn Thị Lan Oanh đại diện các đồng thừa kế cho vợ chồng anh Trung, chị Khương toàn bộ diện tích 2.268m2 thuộc thửa 157 đã được Ủy ban nhân dân thành phố Đà Lạt cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo sổ số M554214 ngày 28-9-1998 anh Trung, chị Khương được quyền sử dụng diện tích đất này. 3- Anh Nguyễn Viết Tuấn được quyền sử dụng diện tích 301,21m2 thuộc một phần thửa đất số 157 (thửa số mới 719) tờ bản đồ số 2, phường 4 theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số D591538 do Ủy ban nhân dân thành phố Đà Lạt cấp ngày 10-6-2004. Ngoài ra, Tòa án cấp phúc thẩm còn quyết định về án phí. Sau khi xét xử phúc thẩm, anh Trung, chị Khương có đơn khiếu nại. Tại quyết định số 143/2008/KN-DS ngày 13-6-2008, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao kháng nghị bản án phúc thẩm nêu trên; đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm hủy bản án dân sự phúc thẩm nêu trên và hủy bản án dân sự sơ thẩm số 10/2005/DSST ngày 29-7-2005 của Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật, với nhận định: Căn cứ các tài liệu có tại hồ sơ vụ án thì năm 1963 vợ chồng ông Tuyền, bà Quyên có khai phá phần đất tại 178 đường La Vang, phường 5 (nay là đường Huyền Trân Công Chúa, phường 4) để cất nhà ở nhưng không kê khai, đăng ký nên không xác định được diện tích; năm 1967, vợ chồng bà Quyên, ông Tuyền đi nơi khác sinh sống, nhà đất không ai quản lý sử dụng, năm 1975 ông Tuyền chết không để lại di chúc; năm 1977 bà Quyên cho vợ chồng chị Khương, anh Trung nhà đất nêu trên và đến ngày 09-01-1994 bà Quyên cùng các con là anh Nguyễn Bá Thụ, chị Nguyễn Thị Lan Khương, chị Nguyễn Thị Lan Anh, chị Nguyễn Thị Lan Oanh chính thức lập biên bản họp hội đồng gia tộc không đề cập tới phần đất hiện đang tranh chấp); ngày 28-02-1994, Sở xây dựng tỉnh Lâm Đồng đã sang tên quyền sở hữu căn nhà cho anh Trung, chị Khương. Trong thực tế, diện tích đất mà vợ chồng anh Trung, chị Khương đang quản lý, sử dụng gồm hai thửa là 157 diện tích 2.268m2 (loại đất nông nghiệp, anh Trung, chị Khương đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất) và thửa đất số 141 diện tích 2.530m2 (trong đó có 225,92m2 đất gắn liền với căn nhà mà Sở xây dựng tỉnh Lâm Đồng đã sang tên quyền sở hữu cho anh Trung, chị Khương và 2.230m2 đất chưa ai được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất). Trong trường hợp này, lẽ ra Tòa án cấp sơ thẩm phải làm rõ yêu cầu khởi kiện: nếu các đương sự tranh chấp toàn bộ diện tích hai thửa đất nêu trên và quá trình giải quyết vụ án các nguyên đơn tự nguyện cho bị đơn thửa đất số 157 và căn nhà trên 225,92m2 đất, chỉ yêu cầu vợ chồng anh Trung trả diện tích 2.230m2 tại thửa 141 thì thẩm quyền giải quyết là của Tòa án; còn trong trường hợp các đương sự chỉ tranh chấp 2.230m2 đất tại thửa 141 mà chưa ai được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và cũng không ai có các giấy tờ theo quy định tại Điều 50 Luật đất đai, thì thẩm quyền giải quyết là của Ủy ban nhân dân. Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm chưa xác định rõ yêu cầu khởi kiện của các nguyên đơn nhưng lại cho rằng thẩm quyền giải quyết là của Tòa án từ đó thụ lý giải quyết vụ án là chưa đủ căn cứ. Mặt khác, theo lời khai của các đương sự về nguồn gốc đất có tranh chấp là do bà Quyên, ông Tuyền khai phá; ông Tuyền chết năm 1975, đến ngày 10-7-2004 các nguyên đơn có đơn khởi kiện. Như vậy, phải xem xét xác định có hay không có tài sản thuộc quyền sở hữu và sử dụng của ông Tuyền và phải xem xét để xác định còn hay không còn thời hiệu khởi kiện về thừa kế đối với tài sản của ông Tuyền, thì mới giải quyết triệt để vụ án. Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm chưa xem xét các vấn đề trên nhưng đã giải quyết vụ án là có sai sót. Ngoài ra, do sau khi bà Quyên có đơn cùng với anh Thụ, chị Lan Anh, chị Lan Oanh và chị Lan Hương khởi kiện thì ngày 14-7-2004 bà Quyên ủy quyền cho chị Lan Anh, chị Lan Oanh và sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 07-8-2005 bà Quyên chết. Theo quy định tại điểm b, khoản 1 Điều 156 (BLDS 1995) (điểm b, khoản 1 Điều 147 BLDS 2005) thì khi bà Quyên chết, việc ủy quyền của bà Quyên chấm dứt; nhưng Tòa án cấp phúc thẩm vẫn xác định chị Lan Anh, chị Lan Oanh là người đại diện theo ủy quyền của bà Quyên là không đúng. Trong thực tế, tuy năm 1963 ông Tuyền, bà Quyên có khai phá một phần đất để làm nhà ở, nhưng ông Tuyền, bà Quyên không kê khai, đăng ký và đến năm 1967 vợ chồng bà Quyên đã chuyển đi nơi khác để sinh sống, từ năm 1977 vợ chồng anh Trung đã trực tiếp quản lý, sử dụng nhà đất. Trong quá trình giải quyết vụ án, anh Trung, chị Khương cho rằng có khai phá thêm đất và thực tế vợ chồng anh Trung là người kê khai được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa 157 và được công nhận quyền sở hữu nhà trên thửa đất 141. Quá trình chị Khương, anh Trung quản lý sử dụng đất và thực hiện nghĩa vụ với Nhà nước bà Quyên và các con không tranh chấp. Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm xác định toàn bộ diện tích đất trên là của ông Tuyền, bà Quyên thửa đất số 157 và 141 (sau khi trừ diện tích nhà trên 225,92m2 đất) và Tòa án cấp phúc thẩm ghi nhận sự tự nguyện của chị Lan Anh, chị Lan Oanh cho vợ chồng chị Khương, anh Trung thửa đất số 157 có diện tích là 2.268m2, buộc anh Trung, chị Khương trả cho bà Quyên 2.230m2 đất thuộc thửa 141 đều là không có căn cứ. Tại phiên tòa giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao chấp nhận kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao. XÉT THẤY: Căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án thì căn nhà cấp 3 hạng 4 có diện tích 80m2 trên khoảng 10.000m2 tại 178 đường La Vang (nay là Huyền Trân Công Chúa), phường 5, thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng là do ông Nguyễn Văn Tuyền và bà Đỗ Thị Quyên tạo lập khoảng năm 1963. Năm 1967 do chiến tranh ông Tuyền, bà Quyên và các con của ông bà chuyển về 108 Vinh Sơn để ở, căn nhà nêu trên không ai sử dụng. Năm 1978 được bà Quyên đồng ý, vợ chồng chị Nguyễn Thị Lan Khương, anh Bùi Quang Trung về ở tại căn nhà trên (chị Khương là con của bà Quyên). Năm 1993, bà Quyên kê khai và ngày 09-11-1993 được Sở Xây dựng tỉnh Lâm Đồng cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà số 997/NĐ/XDQ55 đối với căn nhà 178 đường La Vang trên. Ngày 09-01-1994 bà Quyên và các con của bà gồm anh Thụ, chị Lan Anh, chị Lan Oanh ký biên bản “họp hội đồng gia tộc” đồng ý cho chị Khương, anh Trung căn nhà số 178 La Vang, văn bản trên được Ủy ban nhân dân phường 5 xác nhận ngày 17-01-1994. Ngày 20-01-1994 bà Quyên tiếp tục ký “văn bản cho nhà” với nội dung đồng ý cho đứt vợ chồng anh Trung, chị Khương toàn bộ căn nhà (không giữ lại phần nào) với tình trạng và diện tích theo sở hữu. “Văn bản cho nhà” tuy chỉ ghi diện tích nhà, không nêu cụ thể diện tích đất nhưng có xác định tứ cận (phía đông giáp nhà của ông Võ Đình Tám; phía Tây giáp nhà của ông Nguyễn Văn Có; phía nam giáp với rừng Sầm Sơn và phía bắc giáp với đường La Vang). Sau khi được cho nhà, chị Khương và anh Trung đã kê khai nộp thuế trước bạ, thuế nhà đất được Sở xây dựng tỉnh Lâm Đồng xác nhận ngày 20-01-1994, đồng thời anh Trung, chị Khương trực tiếp quản lý sử dụng toàn bộ nhà đất tại số 178 đường La Vang và kê khai được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng 2.268m2 đất tại thửa số 157 cùng giấy chứng nhận quyền sử dụng 300m2 đất gắn liền với căn nhà 178 đường La Vang tại thửa đất 141. Khi còn sống bà Quyên và những người con khác của bà không phản đối. Trong trường hợp này với các chứng cứ nêu trên thì phải xác định bà Quyên và các người thừa kế của ông Tuyền đã cho vợ chồng anh Trung căn nhà trên diện tích đất được xác định theo ranh giới tứ cận tại “văn bản cho nhà” lập ngày 20-01-1994 đề tên bà Quyên và các người thừa kế của ông Tuyền đồng ý, nên vợ chồng anh Trung có quyền sử dụng, phần đất còn lại mới là tài sản của ông Tuyền, bà Quyên. Tòa án cấp sơ thẩm lại cho rằng bà Quyên chỉ cho vợ chồng anh Trung căn nhà trên 225,92m2 đất từ đó buộc vợ chồng anh Trung trả lại cho bà Quyên 4.196,87m2 đất là không đúng, còn Tòa án cấp phúc thẩm lại ghi nhận sự tự nguyện của chị Lan Anh, chị Lan Oanh cho vợ chồng anh Trung căn nhà gắn liền với 225m2 đất tại thửa số 141 và 2.268m2 đất thửa 157 đồng thời buộc vợ chồng anh Trung trả lại 2.230m2 đất (thửa số 141) cũng là không đúng. Thực tế thửa đất số 157 không phải là đất thổ cư mà do vợ chồng anh Trung quản lý, canh tác và đã kê khai được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, lẽ ra phải xác định vợ chồng anh Trung có quyền sử dụng diện tích đất này mới đúng, nhưng Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm vẫn xác định ông Tuyền, bà Quyên có quyền sử dụng thửa đất này là không chính xác. Về tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án bà Quyên ủy quyền cho chị Lan Anh và chị Lan Oanh. Sau khi xét xử sơ thẩm bà Quyên chết. Tuy khi giải quyết vụ án ở cấp phúc thẩm thì những người thừa kế của bà Quyên là anh Thụ, chị Lan Hương đồng ý để chị Lan Anh và chị Lan Oanh đại diện, nhưng Tòa án cấp phúc thẩm vẫn xác định chị Lan Anh, chị Lan Oanh là người đại diện cho bà Quyên là không chính xác. Mặt khác, tại giai đoạn xét xử phúc thẩm chị Lan anh và chị Lan Oanh (đại diện cho các nguyên đơn) thay đổi yêu cầu khởi kiện nhưng Tòa án cấp phúc thẩm chưa làm rõ là các nguyên đơn tự nguyện cho vợ chồng anh Trung căn nhà gắn liền với 300m2 đất tại thửa 141 và thửa đất số 157 và chỉ đòi phần đất còn lại của thửa 141 hay các nguyên đơn chỉ tranh chấp phần đất còn lại của thửa đất số 141, nhưng đã giải quyết vụ án cũng là không chính xác. Vì các lẽ trên, căn cứ vào khoản 3 Điều 297 và Điều 299 Bộ luật tố tụng dân sự; QUYẾT ĐỊNH: 1. Hủy bản án dân sự phúc thẩm số 222/2007/DSPT ngày 24-7-2007 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh và bản án dân sự sơ thẩm số 10/2005/DSST ngày 29-7-2005 của Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng về vụ án tranh chấp quyền sử dụng đất giữa nguyên đơn là bà Đỗ Thị Quyên (bà Quyên đã chết), người đại diện hợp pháp của bà Quyên là Nguyễn Thị Lan Anh, chị Nguyễn Thị Lan Oanh với bị đơn là anh Bùi Quang Trung, chị Nguyễn Thị Lan Khương; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là anh Nguyễn Bá Thụ, chị Nguyễn Thị Lan Hương; chị Nguyễn Thị Lan Anh; chị Nguyễn Thị Lan Oanh; ông Nguyễn Viết Tuấn. 2. Giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật. Bài 4: Nhận xét của anh, chị về: - Quan hệ pháp luật về nội dung trong vụ án - Thành phần, tư cách đương sự trong vụ án - Chứng cứ và sử dụng chứng cứ trong vụ án Quyết định Giám đốc thẩm số 13/2008/KDTM-GĐT ngày 09/10/2008 về vụ án tranh chấp hợp đồng xây dựng Ngày 09-10-2008, tại trụ sở Toà án nhân dân tối cao đã mở phiên toà giám đốc thẩm xét xử vụ án tranh chấp về hợp đồng xây dựng giữa: Nguyên đơn: Tổng Công ty điện lực Việt Nam; có trụ sở tại nhà số 18 Trần Nguyên Hãn, quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội; do ông Nguyễn Mạnh Long đại diện, theo uỷ quyền của Tổng giám đốc Công ty điện lực Việt Nam; Bị Đơn: Công ty TNHH PREZIOSO Việt Nam (nay là Công ty Viva-Blast Việt Nam); có trụ sở tại khu công nghiệp Bình Chiểu, phường Bình Chiểu, quận Thủ Đức, thành phố Hồ Chí Minh; do bà Nguyễn Thu Thuỷ đại diện, theo uỷ quyền của Tổng giám đốc Công ty. NHẬN THẤY Ngày 16.9.1999, Tổng công ty Điện lực Việt Nam (sau đây gọi tắt là EVN) có đơn khởi kiện vụ án tại Toà án nhân dân tỉnh Gia Lai (Bl.01-08; 10b-10c). Ngày 06.3.2000, Công ty TNHH Prezioco Việt Nam có đơn phản tố và được Toà án nhân dân tỉnh Gia Lai thụ lý (Bl.755-762). 1. Theo đơn khởi kiện và trình bày của nguyên đơn trong quá trình tố tụng thì: a. Về ký kết hợp đồng Ngày 19.12.1997, Ban quản lý dự án nhà máy thuỷ điện Yaly (viết tắt là bên A) và Công ty TNHH Prezioco Việt Nam (viết tắt là bên B hoặc Pre) ký kết với nhau Hợp đồng kinh tế số 875 ĐVN/TĐIL-2 (Bl.15-21) về giao nhận thầu cung cấp sơn và thi công sơn công trình thuỷ điện Yaly cùng hai bản phụ lục số 1 (Tiến độ cung cấp sơn và chất phụ gia - Bl.22-23) và số 2 (Đặc tính kỹ thuật thi công - Bl.24-27). Ngày 14.01.1998, hai bên ký tiếp Phụ lục số 3 (Bl.28-29) và ngày 04.7.1998, ký tiếp phụ lục số 4 (Bl.30-31), điều chỉnh hợp đồng số 785 ĐVN/TĐIL-2. Nội dung của hợp đồng và bốn phụ lục trên có liên quan đến tranh chấp gồm: -Bên A giao cho bên B cung cấp sơn và thi công toàn bộ công việc sơn phủ cho kết cấu kim loại, đường ống và thiết bị nhà máy thuỷ điện Yaly (Điều 1) - Khối lượng tạm tính là 159.000m2 ….. Khối lượng này sẽ được tính toán chính xác và thanh toán theo nghiệm thu thực tế khi thi công (Điều 2); - Tiến độ: Bên B tiến hành chuẩn bị tạo dựng công trường và thi công ngay sau khi hợp đồng có hiệu lực để đảm bảo tiến độ khởi động tổ máy I vào đầu năm 1999 cho đến khi hoàn thành toàn bộ nhà máy. Tiến độ thi công chi tiết sẽ được hai bên chuẩn xác cho hàng tuần, hàng tháng phù hợp với tiến độ của Nhà thầu gia công và Nhà thầu lắp đặt (Điều 4); - Giá trị hợp đồng (Điều 5). Tạm tính là 2.005.200,00 USD tương đương 24.647.918.400 đồng (theo tỷ giá ngày ký hợp đồng là 12.292 VNĐ/USD) trong đó có đơn giá thi công phần sơn (theo điều chỉnh tại phụ lục số 4 ký ngày 04.7.1998 - Bl.30-31) là: + Phần sơn đường ống nước Tuabin bề mặt trong và kết cấu ngập trong nước (lưới chắn rác, cửa van..) là 153.000đ/m2; + Phần sơn thiết bị không ngập nước, đường ống và kết cấu kim loại trong môi trường công nghiệp bình thường 125.000đ/ m2; + Phần sơn trang trí là 40.000đ/ m2; Đối với các chi tiết lắp đặt sẵn: khe van, tấm đệm, cửa van…. đơn giá được tính theo đơn giá thi công ngoài hiện trường đã nêu trong hồ sơ mời thầu (Điều 5). - Để đạt được chất lượng cao và đáp ứng được tiến độ chung của toàn công trường Yaly, bên B sẽ xây dựng tại công trường một xưởng phun hạt sắt và sơn di động nằm ngay kề cạnh khu liên hợp lắp giáp với diện tích 5000 m2. Bên B trang bị mọi thiết bị thi công như máy nén khí, súng phun sơn, thang dây, giàn giáo, cẩu, … để làm việc hoàn toàn độc lập với các nhà thầu khác. Theo ước tính, tiến độ thi công sẽ được hoàn tất sau hai (2) năm, kể từ ngày khởi công (phụ lục số 2 kèm theo hợp đồng số 785 - Bl.24). - Công việc thực hiện tại xưởng sơn (thổi rỉ và sơn): tất cả bề mặt của cấu kiện sắt thép sẽ được làm sạch… Ngay sau khi được làm sạch bề mặt, các thiết bị sẽ được chuyển qua xưởng sơn đặt ngay bên cạnh (Bl.25). - Việc làm sạch bề mặt và sơn tại xưởng các ống sẽ được dừng 10cm cách vị trí đầu ống cho việc lắp đặt và hàn nối tiếp theo tại hiện trường. Các mối hàn tại hiện trường giữa các ống sẽ được xử lý tại hiện trường với thiết bị mài (máy mài). Sau công đoạn mài sẽ được xử lý bằng phương pháp làm sạch bề mặt trước khi sơn (phụ lục số 2 kèm theo hợp đồng số 785 - Bl.25-26). - Đối với các khe van và cửa van cung thì việc làm sạch bề mặt và sơn được tiến hành tại hiện trường xây lắp (phụ lục số 2 kèm theo hợp đồng số 785 - Bl.25). - Hợp đồng có hiệu lực sau khi đại diện hợp pháp của hai bên ký, được cấp có thẩm quyền của bên A phê duyệt và khi bên A nhận được giấy bảo lãnh thực hiện hợp đồng của bên B, với 10% giá trị hợp đồng do Ngân hàng BNP số 02 Thi Sách thành phố Hồ Chí Minh cấp riêng cho hợp đồng này trong thời hạn 01 năm sau đó bảo lãnh tiếp nối cho đến khi kết thúc hợp đồng này (Điều 13 - Bl.21) và được điều chỉnh tại Điều 1.3 phụ lục số 3 ký ngày 19.12.1997 - Bl.28). b. Về việc thực hiện hợp đồng Ngày 02.01.1998, bằng Quyết định số 01 ĐVN/QLXD Tổng công ty Điện lực Việt Nam đã phê duyệt hợp đồng cung cấp vật liệu sơn và thi công sơn công trình thủy điện Yaly (Bl.33 - 34). Ngày 06.01.1998, Ngân hàng BNP Việt Nam (chi nhánh thành phố Hồ Chí Minh) đã ký và gửi cho Ban quản lý dự án nhà máy thuỷ điện Yaly giấy bảo lãnh thực hiện hợp đồng số 600237 với số tiền là 200.520 USD (10% giá trị hợp đồng) để bảo lãnh cho Pre theo quy định của hợp đồng kinh tế số 785 ĐVN/TĐIL - 2. Bảo lãnh này có hiệu lực đến hết ngày 06.01.1999 (Bl.44). Ngày 13.01.1998, hai bên ký biên bản giao nhận đất để Pre xây dựng xưởng sơn (Bl.36). Ngày 15.7.1998, Pre mới đưa được xưởng sơn vào hoạt động (Bl.756), do đó hàng loạt thiết bị máy móc theo hợp đồng phải được sơn tại sơn tại xưởng, nhưng do chưa có xưởng nên phải đưa ra lắp đặt tại hiện trường trước ngày 15.7.1998 để đảm bảo tiến độ chống lũ năm 1998. Từ ngày 06.01.1998 (ngày hợp đồng bắt đầu có hiệu lực theo thỏa thuận) đến hết ngày 05.5.1999 (16 tháng), bên B đã thi công được 27.221,96 m2, trong đó diện tích sơn tại xưởng là 23.001,38 m2, diện tích sơn tại hiện trường là 4.220,58 m2 (Biên bản đối chất ngày 09.01.2004 - Bl.4121-4120). Ngày 05.5.1999, bằng Công văn số 0101/99/PVN/CT Pre thông báo chấm dứt hoạt động tại xưởng sơn cùng mọi hoạt động khác tại công trường Yaly kể từ ngày 06.5.1999 và bắt đầu tháo dỡ xưởng, thu dọn tất cả vật tư, thiết bị kể từ ngày 17.5.1999 (Bl.72). c. Nguyên đơn yêu cầu Tòa án giải quyết buộc Pre: - Hoàn trả 257.515 USD (tương đương với 3.165.374.380 đồng, theo tỷ giá 12.292VNĐ/USD tại thời điểm ký kết hợp đồng) tiền tạm ứng mà Pre còn đang giữ (Bl.06); - Bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng (chênh lệch đơn giá thi công do phải thuê người khác cao hơn đơn giá trong hợp đồng 785) là 7.347.071.951 đồng (Bl.07); - Chịu phạt phi phạm hợp đồng là 1.135.788.950 đồng (Bl.07); Đối trừ số tiền EVN còn chưa thanh toán cho Pre là 1.322.79.000 đồng thì Pre còn phải thanh toán là 10.758.067.481 đồng. 2. Theo đơn phản tố và trình bày của bị đơn trong quá trình tố tụng thì: a. Về ký kết hợp đồng - Thống nhất như trình bày của nguyên đơn. - Hồ sơ dự thầu không phân biệt đơn giá thi công tại xưởng và đơn giá thi công tại hiện trường như quy định tại Điều 5 của hợp đồng (BBPTPT-Bl.7113). b. Về việc thực hiện hợp đồng - Pre đã xây dựng tại công trường một xưởng phun hạt sắt và sơn di động với trang thiết bị hiện đại trị giá xấp xỉ 600.000 USD để đáp ứng yêu cầu thi công 159.000 m2 và đã đưa vào sử dụng từ ngày 15.7.1998 (Bl.756); - Thống nhất về số liệu với trình bày của nguyên đơn, trong thời gian từ tháng 01.1998 đến tháng 6.1998, Pre đã sơn được 27.221,96 m2, trong đó khối lượng công việc tại xưởng là 23.001,58 m2; khối lượng công việc thực hiện tại công trường là 4.220,58 m2 (Bl.757); - Đã có thay đổi về điều kiện thi công so với hợp đồng đã ký, có nhiều phần công việc đáng lẽ được sơn trong xưởng nhưng lại phải tiến hành sơn ngoài hiện trường. Hai bên đã thống nhất được với nhau về đơn giá cho phần công việc phát sinh ngoài hiện trường này, cho dù phía Pre đã cố gắng giảm giá trong các đề xuất (Pre bắt đầu đề xuất đơn giá mới từ tháng 6.1998 -Bl.759); - Khối lượng công việc thực tế được giao quá ít không đảm bảo tiến độ thực hiện hợp đồng, không đủ để thực hiện việc khấu hao giá trị tài sản đã đầu tư, làm tăng chi phí hoạt động của Pre (Bl.758); - EVN không thực hiện đúng nghĩa vụ thanh toán trong hợp đồng, gây nhiều khó khăn và thiệt hại kinh tế cho Pre (Bl.759-760). c. Pre yêu cầu Tòa án giải quyết buộc EVN: - Phải thanh toán số tiền 130.303,76 USD (tương đương với 1.601.693.811 đồng, theo tỷ giá 12.292VNĐ/USD tại thời điểm ký hợp đồng) cho phần việc Pre đã thực hiện đến hết tháng 7.1999); - Phải trả cho Pre tiền lãi do chậm thanh toán đối với số tiền trên và khoản tiền vật liệu chậm thanh toán là 1.315.274.000 đồng; - Đền bù cho Pre các tổn thất tài chính do lỗi của EVN gây ra là 1.108.399,08 USD (tương đương với 13.624.441.491 đồng, theo tỷ giá 12.292 VNĐ/USD tại thời điểm ký kết hợp đồng). 3. Quá trình giải quyết vụ án: Tại bản án kinh tế sơ thẩm số 01/KTST ngày 14.12.2000 (Bl.1318-1322) Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai quyết định: - Buộc Tổng công ty Điện lực Việt Nam thực hiện nghĩa vụ thanh toán tiền cho Công ty TNHH Prezioso Việt Nam khối lượng công việc đã hoàn thành chưa được thanh toán là 1.370.719.922,8 đồng và trả khoản tiền lãi do chậm thanh toán theo hợp đồng là 41.856.065 đồng. Tổng cộng hai khoản là 1.412.575.987,8 đồng. - Bác yêu cầu của Tổng công ty Điện lực Việt Nam đòi Công ty TNHH Prezioso Việt Nam bồi thường thiệt hại do tiến độ thi công chậm là 1.339.101.434 đồng. - Buộc Công ty Prezioso Việt Nam phải hoàn lại tiền tạm ứng cho Tổng công ty Điện lực Việt Nam là 2.898.540.098 đồng, bồi thường thiệt hại do không tiếp tục thực hiện hợp đồng là 4.091.668.000 đồng và chịu khoản tiền phạt vi phạm hợp đồng là 135.010.350 đồng. Tổng cộng ba khoản là 7.125.218.448 đồng. - Tổng công ty Điện lực Việt Nam được quyền khởi kiện Công ty TNHH Prezioso Việt Nam yêu cầu bồi thường thiệt hại tiếp đối với khối lượng thi công thực tế còn lại theo đúng quy định của pháp luật. - Bác yêu cầu của Công ty TNHH Prezioso Việt Nam đòi Tổng công ty Điện lực Việt Nam bồi thường thiệt hại do phải ngừng thi công, bị tổn thất về tài chính là 20.049.808.224 đồng. - Tổng công ty Điện lực Việt Nam có nghĩa vụ chuyển khoản tiền thuế giá trị gia tăng là 63.105.260 đồng cho Công ty TNHH Prezioso Việt Nam để thực hiện nghĩa vụ nộp thuế cho Nhà nước theo quy định. - Tiếp tục kê biên tài sản của Công ty TNHH Prezioso Việt Nam hiện có trên công trường thủy điện Yaly để đảm bảo cho công tác thi hành án sau này. Ngày 22.12.2000, cả nguyên đơn và bị đơn đều có đơn kháng cáo yêu cầu được xử phúc thẩm lại toàn bộ vụ án; Tại bản án kinh tế phúc thẩm số 01/2002/KTPT ngày 14.4.2002 (Bl.2477-2483), Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Đà Nẵng quyết định: - Bác yêu cầu của Tổng công ty Điện lực Việt Nam đòi Công ty TNHH Prezioso Việt Nam phải bổi thường thiệt hại do chậm tiến độ thi công và một phần bồi thường thiệt hại do không tiếp tục thực hiện hợp đồng với tổng số tiền là 7.116.222.900 đồng. - Bác yêu cầu của Tổng công ty Điện lực Việt Nam khoản tiền phạt do bên B chậm thi công và một phần khoản tiền phạt do vi phạm hợp đồng với tổng số tiền 1.114.145.184 đồng. - Bác yêu cầu của Công ty TNHH Prezioso Việt Nam đòi Tổng công ty Điện lực Việt Nam khoản bồi thường là 20.049.808.224 đồng. - Buộc Tổng công ty Điện lực Việt Nam phải thanh toán tiền cho Công ty Prezioso Việt Nam khối lượng công việc đã hoàn thành nhưng chưa được thanh toán là 1.370.719.922,8 đồng và khoản tiền lãi do chậm thanh toán là 41.856.065 đồng. Tổng hai khoản là 1.412.575.987,8 đồng. - Buộc Công ty TNHH Prezioso Việt Nam phải hoàn lại tiền tạm ứng cho Tổng công ty Điện lực Việt Nam là 2.898.540.098 đồng; bồi thường thiệt hại do ngừng thi công gây ra là 3.891.668.000 đồng; phạt do vi phạm hợp đồng là 225.017.250 đồng. Tổng ba khoản là 7.015.225.348 đồng. - Tổng công ty Điện lực Việt Nam có nghĩa vụ chuyển khoản tiền thuế giá trị gia tăng là 63.105.260 đồng cho Công ty TNHH Prezioso Việt Nam để Công ty thực hiện nghĩa vụ nộp thuế đối với Nhà nước. - Tổng công ty Điện lực Việt Nam có quyền khởi kiện Công ty TNHH Prezioso Việt Nam đòi bồi thường tiếp đối với khối lượng mới thi công thực thế còn lại. Ngày 20.6.2002, Công ty TNHH Prezioso Việt Nam có đơn số 87/02/PVN/ADM (Bl.2507-2510) khiếu nại bản án kinh tế phúc thẩm số 01/2002/KTPT ngày 13.4.2002 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Đà Nẵng. Tại Quyết định kháng nghị số 13/KN-AKT ngày 28.10.2002 (Bl.4045-4039), Viện trưởng, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao nhận định bản hợp đồng số 785/ĐVN/TĐIL-2 ngày 19.12.1997 bị vô hiệu toàn bộ; đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm, hủy bản án sơ thẩm và phúc thẩm để giao về xét xử sơ thẩm lại theo hướng xử lý hợp đồng vô hiệu toàn bộ đối với hợp đồng kinh tế số 785 ĐVN/TĐIL-2 ngày 19.12.1997 theo quy định tại Điều 39 Pháp lệnh về hợp đồng kinh tế. Tại Quyết định giám đốc thẩm số 05/2003/HĐTP-KT ngày 24.02.2003 (Bl.4054-4046), Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao quyết định hủy bản án sơ thẩm và bản án phúc thẩm để xét xử sơ thẩm lại với lý do: - Không có căn cứ để tuyên bố hợp đồng số 785/ĐVN/TĐIL-2 ngày 19.12.1997 vô hiệu toàn bộ như đề nghị của Viện Kiểm sát nhân dân tối cao; ………. - Tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm chưa xác minh làm rõ đến ngày 06.5.1999, khối lượng công việc theo hợp đồng phải được sơn trong xưởng nhưng lại đem ra lắp ráp trước yêu cầu Pre tới thi công ngoài hiện trường là bao nhiêu? Trong đó lỗi của bên B là bao nhiêu? Do lỗi của bên A là bao nhiêu? Để xác định chính xác trách nhiệm của mỗi bên. Ngày 08.4.2003, EVN có đơn khởi kiện bổ sung (Bl.4066-4062) và ngày 22.9.2003, Pre có đơn phản tố (Bl.5011-5007). Trước khi mở phiên tòa sơ thẩm, hai bên đã thỏa thuận được việc thanh toán cho nhau tiền tạm ứng thừa và tiền sơn đối với khối lượng chưa thanh toán giữa hai bên. Tại phiên tòa sơ thẩm ngày 16.6.2004 (Bl.5996-5942), nguyên đơn EVN chỉ còn giữ các yêu cầu buộc Pre phải chịu phạt vi phạm hợp đồng và bồi thường thiệt hại là 11.327.232.993 VND (Bl.5993) và Pre chỉ còn giữ một yêu cầu duy nhất là buộc EVN phải bồi thường toàn bộ giá trị của khối lượng công việc đã mang ra lắp đặt ngoài hiện trường tính đến thời điểm 19.5.1999 là 7.754.315.400 VND; đối với yêu cầu bồi thường về thiệt hại do bị kê biên xưởng sơn và chi phí phục hồi lại máy móc thiết bị tổng cộng là 7.170.022.947 VND đề nghị được bảo lưu để Pre khởi kiện trong một vụ kiện khác. (Bl.5973-5972). Tại bản án kinh tế sơ thẩm số 02/KT-ST ngày 18.6.2004 (Bl.6043-6030) - Bác đơn khởi kiện của Tổng Công ty Điện lực Việt Nam và đơn phản tố của Công ty TNHH Prezioso Việt Nam; - Buộc Tổng Công ty Điện lực Việt Nam phải chịu 39.872.386 VND và Công ty TNHH Prezioso Việt Nam phải chịu 36.448.414 VND án phí kinh tế sơ thẩm; Ngày 21.6.2004, Pre kháng cáo một phần bản án sơ thẩm (Bl.6026-6025), yêu cầu xử buộc EVN phải bồi thường thiệt hại cho Pre số tiền là 7.754.315.400 VND theo yêu cầu phản tố; Tại quyết định số 01/KNKT ngày 24.6.2004 (Bl.6028-6027), Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Gia Lai kháng nghị bản án sơ thẩm, yêu cầu Tòa Phúc thẩm Tòa án nhân dân tối tại Đã Nẵng sửa một phần bản án sơ thẩm, chấp nhận một phần yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại của Công ty TNHH Prezioso Việt Nam; Ngày 25.6.2004, EVN kháng cáo bản án sơ thẩm (Bl.6022-6021) và có bản giải trình cụ thể số 1164 ngày 22.9.2004 (Bl.7004-7008) cho rằng bản án sơ thẩm chưa xem xét chứng cứ do EVN đưa ra, nên quyền và lợi ích hợp pháp của EVN không được đảm bảo. Yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm xem xét lại phần bác các yêu cầu của EVN của bản án sơ thẩm. Tại bản án kinh tế phúc thẩm số 06 ngày 05.5.2005 (Bl.7129-7136), Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Đà Nẵng giữ nguyên nhận định của Tòa án cấp sơ thẩm về lỗi vi phạm hợp đồng của EVN trong việc đưa 50.681,8 m2 ra lắp ngoài hiện trường là nguyên nhân dẫn đến Pre đơn phương hủy bỏ hợp đồng sau khi không thỏa thuận được đơn giá thi công ngoài hiện trường. Căn cứ vào lời khai tại phiên tòa của bị đơn Pre về tỷ lệ tiền lãi trên đơn giá sơn theo hợp đồng (Bl.7104), Tòa án cấp phúc thẩm đã chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Gia Lai và yêu cầu tại phiên tòa phúc thẩm của Pre, sửa một phần bản án sơ thẩm; buộc EVN phải bồi thường cho Pre số lợi nhận lẽ ra được hưởng bằng 10% giá ghi trên hợp đồng trên tổng số diện tích sơn đã được lắp đặt trước ngoài hiện trường là 50.681,8 m2 x 153.000đ/ m2 x 10% = 775.431.540 đồng. Tính lại tiền án phí kinh tế sơ thẩm. Sau khi có bản án phúc thẩm, EVN có đơn khiếu nại giám đốc thẩm số 2861/CV-EVN-TTBV&PC ngày 07.6.2005; số 5401/CV-EVN-TTBV&PC ngày 18.10.2005; số 1559/CV-EVN-TTBV&PC ngày 03.3.2006; số 5422/CV-EVN-TTBV&PC ngày 16.10.2006; số 3837/CV-ENV-PC ngày 24.7.2007; số 1505/CV-EVN ngày 03.4.2008 gửi Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao. Tại quyết định số 06/2008/TATC-KT ngày 02.5.2008, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao kháng nghị bản án kinh tế phúc thẩm số 06 ngày 05.5.2005 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Đà Nẵng; đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm theo hướng hủy cả hai bản án sơ thẩm và phúc thẩm, giao hồ sơ về Tòa án cấp sơ thẩm để xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật. Tại bản kết luận số 13/KL-VKSTC-V12 ngày 07.7.2008 và tại phiên tòa giám đốc thẩm, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tối cao đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao không chấp nhận kháng nghị số 06/2008/TATC-KT ngày 02.5.2008 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao; giữa nguyên bản án kinh tế phúc thẩm số 06 ngày 05.5.2005 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Đà Nẵng. XÉT THẤY Tại quyết định giám đốc thẩm số 05/2003/HĐTP-KT ngày 24.02.2003, Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã nhận định: “Tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm chưa điều tra, xác định rõ: Đến ngày 06.5.1999, khối lượng công việc theo hợp đồng phải được sơn trong xưởng nhưng lại đem ra lắp ráp trước rồi yêu cầu Prezioso tới thi công ngoài hiện trường là bao nhiêu? Trong đó do lỗi của bên B là bao nhiêu? Do lỗi của bên A là bao nhiêu? Để xác định chính xác trách nhiệm của mỗi bên”. Từ đó đã quyết định hủy bản án kinh tế sơ thẩm số 01/KTST ngày 14.12.2000 của Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai và bản án kinh tế phúc thẩm số 01/2002/KTPT ngày 14.4.2002 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Đà Nẵng để xét xử sơ thẩm lại. - Khi xét xử lại, Tòa án cấp sơ thẩm và cấp phúc thẩm vẫn chưa thực hiện đúng yêu cầu của quyết định giám đốc thẩm về các vấn đề: - Ngoài việc xác định khối lượng công việc sơn đã được lắp đặt trước tại hiện trường (chưa sơn) là 50.681,8 m2 tính đến ngày 18.5.1999 (theo “bảng kê khối lượng thiết bị của thủy điện Yaly ký ngày 19.5.1999” (Bl.5334-5336) và bảng sơn tổng hợp sơn thiết bị Yaly (Bl.5333) của EVN), thì chưa xác định được trong đó có bao nhiêu diện tích theo hợp đồng phải được sơn trong xưởng nhưng lại đem ra lắp ráp trước ngoài hiện trường? Có bao nhiêu diện tích theo hợp đồng phải được sơn ngoài hiện trường? - Chưa làm rõ được trong số diện tích đáng lẽ phải được sơn trong xưởng nhưng lại mang ra lắp đặt ngoài hiện trường trước khi sơn thì bao nhiêu là do lỗi của nguyên đơn? Bao nhiêu là do lỗi của bị đơn? Để qua đó giải quyết từng yêu cầu của các đương sự. a. Những sai lầm của Tòa án cấp sơ thẩm: Ngày 10.10.2003, EVN có Công văn số 1095/EVN-TDD4-P2 (Bl.4108-4100) giải trình yêu cầu phản tố của Pre, đã chứng minh khối lượng và nguyên nhân đưa công việc sơn từ xưởng ra ngoài hiện trường, cụ thể là: - Do xưởng sơn đưa vào hoạt động muộn (hợp đồng có hiệu lực từ tháng 01.1998 nhưng cho đến ngày 15.7.1998 Pre mới đưa được xưởng sơn vào hoạt động) nên để kịp tiến độ của công trường, EVN đã phải đưa ra lắp đặt ngoài hiện trường số thiết bị có diện tích sơn là 23.345 m2 (Bl.4105-4104, 4102); - Sau khi có xưởng sơn thì Pre không kịp sơn, do tiến độ của công trường buộc phải đem ra hiện trường lắp (có bảng thống kê kèm theo-Bl.4104); - Do không đủ nhân lực nên Pre chỉ tập trung thi công trong xưởng, không có người để thi công tại hiện trường đối với những công việc theo hợp đồng phải sơn ngoài hiện trường (Bl.4103). - Để đảm bảo tiến độ và chất lượng công trình và do Pre không thực hiện việc sơn ngoài hiện trường đối với những hạng mục phải sơn ngoài hiện trường theo Điều 5.3 của hợp đồng 785 (khe van, tấm đệm, cửa van), mà những thiết bị này sẽ bị vĩnh viễn ngập dưới nước (Bl.4102-4101), EVN đã có nhiều văn bản đôn đốc Pre thi công từ đầu năm 1998 (Bl.5085-5088), nhưng vì Pre không chịu sơn, buộc lòng EVN phải thuê lắp máy 10 thi công mới đảm bảo yêu cầu tiến độ (Bl.4114.s); Thực tế, EC10 đã sơn 2.228,8 m2. Tại buổi làm việc ngày 20.10.2003 (Biên bản lấy lời khai – Bl.4117-4112) và lời trình bày tại phiên tòa sơ thẩm ngày 16.6.2004 (BBPTST-Bl.5984-5983), đại diện hợp pháp của EVN cũng đã chứng minh khối lượng và nguyên nhân đưa công việc sơn từ xưởng ra ngoài hiện trường như sau: - Vì tiến độ công trình, trước khi ký kết hợp đồng số 785 đã có 2.480 m2 được lắp đặt trước (Bl.4116), trong đó có 20 đoạn ống tuốc bin (ống TB) với tổng diện tích là 1.686 m2 và các khe van cửa nhận nước có diện tích 794 m2. Pre biết rõ số lượng này khi tham gia ký biên bản thỏa thuận ngày 18.02.1998 (Bl.4110-4109); - Từ khi ký hợp đồng 785 cho đến ngày đưa được xưởng sơn vào hoạt động từ 19.12.1997 đến 15.7.1998 - giai đoạn chưa có xưởng sơn), có 23.345 m2 phải mang ra lắp đặt tại hiện trường cho kịp tiến độ (Bl.4116.s); - Sau khi xưởng sơn đã đưa vào hoạt động cho đến ngày chấm dứt thực hiện hợp đồng (từ ngày 15.7.1998 đến ngày 06.5.1999), có 2.645 m2 đáng lẽ phải sơn trong xưởng nhưng do Pre không đủ năng lực, sơn không kịp nên phải lấy về để lắp cho kịp tiến độ (Bl.4116.s). Từ những nguyên nhân trên, đã có 28.470 m2 buộc phải lắp đặt ngoài hiện trường khi chưa sơn mà không phải do lỗi của EVN. - Không có diện tích sơn nào thuộc loại phải sơn trong xưởng mà EVN chủ động đưa ra lắp đặt trước ngoài hiện trường rồi mới yêu cầu Pre đến thi công sơn (Bl.4115). - Theo EVN, bản chất của vụ án là do Pre không đủ năng lực thực hiện hợp đồng, không có thiết bị thi công cần thiết, nhân lực thiếu. Để đối phó, Pre đưa ra yêu cầu tăng giá cao so với giá bỏ thầu, tạo cớ để đơn phương chấm dứt hợp đồng (Bl. 4116.s; BBPTST - Bl.5988). Với ý đồ không tiếp tục thực hiện hợp đồng, sau đó bảo lãnh thực hiện hợp đồng hết hiệu lực vào tháng 01.1999, Pre không nộp bảo lãnh nối tiếp nữa như quy định tại Điều 13 của Hợp đồng số 785 (Bl.21) và Điều 1.3 phục lục số 03 ngày 14.01.1998 (Bl.28). Tại phiên tòa sơ thẩm, đại diện của Pre không bác bỏ số liệu của EVN và cũng không đưa ra được số lượng diện tích phải sơn ngoài hiện trường theo quy định của hợp đồng số 785 là bao nhiêu (Bl.5965-5962). - Theo đại diện của Pre, lý do chính để Pre dừng thực hiện hợp đồng số 785 là do các điều kiện thi công thay đổi, trong khi đang thương thảo về giá thì EVN giao việc cho EC10 (Bl. 5966). Do EVN giao việc cho EC10 nên Pre không còn việc để thi công sơn ở ngoài hiện trường (Bl. 5965). Tòa án cấp sơ thẩm không kiểm tra, đánh giá những số liệu, chứng cứ và lý do nêu trên của các đương sự mà chỉ căn cứ vào “bảng kê khối lượng sơn thiết bị của thủy điện Yaly ký ngày 19.5.1999” (Bl. 5334-5336) và bảng tổng hợp sơn ngoài hiện trường trước khi sơn là lỗi hoàn toàn thuộc về EVN (Bl. 6033). Mặc dù kết luận lỗi hoàn toàn thuộc về EVN, nhưng Tòa án cấp sơ thẩm lại bác toàn bộ các yêu cầu của nguyên đơn và bị đơn là mẫu thuẫn giữa quyết định và nhận định. b. Những sai lầm của Tòa án cấp phúc thẩm: Ngày 22.9.2004, EVN có Công văn số 1164/EVN-ATDD4-P6 (Bl.7004-7008): - Tổng số diện tích phải sơn ngoài hiện trường theo quy định tại hợp đồng số 785 là 19.568,38 m2 (trên tổng diện tích phải sơn cả công trình đã được nghiệm thu là 94.470,71 m2, chiếm tỷ lệ 21% - Bl. 7008); - Trước ngày hợp đồng số 785 có hiệu lực, đã có 2.480 m2 được đưa ra hiện trường lắp đặt trước khi sơn (Bl.7008); - Trong thời gian từ ngày 06.01 đến ngày 15.7.1998, có 11.010 m2 đáng lẽ được sơn trong xưởng nhưng phải đưa ra hiện trường lắp đặt trước khi sơn vì chưa có xưởng sơn (Bl. 7008); - Sau khi đã có xưởng sơn (từ ngày 15.7.1998 đến ngày Pre chấm dứt thực hiện hợp đồng – 06.5.1999), có 2.645,32 m2 (Bl. 7008) đáng lẽ phải được sơn trong xưởng, nhưng đã phải đưa ra hiện trường lắp đặt trước khi sơn do Pre không sơn kịp tiến độ (Bl.7005). - Tại phiên tòa phúc thẩm (Bl.7106-7128), EVN đã đề nghị cần làm rõ lý do phải đưa ra ngoài hiện trường số lượng diện tích chưa sơn hơn 50.000 m2 mang ra lắp đặt ngoài hiện trường trước khi sơn đều do lỗi của Pre (Bl. 7109). - Theo “bảng giải trình khối lượng chưa sơn tại hiện trường theo bảng kê ngày 19.5.1999” của EVN (Bl.6951-6953), 48.452,98 m2 (cột F) đã lắp đặt ngoài hiện trường nhưng chưa sơn lại thời điểm ngày 19.5.1999 bao gồm: - Khối lượng phải sơn ngoài hiện trường theo quy định trong hợp đồng 785 là 6.965,51 m2 (cột G); - Khối lượng phải đưa ra ngoài hiện trường trước khi có xưởng sơn là 12.349,32 m2 (cột H); - Khối lượng thiết bị siêu trọng, Pre không có năng lực kỹ thuật để vận chuyển vào xưởng sơn (lời khai lại Bl.4114) là 13.286,95 m2 (cột I); - Khối lượng phải đưa ra hiện trường do Pre không sơn kịp tiến độ (sau khi đã có xưởng sơn) là 3.972,20 m2 (cột J) - Khối lượng phát sinh sau khi Pre đã chấm dứt hợp đồng là: 119 m2 (cột K); - Khối lượng thực tế không phải sơn (nhà sản xuất thiết bị đã sơn tốt rồi) là 11.760 m2 (cột L). EVN khẳng định tất cả các khối lượng phải đưa ra ngoài hiện trường khi chưa sơn đều không do lỗi của EVN. Tòa án cấp phúc thẩm không xem xét những nội dung và số liệu chi tiết do EVN cung cấp nêu trên để xác định lỗi của từng bên trong việc đưa 50.681,80 m2 phải sơn ra ngoài hiện trường, mà chỉ căn cứ vào “Bảng kê khối lượng sơn thiết bị của thủy điện Yaly ký ngày 19.5.1999” (Bl.5334-5336) và bảng tổng hợp sơn thiết bị Yaly (Bl.5333) của EVN để quy kết toàn bộ diện tích 50.681,80 m2 đưa ra ngoài hiện trường trước khi sơn là lỗi hoàn toàn thuộc về EVN và bác toàn bộ các yêu cầu của nguyên đơn, chấp nhận một phần yêu cầu của bị đơn Pre là không xem xét và đánh giá toàn diện các chứng cứ của vụ án. Về việc cho Pre hưởng lãi 10% trên tổng giá trị công việc sơn đối với khối lượng thiết bị đã lắp đặt sẵn tại hiện trường là 50.681,80m2 x 153.000đ/m2 x 10% = 775.431.540 đồng: - Không có căn cứ để xác định Pre lãi 10% trên giá thỏa thuận trong hợp đồng. Cách tính của Tòa cấp phúc thẩm không đúng với quy định tại phụ lục I và phụ lục II của Thông tư số 08/1997/TT-BXD ngày 05.12.1997 của Bộ Xây dựng (cả thuế và lãi mới chiếm 9 - 12% của chi phí trực tiếp và chi phí chung, chứ không phải trên tổng giá trị khối lượng công việc sơn. Tức là: Cộng cả phần thuế và lãi vào các chi phí trên ta mới có 100% tổng giá trị khối lượng công việc sơn). - Việc Tòa án cấp phúc thẩm tính lãi trên toàn bộ diện tích 50.681,80 m2 lắp đặt ngoài hiện trường trước khi sơn là không có căn cứ, đó là toàn bộ diện tích chưa sơn đã được lắp đặt ngoài hiện trường với rất nhiều lý do khác nhau như đã nói ở trên, trong đó bao gồm cả diện tích Pre phải sơn ngoài hiện trường theo quy định trong hợp đồng số 785 và có thể bao gồm cả diện tích Pre có lỗi khi phải đưa công việc sơn trong xưởng ra ngoài hiện trường. Tòa án cấp phúc thẩm không kết luận được lỗi hoàn toàn thuộc về EVN. - Việc nhận tổng khối lượng chưa sơn đã lắp đặt trước ngoài hiện trường (50.681,80 m2) với một loại đơn giá cao nhất (đơn giá thi công hệ sơn ngập nước-153.000đ/m2) để tính ra số tiền lãi Pre được hưởng là không có căn cứ. Tòa án cấp phúc thẩm đã không kết luận được toàn bộ khối lượng chưa sơn đã lắp đặt trước ngoài hiện trường (50.681,80 m2) đều thuộc loại phải sơn bằng hệ sơn ngập nước chứ không có diện tích sơn bằng hệ sơn không ngập nước chỉ có đơn giá thi công là 125.000 đồng/m2 hoặc hệ sơn trang trí có đơn giá thi công là 40.000đ/m2. Bởi các lẽ trên, Căn cứ vào khoản 3 Điều 297; khoản 1 và khoản 2 Điều 299 của Bộ luật tố tụng dân sự, QUYẾT ĐỊNH 1. Huỷ bản án kinh tế sơ thẩm số 02/KT-ST ngày 18.6.2004 của Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai và bản án kinh tế phúc thẩm số 06 ngày 05.5.2005 của Tòa Phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Đà Nẵng về vụ án tranh chấp hợp đồng xây dựng giữa nguyên đơn Tổng Công ty Điện lực Việt Nam và bị đơn Công ty TNHH Prezioso Việt Nam (nay là Công ty Viva - Blast Việt Nam). 2. Giao hồ sơ vụ án cho Toà án nhân dân tỉnh Gia Lai xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật. Bài 5: Nhận xét của anh, chị về: - Quan hệ pháp luật về nội dung trong vụ án - Thành phần, tư cách đương sự trong vụ án - Chứng cứ và sử dụng chứng cứ trong vụ án Quyết định giám đốc thẩm về vụ án "Tranh chấp quyền sở hữu tài sản" …….. Ngày 07 tháng 10 năm 2008, tại trụ sở Tòa án nhân dân tối cao đã mở phiên tòa giám đốc thẩm xét xử vụ án dân sự “tranh chấp về quyền sở hữu tài sản” giữa: Nguyên đơn: 1. Ông Huỳnh Văn Thăng, sinh năm 1963; trú tại ấp 1, xã Mỹ Hiệp, huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp; ủy quyền cho bà Huỳnh Kim Phụng đại diện (văn bản ủy quyền ngày 17-12-2002). 2. Bà Huỳnh Thị Lang, sinh năm 1952, ở Mỹ; ủy quyền cho bà Huỳnh Kim Phụng và ông Huỳnh Văn Thăng đại diện (văn bản ủy quyền ngày 13-12-2002 và ngày 30-7-2004). Bị đơn: Ông Trần Thanh Tiến, sinh năm 1949; trú tại ấp 3, xã Bình Hàng Tây, huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp; ủy quyền cho con là anh Trần Quốc Dũng đại diện (văn bản ủy quyền ngày 11-3-2003). Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: 1. Chi nhánh Ngân hàng Công thương tỉnh Đồng Tháp; có ông Dư Minh Trí cán bộ pháp chế của ngân hàng được ủy quyền thường xuyên tham gia tố tụng (văn bản ủy quyền số 2220/NHCT18 ngày 23-7-2001 của Tổng giám đốc Ngân hàng Công thương Việt Nam). 2. Điện lực Đồng Tháp; ủy quyền cho ông Nguyễn Thanh Bình là cán bộ của Điện lực Đồng Tháp đại diện (văn bản ủy quyền ngày 22-4-2003). 3. Bà Thái Hồng Phượng sinh năm 1963; trú tại ấp Mỹ Tân, phường 2, thị trấn Mỹ Thọ, huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp. 4. Ông Trần Ngọc Liên sinh năm 1956; trú tại 89 Nguyễn Huệ, phường 2, thị xã Vĩnh Long, tỉnh Vĩnh Long. 5. Ông Nguyễn Công Bình sinh năm 1962; trú tại ấp 1, xã Bình Hàng Trung, huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp. 6. Bà Bùi Thị Anh Thư sinh năm 1959; trú tại ấp 3, xã Bình Hàng Tây, huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp. 7. Bà Huỳnh Thị Thế sinh năm 1952, trú tại ấp 3, , xã Bình Hàng Tây, huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp; ủy quyền cho bà Huỳnh Thị Lan đại diện (văn bản ủy quyền ngày 30-6-2003). NHẬN THẤY: Tại đơn khởi kiện ngày 09-12-2002 và trong quá trình tố tụng, nguyên đơn là ông Huỳnh Văn Thăng và bà Huỳnh Thị Lang (do bà Huỳnh Thị Phụng đại diện theo ủy quyền) trình bày: Năm 1991 cụ Huỳnh Văn Diệp (cha ông Thăng, bà Lang) đã mua nhà máy nước đá và nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất với tổng diện tích 4.715m2 tại ấp 3, xã Bình Hàng Tây, huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp; sau đó cụ cho ông Thăng tài sản này. Ông Thăng, bà Lang đã chi tiền nâng cấp, mở rộng nhà máy nước đá. Năm 1994 ông Thăng được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, diện tích 4.715m2. Năm 1995 ông Thăng được Ủy ban nhân dân tỉnh Đồng Tháp cho phép thành lập doanh nghiệp tư nhân (tên Doanh nghiệp là Nhà máy nước đá Bình Hàng Tây). Ngày 05-01-1999 ông Thăng lập hợp đồng ủy quyền cho bà Lang “được toàn quyền quản lý doanh nghiệp, ký kết hợp đồng mua bán, thế chấp vay vốn ngân hàng, sang bán doanh nghiệp”, thời hạn ủy quyền là 4 năm kể từ ngày 05-01-1999. Bà Lang đã ký vào hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 03-11-1999 (giữa bên chuyển nhượng đề tên ông Thăng, bên nhận chuyển nhượng đề tên ông Tiến) với diện tích 4.715m2, giá 10.000.000 đồng, nhưng bà Lang không thừa nhận nội dung hợp đồng này vì ông Tiến (thợ kỹ thuật sửa chữa máy sản xuất đá) đã viết sẵn hợp đồng và đưa cho bà Lang ký trong khi bà Lang không biết chữ. Ngày 08-11-1999 ông Thăng và bà Lang ủy quyền cho ông Trần Thanh Tiến được “toàn quyền làm chủ cơ sở nước đã nhưng không được quyền sang bán hay chuyển nhượng cho ai…”; nhưng ông Tiến lại tự ý làm thủ tục xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, rồi thế chấp quyền sử dụng đất, nhà máy nước đá cho ngân hàng để vay vốn; ông Tiến còn tự ý tháo gỡ một số trang thiết bị của nhà máy mang bán. Ông Thăng và bà Lang yêu cầu Tòa án hủy giấy ủy quyền giữa ông Thăng, bà Lang với ông Tiến; buộc ông Tiến trả lại diện tích đất 4.715m2 , nhà máy sản xuất nước đã với một số tài sản khác trên đất này. Bị đơn là ông Trần Thanh Tiến (do anh Trần Quốc Dũng đại diện theo ủy quyền trình bày): Ngày 05-01-1999 ông Thăng đã ủy quyền cho bà Lang được toàn quyền mua bán doanh nghiệp. Ngày 03-11-1999 bà Lang chuyển nhượng cho ông Tiến quyền sử dụng hai thửa đất (thửa số 1079 và thửa số 1089) với diện tích 4.715m2 tại ấp 3, xã Bình Hàng Tây, huyện Cao Lãnh với giá 10.000.000 đồng. bà Lang là người chuyển nhượng đất cho ông Tiến, nhưng trong hợp đồng ghi tên ông Thăng (bên chuyển nhượng); ông Tiến đã nhận chuyển nhượng cả đất và nhà máy nước đá. Ngày 08-11-1999 ông Thăng, bà Lang lại ký giấy ủy quyền cho ông Tiến được toàn quyền làm chủ nhà máy nước đá. Ngày 29-02-2000 ông Tiến được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất với diện tích 4.715m2 và sau đó Doanh nghiệp tư nhân Tiến Thành được thành lập. Ngày 26-6-2000 ông Tiến được cấp “Giấy chứng nhận kinh doanh doanh nghiệp tư nhân Tiến Thành”, ngành nghề kinh doanh là: sản xuất và kinh doanh nước đá, chủ doanh nghiệp là ông Tiến. Ông Tiến đã xây dựng nhà cấp 3, bờ kè, hàng rào, nhà bếp, nhà tiền chế và chi phí làm đường. Đến ngày 09-01-2002 ông Tiến được cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà (đối với nhà cấp 3 nêu trên), như vậy, nhà máy nước đã, đất và tài sản trên đất này là của ông Tiến; nên không đồng ý trả đất, nhà máy nước đã và các tài sản khác trên đất theo yêu cầu của nguyên đơn. Anh Dũng đồng ý trả các khoản nợ do ông Tiến đã vay hoặc còn nợ tiền hàng theo yêu cầu của các chủ nợ (là những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan); riêng khoản nợ bà Phượng 160.000.000 đồng (do ông Tiến đã vay của bà Phượng từ ngày 30-5-2001 đến tháng 4 năm 2002), lãi 5%/tháng, thì ông Tiến đã trả lãi cho bà Phượng 88.666.000 đồng; yêu cầu tính lại lãi theo quy định, số tiền lãi trả dư đề nghị được trừ vào tiền nợ gốc. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Chi nhánh Ngân hàng Công thương tỉnh Đồng Tháp trình bày: Theo hợp đồng tín dụng số 105/HĐTD ngày 25-5-2001 và Hợp đồng tín dụng số 76/HĐTD ngày 21-3-2002, Chi nhánh Ngân hàng Công thương tỉnh Đồng Tháp đã cho ông Trần Thanh Tiến (chủ doanh nghiệp tư nhân Tiến Thành) vay tổng số tiền là 500.000.000 đồng; cho đến ngày 11-02-2003, ông Tiến đã trả được 250.000.000 đồng, còn 250.000.000 đồng chưa trả (nợ gốc); ông Tiến có thế chấp tài sản gồm: quyền sử dụng 4.715m2 đất; xe ô tô hiệu KAMAZ mang biển kiểm soát là 66S-766, xe ô tô hiệu INTERNATION mang biển kiểm soát là 66S-1955; nhà cấp 3 (theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 09-01-2002), toàn bộ dây chuyền sản xuất nước đá cây. Chi nhánh ngân hàng Công thương tỉnh Đồng Tháp yêu cầu ông Tiến trả nợ gốc và lãi cho Ngân hàng; nếu ông Tiến không thực hiện được nghĩa vụ trả nợ thì yêu cầu Tòa án xử lý phần tài sản mà ông Tiến đã thế chấp để thu hồi nợ trả cho Ngân hàng. Công ty Điện lực Đồng Tháp yêu cầu ông Tiến là chủ Doanh nghiệp tư nhân Tiến Thành trả tiền điện còn thiếu của tháng 3 năm 2003 và tháng 4 năm 2003 với tổng số tiền là 62.622.010 đồng và trả lãi theo quy định. Bà Bùi Anh Thư trình bày: từ ngày 31-5-2000 đến ngày 29-10-2001, bà đã bán dầu cho nhà máy nước đá Bình Hàng Tây (do ông Tiến làm chủ) với số tiền 17.016.000 đồng; do đó, yêu cầu ông Tiến trả số tiền này, không yêu cầu tính lãi. Ông Nguyễn Công Bình trình bày: ngày 14-11-2000, ông cho bà Lang và ông Tiến vay 20.000.000 đồng, lãi 2%/tháng, thời hạn vay 3 tháng; sau 3 tháng bà Lang và ông Tiến không trả tiền và yêu cầu ông tính lãi 2%/tháng; ông đã nhận tiền lãi đến ngày 10-10-2002 với tổng số tiền là 12.000.000 đồng; do đó, yêu cầu ông Tiến trả vốn và lãi. Bà Huỳnh Thị Lan trình bày: ông Tiến vay của bà 30.000.000 đồng từ ngày 16-5-2001, lãi 4%/tháng; đã trả lãi được 12 tháng là 14.400.000 đồng; do đó, yêu cầu ông Tiến trả vốn và lãi. Bà Trần Ngọc Liên trình bày: ngày 02-02-2001 cửa hàng của bà đã bán cho ông Tiến là chủ Doanh nghiệp tư nhân Tiến Thành 420 tấm tole để làm khuôn nước đá, ông Tiến trả tiền hàng còn thiếu 8.000.000 đồng, do đó, yêu cầu ông Tiến trả số tiền này và trả lãi. Bà Thái Hồng Phượng trình bày: vào ngày 01-4-2002 bà cho ông Tiến vay 160.000.000 đồng, lãi 5%/tháng; lãi trả từng tháng; thời hạn vay 1 năm; ông Tiến trả lãi đến tháng 7/2002 thì ngưng; bà đã nhận tiền do ông Tiến trả lãi là 24.000.000 đồng; do đó, yêu cầu ông Tiến trả nợ gốc là 160.000.000 đồng và lãi theo quy định từ tháng 7/2002 đến ngày xét xử sơ thẩm. Tại bản án dân sự sơ thẩm số 02/DSST ngày 01-8-2003, Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Tháp quyết định: Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn đòi ông Trần Thanh Tiến trả lại diện tích đất và toàn bộ dây chuyền nhà máy sản xuất nước đá. Hủy hợp đồng ủy quyền giữa ông Huỳnh Văn Thăng, bà Huỳnh Thị Lang và ông Trần Thanh Tiến ngày 08-11-1999. Hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà Huỳnh Thị Lang và ông Trần Thanh Tiến ngày 15-11-1999. Bác yêu cầu của ông Trần Thanh Tiến được sử dụng phần đất và sở hữu nhà máy nước đá do bà Lang chuyển nhượng Buộc ông Trần Thanh Tiến (người được ủy quyền là anh Trần Quốc Dũng) phải giao trả lại cho ông Huỳnh Văn Thăng diện tích đất 4.715m2 gồm hai thửa: 1079 và 1089 theo Giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất số: 568820 ngày 15-9-1994 do ông Huỳnh Văn Thăng đứng tên quyền sử dụng đất, đất tọa lạc tại ấp 3, xã Bình Hàng Tây, huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp. Đề nghị Ủy ban nhân dân huyện Cao Lãnh thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 0943296 ngày 29-02-2000 tên Trần Thanh Tiến. Buộc ông Trần Thanh Tiến (người được ủy quyền là anh Trần Quốc Dũng) phải giao trả lại toàn bộ tài sản dây chuyền sản xuất nhà máy nước đá đã được kê biên định giá ngày 13-3-2003 (ngày ký biên bản định giá ngày 03-6-2003) kể cả bình hạ thế điện (trừ tiền diện tích đất 4.715m2 được giao trả và các tài sản bà Phụng thỏa thuận trả tiền cho ông Tiến gồm nhà cấp 3, bờ kè, hàng rào, nhà bếp tổng số tiền là 389.549.276 đồng). Các tài sản trên Trần Quốc Dũng đang quản lý vẫn tiếp tục giao cho Trần Quốc Dũng quản lý đến khi án có hiệu lực và được thi hành án, trong thời gian này nếu có hư hao, mất mát tài sản thì phải bồi thường theo giá trị đã định lúc kê biên. Chấp nhận sự tự nguyện của bà Huỳnh Kim Phụng (người được ông Thăng ủy quyền) nhận sở hữu một nhà cấp 3, bờ kè, hàng rào, bếp và trả lại cho ông Tiến số tiền trị giá tài sản 389.549.276 đồng (Ba trăm tám mươi chín triệu năm trăm bốn mươi chín ngàn hai trăm bảy mươi sáu đồng). Tiếp tục quản lý số tiền của ông Trần Thanh Tiến do ông Thăng trả lại để đảm bảo thi hành án cho Ngân hàng Công thương Đồng Tháp, Điện lực Đồng Tháp và những người có liên quan khác. Chấp nhận sự tự nguyện của bà Huỳnh Kim Phụng và ông Trần Quốc Dũng (người được ông Tiến ủy quyền) đồng ý để ông Tiến dỡ căn nhà tiền chế (loại nhà khung lắp ghép) ra khỏi diện tích đất của ông Thăng (căn nhà này không có trong bản kê biên ngày 13-3-2003). Công nhận sự thỏa thuận tự nguyện giữa ông Trần Quốc Dũng (người được ông Tiến ủy quyền) và những người có liên quan, ông Tiến phải trả vốn và lãi cho những người liên quan, cụ thể như sau: 1. Trả cho Ngân hàng Công thương Đồng Tháp số tiền 271.633.333 đồng (hai trăm bảy mươi mốt triệu sáu trăm ba mươi ba ngàn ba trăm ba mươi ba đồng) cả vốn và lãi. Số tiền vốn 250.000.000 đồng (hai trăm năm mươi triệu đồng) được tính lãi liên tục kể từ ngày 30-7-2003 đến khi thi hành án xong, số tiền theo lãi xuất nợ quá hạn do Ngân hàng nhà nước quy định. 2. Trả cho Công ty Điện lực Đồng Tháp số tiền 65.575.790 đồng (sáu mươi lăm triệu năm trăm bảy mươi lăm ngàn bảy trăm chín mươi ngàn đồng) vốn và lãi. 3. Trả cho bà Bùi Thị Anh Thư số tiền 17.016.000 đồng ( mười bảy triệu không trăm mười sáu ngàn đồng) không yêu cầu. 4. Trả ông Nguyễn Công Bình số tiền 14.744.570 đồng (mười bốn triệu bảy trăm bốn mươi ngàn năm trăm bảy mươi đồng) vốn và lãi. 5. Trả cho bà Thái Hồng Phượng số tiền 156.863.720 đồng (một trăm năm mươi sáu triệu tám trăm sáu mươi ba ngàn đồng bảy trăm hai mươi đồng) vốn và lãi. 6. Trả cho bà Huỳnh Thị Thế (người được ủy quyền là bà Huỳnh Thị Lan) số tiền 21.428.592 đồng (hai mươi mốt triệu bốn trăm hai mươi tám ngàn năm trăm chín mươi hai đồng) vốn và lãi. 7. Trả cho bà Trần Ngọc Liên số tiền 8.148.800 đồng (tám triệu một trăm bốn mươi tám ngàn tám trăm đồng) vốn và lãi. Kể từ ngày Công ty Điện lực Đồng Tháp, ông Nguyễn Công Bình, bà Thái Hồng Phượng, bà Trần Ngọc Liên, bà Huỳnh Thị Thế có đơn yêu cầu thi hành án đối với số tiền phải trả, nếu ông Tiến chậm thi hành thì sẽ được tiếp tục tính lãi theo mức lãi xuất nợ quá hạn do Ngân hàng Nhà nước quy định tương ứng với thời gian chưa thi hành án cho đến khi thi hành án xong. Kể từ ngày ông Tiến có đơn yêu cầu thi hành án số tiền, tài sản nếu ông Thăng chậm thi hành thì sẽ được tính lãi do Ngân hàng Nhà nước quy định tương ứng với thời gian chậm thi hành án. Ngoài ra Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về án phí. Ngày 11-8-2003, ông Trần Thanh Tiến có đơn kháng cáo cho rằng toàn bộ tài sản là của ông, không đồng ý trả đất và nhà máy nước đá, nhà cấp 3, bờ kè, hàng rào, nhà bếp; yêu cầu bà Lang cùng với ông trả khoản nợ chung cho ông Bình. Tại bản án dân sự phúc thẩm số 105/DS-PT ngày 09-4-2004, Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh quyết định: 1. Hủy một phần bản án sơ thẩm về việc giải quyết diện tích 4.715m2 đất, dây chuyền nhà máy nước đá và các phần nhà, bờ kè, hàng rào, nhà bếp, nhà tiền chế mà ông Tiến đã xây dựng và sửa chữa thêm trên diện tích đất nêu trên và tiền án phí sơ thẩm liên quan đến phần đất và tài sản trên. Giao hồ sơ về lại Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Tháp để điều tra, xét xử lại từ giai đoạn sơ thẩm theo thủ tục chung. 2. Công nhận sự thỏa thuận giữa ông Trần Thanh Tiến và ông Huỳnh Văn Thăng về việc trả số nợ cho ông Nguyễn Công Bình như sau: + Ông Tiến và bà Lang (có ông Thăng đại diện) cùng chịu trách nhiệm trả số nợ vốn và lãi cho ông Bình làn 14.744.750 đồng. Mỗi người phải trả 1/2 số nợ trên là 7.372.375 đồng. + Bà Huỳnh Thị Lang (có ông Thăng đại diện) phải trả lại cho ông Tiến 1/2 số tiền (12.000.000 đồng) mà ông Tiến phải trả lãi cho ông Bình trước đây là 6.000.000 đồng. 3. Án phí dân sự sơ thẩm (đối với tiền nợ): + Ông Tiến phải chịu: 4.742.443 đồng. + Bà Lang chịu: 668.618 đồng. Án phí dân sự phúc thẩm: ông Tiến không phải chịu (hoàn trả lại cho ông Tiến 50.000.000 đồng án phí phúc thẩm tạm nộp tại biên lai số 009076 ngày 10-8-2003 của Phòng Thi hành án tỉnh Đồng Tháp) 4. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm có hiệu lực pháp luật. Tại bản án dân sự sơ thẩm số 04/2005/DS-ST ngày 27-5-2005, Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Tháp quyết định: - Chấp nhận một phần yêu cầu của ông Huỳnh Văn Thăng và một phần yêu cầu của bà Huỳnh Thị Lang (ủy quyền cho ông Thăng). - Hủy hợp dồng ủy quyền ngày 08-11-1999 được ký kết giữa ông Huỳnh Văn Thăng, bà Huỳnh Thị Lang với ông Trần Thanh Tiến. - Hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số 471/CN ngày 03-11-1999 mang tên ông Huỳnh Văn Thăng ký kết với ông Trần Thanh Tiến (do bà Lang trực tiếp ký kết với ông Tiến). - Buộc ông Trần Thanh Tiến (ủy quyền cho anh Dũng) phải giao trả cho ông Huỳnh Văn Thăng diện tích đất 4.715m2 tại các thửa 1079 và 1089, tờ bản đồ số 4 theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho ông Trần Thanh Tiến ngày 29-02-2000 đất tại ấp 3, xã Bình Hàng Tây, huyện Cao Lãnh, Đồng Tháp. - Đề nghị Ủy ban nhân dân huyện Cao Lãnh thu hồi quyền sử dụng đất đối với diện tích 4.715m2 đã cấp cho ông Trần Thanh Tiến nói trên để cấp lại cho ông Huỳnh Văn Thăng. - Buộc ông Trần Thanh Tiến phải giao trả cho bà Huỳnh Thị Lang và ông Huỳnh Văn Thăng toàn bộ tài sản của cơ sở sản xuất nước đã, theo biên bản kê biên tài sản ngày 03-3-2003 của Phòng Thi hành án tỉnh Đồng Tháp và Biên bản định giá tài sản ngày 13-3-2003 kể cả bình hạ thế điện tại ấp 3, xã Bình Hàng Tây, huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp (trừ diện tích đất, căn nhà cấp 3, bờ kè, hàng rào, nhà bếp và các xe ô tô). Trong khối tài sản của cơ sở sản xuất nước đá được giao trả gồm có quyền sở hữu của ông Thăng là 1/4 giá trị tài sản và quyền sở hữu của bà Lang là 3/4 giá trị tài sản (bình hạ thế điện của ông Thăng). - Buộc ông Thăng phải trả cho ông Trần Thanh Tiến chi phí làm đường đi với số tiền là 14.700.000 đồng. - Chấp nhận sự tự nguyện của ông Huỳnh Văn Thăng về việc nhận quyền sở hữu các tài sản trên đất ông Thăng gồm căn nhà cấp 3, bờ kè, hàng rào, nhà bếp. -Buộc ông Trần Thăng Tiến phải giao cho ông Huỳnh Văn Thăng các tài sản gồm: căn nhà cấp 3, bờ kè, hàng rào và nhà bếp theo Biên bản kê biên ngày 03-3-2003 và Biên bản định giá ngày 13-3-2003 tại ấp 3, xã Bình Hàng Tây, huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp. - Ông Huỳnh Văn Thăng phải có trách nhiệm trả cho ông Trần Thanh Tiến số tiền trị giá các tài sản là 389.407.000 đồng (ba trăm tám mươi chín triệu bốn trăm lẻ bảy ngàn đồng). Kể từ khi có đơn yêu cầu thi hành án của ông Trần Thanh Tiến thì sẽ được tính lãi đối với số tiền mà ông Huỳnh Văn Thăng chưa thi hành, tính theo lãi suất nợ quá hạn do Ngân hàng Nhà nước quy định tương ứng với thời gian chưa thi hành án. Quản lý số tiền của ông Trần Thanh Tiến do ông Huỳnh Văn Thăng trả (tiền giá trị tài sản và tiền chi phí làm đường đi) để đảm bảo thi hành án đối với bản án số 105/DSPT ngày 09-4-2004 của Tòa án nhân dân tối cao. Ông Tiến được quyền lưu cư trong thời gian 3 tháng kể từ ngày án có hiệu lực pháp luật. Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về án phí. Ngày 07-6-2005 ông Thăng có đơn kháng cáo và ngày 09-6-2005 bà Lang có đơn kháng cáo với nội dung ông Tiến đã bán một số tài sản của nhà máy nước đá nhưng chưa được Tòa án cấp sơ thẩm xem xét; nguyên đơn chi tiền làm nhà, bờ kè, hàng rào, nhà bếp nên không đồng ý trả giá trị tài sản cho bị đơn là 389.407.000 đồng và không đồng ý trả tiền chi phí làm đường. Ngày 09-6-2005 anh Trần Quốc Dũng (đại diện theo ủy quyền của ông Trần Thanh Tiến) cũng có đơn kháng cáo không đồng ý quyết định của bản án sơ thẩm. Tại bản án dân sự phúc thẩm số 366/2005/DS-PT ngày 06-10-2005, Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh quyết định: 1. Hủy hợp đồng ủy quyền ngày 08-11-1999 được ký kết giữa ông Huỳnh Văn Thăng, bà Huỳnh Thị Lang với ông Trần Thanh Tiến. 2. Hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số 417/CN ngày 03-11-1999 mang tên ông Huỳnh Văn Thăng ký kết với ông Trần Thanh Tiến, do bà Lang ký giả chữ ký của ông Huỳnh Văn Thăng trong hợp đồng trên. 3. Buộc ông Trần Thanh Tiến (ủy quyền cho anh Dũng) phải giao trả cho ông Huỳnh Văn Thăng diện tích đất 4.715m2 tại các thửa 1079, 1089, tờ bản đồ số 4 theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho ông Trần Thanh Tiến ngày 29-02-2000, tại ấp 3, xã Bình Hàng Tây, huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp. Đề nghị Ủy ban nhân dân huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng diện tích 4.715m2 đất đã cấp cho ông Tiến để cấp lại cho ông Huỳnh Văn Thăng theo quy định của pháp luật. 4. Buộc ông Trần Thanh Tiến phải giao trả cho bà Huỳnh Thị Lang và ông Huỳnh Văn Thăng toàn bộ cơ sở sản xuất nước đá theo Biên bản kê biên ngày 03-3-2003 của Phòng Thi hành án tỉnh Đồng Tháp và Biên bản định giá tài sản ngày 13-3-2003 được sao trích lục đính kèm bản án này, kể cả bình hạ thế điện tại ấp 3, xã Bình Hàng Tây, huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp. 5. Ông Huỳnh Văn Thăng được nhận và được quyền sở hữu các tài sản trên đất của ông Thăng gồm: căn nhà cấp 3, bờ kè, hàng rào, nhà bếp từ ông Trần Thanh Tiến (ghi trong Biên bản kê biên ngày 03-3-2003 và Biên bản định giá tài sản ngày 13-3-2003 có bản sao lục đính kèm bản án này) nhưng không phải trả cho ông Trần Thanh Tiến giá trị các tài sản trên (389.407.000 đồng) theo tuyên xử của bản án sơ thẩm nữa. 6. Buộc ông Trần Thanh Tiến phải giao cho ông Huỳnh Văn Thăng các tài sản gồm: căn nhà cấp 3, bờ kè, hàng rào và nhà bếp theo Biên bản kê biên ngày 03-3-2003 và Biên bản định giá ngày 13-3-2003 tại ấp 3, xã Bình Hàng Tây, huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp nêu trên. Kiến nghị Ủy ban nhân dân huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp thu hồi giấy chứng nhận sở hữu nhà số 02/CMSHNO-UB ngày 09-01-2002 đã cấp cho ông Tiến theo quy định của pháp luật. Ông Huỳnh Văn Thăng được liên hệ với các cơ quan có thẩm quyền để đăng ký quyền sở hữu nhà và quyền sở hữu các bất động sản khác theo tuyên xử của bản án này và theo quy định của pháp luật. 7. Ông Huỳnh Văn Thăng phải trả cho ông Trần Thanh Tiến chi phí làm đường với số tiền là 14.700.000 đồng. 8. Về án phí: ông Trần Thanh Tiến phải nộp 50.000 đồng án phí dân sự phúc thẩm và 28.165.722 đồng án phí dấn sự sơ thẩm. Ông Huỳnh Văn Thăng và bà Huỳnh Thị Lang không phải nộp án phí dân sự phúc thẩm, nhưng phải nộp 735.000 đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm, được khấu trừ số tiền tạm ứng án phí của bà Lang 7.600.000 đồng và ông Thăng 6.600.000 đồng, theo biên lai số 001589 ngày 25-10-2004 và biên lai số 001589 ngày 09-8-2004 của Phòng Thi hành án tỉnh Đồng Tháp. Số tiền còn lại, sau khi cấn trừ tiền án phí phải nộp, sẽ được trả cho ông Thăng, bà Lang theo quy định của pháp luật. - Các quyết định khác của bản án sơ thẩm số 04/DS-ST ngày 27-5-2005 của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Tháp không có kháng cáo kháng nghị có hiệu lực pháp luật. Sau khi xét xử phúc thẩm, Chi nhánh Ngân hàng Công thương tỉnh Đồng Tháp có đơn khiếu nại cho rằng Doanh nghiệp tư nhân Tiến Thành vay của Ngân hàng 250.000.000 đồng (có thế chấp đất, nhà máy nước đá và tài sản khác), nhưng khi xét xử lại vụ án Tòa án không đưa ngân hàng tham gia tố tụng, là không đúng. Điện lực Đồng Tháp có đơn khiếu nại cho rằng Doanh nghiệp tư nhân Tiến Thành nợ tiền điện của Điện lực Đồng Tháp 62.622.000 đồng, nhưng Tòa án không đưa Điện lực Đồng Tháp tham gia tố tụng khi giải quyết vụ án là không đúng. Tại quyết định số 68/QĐ-KNGĐT-V5 ngày 13-5-2008, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao kháng nghị bản án dân sự phúc thẩm số 366/2005/DSPT ngày 06-10-2005 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh và đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hủy bản án dân sự phúc thẩm số 366/PTDS ngày 06-10-2005 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh và hủy bản án dân sự sơ thẩm số 04/2005/DS-ST ngày 27-5-2005 của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Tháp; giao hồ sơ vụ án về Tòa án địa phương xét xử sơ thẩm lại theo quy định của pháp luật, với nhận định: “… Nguồn gốc tài sản tranh chấp gồm diện tích 4.715m2 và cơ sở sản xuất nước đá trên đất với công suất 400 cây đá tại ấp 3 xã Bình Hàng Tây, huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp là của ông Huỳnh Văn Điệp (cha ông Huỳnh Văn Thăng và bà Huỳnh Thị Lang). Từ tháng 8/1993 đến tháng 7/1994, cơ sở sản xuất nước đá được nâng cấp, lắp đặt thêm 3 dây chuyền sản xuất các hầm nước đá 700 khuôn, 900 khuôn, 1.400 khuôn. Ngày 19-5-1994, ông Thăng được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, diện tích 4.715m2 tại thửa 1079, 1089 tờ bản đồ số 4. Ngày 22-3-1995, ông Thăng được cấp giấy phép thành lập Doanh nghiệp tư nhân, vốn đầu tư là 872.185.000đ. Ngày 05-01-1999, ông Thăng làm hợp đồng ủy quyền cho bà Lang được toàn quyền quản lý doanh nghiệp, ký kết hợp đồng mua bán, thế chấp vay vốn ngân hàng, sang bán doanh nghiệp, thời hạn ủy quyền là 4 năm (có chứng thực của Công chứng Nhà nước tỉnh Đồng Tháp ngày 05-01-1999). Bà Lang thừa nhận ngày 03-11-1999 đã ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất 4.715m2 cho ông Trần Thanh Tiến với giá 10.000.000đ nhưng nội dung là do ông Tiến viết sẵn; ngày 03-11-1999, bà Lang ký hợp đồng ủy quyền cho ông Tiến được toàn quyền làm chủ cơ sở sản xuất nước đá nhưng không được quyền sang bán hay chuyển nhượng cho bất kỳ ai. Ngày 29-02-2000, ông Tiến được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, đến ngày 26-6-2000 được phép thành lập Doanh nghiệp tư nhân Tiến Thành và xây dựng thêm một căn nhà cấp 3 bờ kè, hàng rào, nhà bếp và làm đường đi. Khi quản lý cơ sở sản xuất nước đá, ông Tiến đem toàn bộ cơ sở sản xuất nước đá, nhà, đất trên thế chấp vay 250.000.000đ tại Ngân hàng Công thương tỉnh Đồng Tháp. Khi Tòa án các cấp giải quyết việc ông Thăng, bà Lang kiện đòi tài sản đối với ông Tiến ở giai đoạn sơ thẩm, phúc thẩm lần thứ nhất, Ngân hàng có yêu cầu ông Tiến phải trả tiền đã vay, nếu không trả được thì phải bán tài sản thế chấp để trả nợ Ngân hàng. ở giai đoạn này, Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Tháp xét xử sơ thẩm tại bản án số 02/DSST ngày 01-8-2003 khi quyết định buộc ông Thăng phải thanh toán giá trị tài sản xây dựng trên đất cho ông Tiến là 398.407.000đ, đồng thời tạm giữ số tiền này để đảm bảo các khoản nợ của ông Tiến nên Ngân hàng không kháng cáo. Do các đương sự kháng cáo bản án sơ thẩm, ngày 09-4-2004 Tòa án phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm tại bản án phúc thẩm số 105/DSPT đã hủy một phần bản án sơ thẩm liên quan đến diện tích đất và tài sản trên đất, đưa hồ sơ về Tòa án tỉnh Đồng Tháp xét xử sơ thẩm lại. Xét thấy, về tố tụng ở giai đoạn sơ, phúc thẩm lần thứ hai Tòa án các cấp đã vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng khi không đưa các chủ nợ của ông Tiến và tham gia tố tụng (trong đó có Ngân hàng Công thương tỉnh Đồng Tháp). Về nội dung: khi Tòa án cấp phúc thẩm không chấp nhận việc ông Tiến đòi ông Thăng, bà Lang thanh toán 389.407.000đ giá trị phần tài sản ông Tiến xây dựng thêm khi quản lý cơ sở sản xuất nước đá dẫn đến nghĩa vụ trả nợ có bảo đảm bằng tài sản giữa ông Tiến với Ngân hàng không được bảo đảm thực hiện đã gây thiệt hại cho Ngân hàng và các chủ nợ khác”. Tại phiên tòa giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao chấp nhận Kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; hủy bản án dân sự phúc thẩm số 366/DS-PT ngày 06-10-2005 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh và hủy bản án dân sự sơ thẩm số 04/2005/DS-ST ngày 27-5-2005 của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Tháp; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Tháp xét xử sơ thẩm lại theo quy định của pháp luật. XÉT THẤY: Tòa án cấp sơ thẩm khi xét xử vụ án lần thứ nhất (tại bản án dân sự sơ thẩm số 02/DSST ngày 01-8-2003) đã đưa các chủ nợ của ông Trần Thanh Tiến tham gia tố tụng và quyết định chấp nhận sự tự nguyện của bà Huỳnh Kim Phụng (đại diện theo ủy quyền của ông Thăng, bà Lang) nhận sở hữu nhà cấp 3, bở kè, hàng rào, bếp và trả cho ông Tiến trị giá số tài sản này là 389.549.627 đồng; tiếp tục quản lý số tiền này để đảm bảo thi hàng án cho Chi nhánh Ngân hàng Công thương tỉnh Đồng Tháp, Điện lực Đồng Tháp và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan khác. Sau khi xét xử sơ thẩm, chỉ có ông Trần Thanh Tiến kháng cáo. Tòa án cấp phúc thẩm khi xét xử phúc thẩm lần thứ nhất đã hủy một phần bản án sơ thẩm về việc giải quyết diện tích 4.715m2 đất, dây chuyền nhà máy nước đá và các phần nhà, bờ kè, hàng rào, nhà bếp, nhà tiền chế trên phần đất nêu trên và giao cho Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Tháp xét xử sơ thẩm lại; như vậy, phần giải quyết về căn nhà cấp 3, bờ kè, hàng rào, nhà bếp, nhà tiền chế, tổng trị giá là 389.407.000 đồng (Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm đã tính toán lại trị giá các tài sản này) của bản án sơ thẩm nêu trên đã bị Tòa án cấp phúc thẩm hủy để xét xử sơ thẩm lại. Khi xét xử sơ thẩm lại, Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm không đưa Chi nhánh Ngân hàng Công thương tỉnh Đồng Tháp tham gia tố tụng là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng và không bảo đảm quyền lợi của chủ nợ có bảo đảm; mặt khác, khi xét xử phúc thẩm, Tòa án phúc thẩm không triệu tập những người có quyền lợi liên quan đến việc giải quyết kháng cáo của nguyên đơn, bị đơn đến tham gia phiên Tòa phúc thẩm cũng là vi phạm nghiêm trọng quy định tại khoản 1 Điều 264 Bộ luật tố tụng dân sự. Vì vậy, cần giải quyết lại vụ án để đưa Chi nhánh Ngân hàng Công thương tỉnh Đồng Tháp tham gia tố tụng; trong trường hợp có cơ sở xác định ông Tiến đã bỏ tiền xây cất nhà cấp 3, nhà bếp, bờ kè, hàng rào và nhà tiền chế nêu trên, thì cần giao các tài sản này cho ông Thăng, bà Lang; ông Thăng, bà Lang phải thanh toán trị giá các tài sản này cho ông Tiến để ông Tiến trả tiền cho các chủ nợ, nhưng phải xem xét thứ tự ưu tiên trả nợ cho Nhà nước, thanh toán khoản nợ có bảo đảm theo quy định của pháp luật. Vì các lẽ trên, căn cứ vào khoản 3 Điều 297 và Điều 299 Bộ luật tố tụng dân sự; QUYẾT ĐỊNH: 1. Hủy bản án dân sự phúc thẩm số 366/DS-PT ngày 06-10-2005 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh và hủy bản án dân sự sơ thẩm số 04/2005/DS-ST ngày 27-5-2005 của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Tháp về vụ án “tranh chấp về quyền sở hữu tài sản” giữa nguyên đơn là ông Huỳnh Văn Thăng và bà Huỳnh Thị Lang với vị đơn là ông Trần Thanh Tiến. 2. Giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Tháp xét xử sơ thẩm lại theo quy định của pháp luật. Bài 5: Nhận xét của anh, chị về: - Quan hệ pháp luật về nội dung trong vụ án - Thành phần, tư cách đương sự trong vụ án - Chứng cứ và sử dụng chứng cứ trong vụ án Quyết định giám đốc thẩm Dân sự số 11/2012/DS-GĐT ngày 14/3/2012 của Hội đồng thẩm phán TANDTC Về việc “ Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất” Ngày 14 tháng 3 năm 2012, tại trụ sở Tòa án nhân dân tối cao mở phiên tòa giám đốc thẩm xét xử vụ án dân sự tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa: Nguyên đơn: 1. Ông Vũ Xuân Đạt, sinh năm l943, trú tại thôn Nà Sảo, xã Chu Trinh, huyện Hoà An, tỉnh Cao Bằng; uỷ quyền cho anh Vũ Văn Tiến (con trai ông Đạt) trú tại Chợ Gạo, phường An Tảo, thị xã Hưng Yên, tỉnh Hưng Yên. 2. Bà Vũ Thị Nhiên (vợ ông Đạt) sinh năm 194l; trú tại Chợ Gạo, phường An Tảo, thị xã Hưng Yên, tỉnh Hưng Yên. Bị đơn: Bà Đào Thị Bình sinh năm l953; trú tại số 02, cổng Chợ phố Hiến, phường Lê Lợi, thị xã Hưng Yên, tỉnh Hưng Yên. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Đào Thị Tuyết (em bà Bình) sinh năm 1968, trú tại chợ Gạo, phường An Tảo thị xã Hưng Yên, tỉnh Hưng Yên. NHẬN THẤY: Theo đơn khởi kiện đề ngày 22-8-2005 và quá trình giải quyết tại Toà án, bà Vũ Thị Nhiên trình bày: bà và ông Vũ Xuân Đạt được thừa kế của bố mẹ đẻ bà quyền sử dụng 407m2 đất tại chợ Gạo, phường An Tảo, thị xã Hưng Yên, tỉnh Hưng Yên. Năm 1984, ông Đạt kê khai và đứng tên đối với diện tích đất nêu trên tại bản đồ số 299, thửa 79, tờ bản đồ số 5. Thời gian sau đó, ông Đạt bỏ nhà đi làm ăn ở đâu, bà không rõ nên ngày 21-12-1990 bà đã bán 57,75m2 đất trong tổng diện tích 407m2 cho bà Đào Thị Bình với giá l.250.000đồng, việc mua bán chỉ viết giấy biên nhận và không có xác nhận của chính quyền địa phương. Đến năm 2004, ông Đạt mới biết bà bán đất cho bà Bình nên không đồng ý và buộc bà phải đổi lại đất. Vì vậy bà yêu cầu huỷ hợp đồng chuyển nhượng quyển sử dụng đất giữa bà với bà Bình, bà sẽ bồi thường thiệt hại cho bà Bình theo quy định của pháp luật. Theo đơn khởi kiện để ngày 22-8-2005 và các tài liệu bổ sung, anh Vũ Văn Tiến (do ông Đạt uỷ quyền) trình bày: Khi thấy bà Bình ở trên đất của gia đình, anh có hỏi thì bà Nhiên nói là cho bà Bình mượn. Cuối năm 2003, anh từ Cao Bằng về thăm bà Nhiên, khi đó bà Bình yêu cầu bà Nhiên làm thủ tục chuyển quyền sử dụng đất thì lúc đó anh mới biết việc bà Nhiên bán đất cho bà Bình. Khi biết chuyện ông Đạt không đông ý và yêu cầu bà Nhiên đòi lại đất. ông Đạt đề nghị huỷ hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà Nhiên với bà Bình. Bà Đào Thị Bình trình bày: có việc mua bán đất như bà Vũ Thị Nhiên trình bày. Tuy nhiên khi bán đất, bà Nhiên có bàn với ông Vũ Xuân Đạt không thì bà không biết vì nhiều năm ông Đạt không ở nhà. Sau khi nhận chuyển nhượng đất, bà đã xây dựng nhà và công trình phụ hết thửa đất và sử dụng đến nay. Năm 1997, bà đã đứng tên trong sổ mục kê, tờ bản đồ số 327 và đã đóng thuế đất đầy đủ. Năm 1997, bà có đề nghị bà Nhiên hoàn tất thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất nhưng bà Nhiên không đồng ý. Nay bà không đồng ý với yêu cầu của bà Nhiên, ông Đạt và đề nghị Toà án giải quyết theo quy định của pháp luật. Người có quyền lợi, nghĩa vụ có liên quan, bà Đào Thị Tuyết ( em bà Đào Thị Bình) trình bày: tháng 02-2004, bà trông nom, quản lý nhà đất hộ bà Đào Thị Bình, bà thống nhất với quan điểm của bà Bình là không đồng ý trả nhà đất cho ông Vũ Xuân Đạt, bà Vũ Thị Nhiên. Tại bản án dân sự sơ thẩm số 11/DSST ngày 22-8-2006, Tòa án nhân dân thị xã Hưng Yên, tỉnh Hưng Yên đã quyết định: Bác yêu câu khởi kiện của bà Vũ Thị Nhiên và ông Vũ Xuân Đạt (do anh Vũ Văn Tiến được uỷ quyền) về việc huỷ hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà Vũ Thị Nhiên và bà Đào Thị Bình. Buộc bà Vũ Thị Nhiên và ông Vũ Xuân Đạt phải có trách nhiệm hoàn tất thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho bà Đào Thị Bình. Ngoài ra Toà án cấp sơ thẩm còn quyết định về án phí, quyền kháng cáo của đương sự theo quy định của pháp luật. Ngày 01-9-2006 bà Vũ Thị Nhiên, anh Vũ Văn Tiến có đơn kháng cáo không đồng ý với quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm. Tại bản án dân sự phúc thẩm số 72/DSPT ngày 13-l0-2006,Tòa án nhân dân tỉnh Hưng Yên quyết định (sửa án sơ thẩm): Tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà Vũ Thị Nhiên và bà Đào Thị Bình vô hiệu. Buộc bà Đào Thị Bình phải trả vợ chồng ông Vũ Xuân Đạt, bà Vũ Thị Nhiên mảnh đất có diện tích 59,16m2 (theo biên bản xác minh hiện trạng sử dụng đất BL61 và biên bản định giá tài sản BL66) thửa 327 tại Chợ Gạo, phường An Tảo, thị xã Hưng Yên và toàn bộ công trình do bà Bình đã xây dựng trên đất của vợ chồng ông Đạt, bà Nhiên cho vợ chồng ông Đạt, bà Nhiên sử dụng, sở hữu nhưng bà Nhiên phải thanh toán trả bà Đào Thị Bình số tiền tương ứng với 3/4 lỗi giá trị tài sản (gồm đất) và toàn bộ giá trị công trình xây dựng tổng giá trị là 275.741.000 đồng. Bà Đào Thị Bình phải chịu ¼ lỗi tương ứng với số tiền 88.740.000 đồng. Ngoài ra, Tòa án cấp phúc thẩm còn quyết định về án phí, lãi suất nợ quá hạn đối với khoản tiền chậm thi hành án theo quy định của pháp luật. Tại Quyết định số 25/QĐ-KNGĐT-V5 ngày 27-3-2007, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao kháng nghị bản án phúc thẩm số 72/2006/DSPT ngày 13-l0-2006 của Toà án nhân dân tỉnh Hưng Yên và đề nghị Tòa Dân sự Tòa án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm, hủy bản án dân sự phúc thẩm nêu trên và giữ nguyên quyết định của bản án dân sự sơ thẩm số 11/DSST ngày 22-8-2006 của Toà án nhân dân thị xã Hưng Yên, tỉnh Hưng Yên. Tại quyết định giám đốc thẩm số 143/2007/DS-GĐT ngày 29-5-2007 Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao đã hủy bản án dân sự phúc thẩm số 72/2006/DSPT ngày 13-10-2006 của Tòa án nhân dân tỉnh Hưng Yên; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân Hưng Yên xét xử phúc thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật. Tại bản án dân sự phúc thẩm số 78/2007/DS-PT ngày 30-1l- 2007, Tòa án nhân dân tỉnh Hưng Yên quyết định: “ Chấp vận yêu cầu kháng cáo của bà Vũ Thị Nhiên và ông Vũ Xuân Đạt (do anh Vũ Văn Tiến được ủy quyền). Sửa bản án số 11/2006/DSST ngày 22-8- 2006/DSST của Tòa án nhân dân thị xã Hưng Yên như sau: Tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà Vũ Thị Nhiên và bà Đào Thị Bình vô hiệu. Buộc bà Đào Thị Bình phải trả vợ chồng ông Vũ Xuân Đạt, bà Vũ Thị Nhiên mảnh đất có diện tích 59,16m2 (theo biên bản xác minh hiện trạng sử dụng đất BL 6l và biên bản xác minh định giá tài sản BL 66) thửa 327 tại Chợ Gạo, phường An Tảo, thị xã Hưng Yên và toàn bộ công trình do bà Bình đã xây dựng trên đất của vợ chồng ông Đạt, bà Nhiên cho vợ chồng ông Đạt, bà Nhiên sử dụng, sở hữu nhưng bà Nhiên phải thanh toán trả bà Đào Thị Bình số tiền tương ứng 3/4 mỗi trị giá tài sản (đất và toàn bộ giá trị công trình xây dựng, tổng cộng là 275.741.700 đồng. Bà Đào Thị Bình phải chịu 1/4 lỗi tương ứng số tên là 88.740.000đồng). Ngoài ra Tòa án cấp phúc thẩm còn quyết định về án phí, lãi suất nợ quá hạn đối với khoản tiền chậm thi hành án theo quy định của pháp luật. Sau khi xét xử phúc thẩm, bà Đào Thị Bình có đơn khiếu nại không đồng ý với quyết định của Tòa án cấp phúc thẩm. Tại Quyết định số 63/QĐ-KNGĐT-V5 ngày 29-04-2008, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao quyết định kháng nghị bản án dân sự phúc thẩm số 78/2007/DS-PT ngày 30-ll-2007 của Tòa án nhân dân tỉnh Hưng Yên theo thủ tục giám đốc thẩm; đề nghị Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao hủy bản án dân sự phúc thẩm nêu trên giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân tỉnh Hưng Yên xét xử phúc thẩm lại theo hướng giữ nguyên quyết định của bản án dân sự sơ thẩm số 11/2006/DSST ngày 22-8-2006 của Tòa án nhân dân thị xã Hưng Yên, tỉnh Hưng Yên với nhận định (tóm tắt): Việc chuyển nhượng đất giữa bà Vũ Thị Nhiên với bà Đào Thị Bình là hoàn toàn tự nguyện, có hai người làm chứng. Bà Nhiên thừa nhận vào thời điểm chuyển nhượng đất cho bà Bình, ông Vũ Xuân Đạt bỏ đi nhiều năm, bà không biết địa chỉ của ông Đạt lúc đó kinh tế quá khó khăn nên bà phải bán đất lấy tiền nuôi con. Hơn nữa, diện tích đất bà Nhiên chuyển nhượng cho bà Bình 59,16m2/tổng diện tích 407m2 chưa ảnh hưởng đến phần quyền lợi của bà Nhiên được hưởng. Tại Quyết định giám đốc thẩm số 304/2008/DS-GĐT ngày 30-902008 Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao quyết định; không chấp nhận kháng nghị số 63/QĐ-KNGĐT-V5 ngày 29-04-2008 của Viện trưởng viện kiểm sát nhân dân tối cao; giữ nguyên hiệu lực của bản án dân sự phúc thẩm số 78/2007/DS-PT ngày 30-11-2007 của Tòa ân nhân dân tỉnh Hưng Yên. Sau thi có quyết định giám đốc thẩm nêu trên, cụ Vũ Thị Cúc có nhiều đơn khiếu nại với nội dung cụ Đào Thị Nhạn không phải là mẹ đẻ của bà Đạo Thị Bình và không đồng ý với Quyết định giám đốc thẩm số 304/2008/DS-GĐT ngày 30-9-2008 của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao. Đoàn Đại biểu Quốc Hội tỉnh Hưng Yên có công văn chuyển đơn khiếu nại của cụ Vũ Thị Cúc và yêu cầu được thông báo kết qủa giải quyết. Tại Công văn số 400/CV-THA ngày 25-5-2009, Thi hành án dân sự thành phố Hưng Yên, tỉnh Hưng Yên đề nghị Toà án nhân dân tối cao giải thích những nội dung chưa rõ tại Quyết định giám đốc thẩm số 304/QĐ-GĐT ngày 30-9-2008 của Toà dân sự Toà án nhân dân tối cao. Theo công văn này thì sau khi nhận được Quyết định giám đốc thẩm Thi hành án dân sự thành phố Hưng Yên phối hợp cùng chính quyền địa phương tiến hành xác minh thì thấy bà Đào Thị Bình là người phải thi hành án đã chết, bà Bình không có chồng, con, bố bà Bình là cụ Đào Văn Nhạn đã chết, hàng thừa kế thứ nhất còn lại duy nhất là cụ Vũ Thị Cúc sinh năm 1930 (hộ khẩu thường trú tại 63 Bãi Sậy, Lê Lợi, thị xã Hưng Yên) là mẹ đẻ của bà Bình. Ngày 07-11-2008,Thi hành án dân sự thị xã Hưng Yên ra Quyết định thi hành án đối với cụ Vũ Thị Cúc. Trong quá trình tổ chức thi hành án ngày 12-01-2009 anh Vũ Văn Tiến đã nộp đủ số tiền 275.741.700 đồng tại Thi hành án dân sự thị xã Hưng Yên để trả cho cụ Cúc nhưng cụ Cúc kiên quyết không tự nguyện thi hành án. Tuy nhiên 05-3-2009, Trưởng ban chỉ đạo Thi hành án dân sự thành phố Hưng Yên yêu cầu tạm thay đổi thời gian cưỡng chế thi hành án để xem xét, xác minh chủ thể thi hành án vì gia đình cụ Cúc có nhiều đơn khiếu nại cho rằng cụ Cúc không phải là người thi hành án theo Quyết định giám đốc thẩm (theo quyết định giám đốc thẩm người phải thi hành án là cụ Đào Thị Nhạn). Tại Quyết định kháng nghị số 616/2011/KN-DS ngày 23-9-2011, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao kháng nghị Quyết định giám đốc thẩm số 304/2008/DS-GĐT ngày 30-9-2008 của Toà dân sự Tòa án nhân dân tối cao; đề nghị Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm huỷ quyết định giám đốc thẩm nêu trên, huỷ bản án dân sự phúc thẩm số 78/2007/DS-PTngày 30-11-2007 của Tòa án nhân dân tỉnh Hưng Yên và bản án dân sự sơ thẩm số 11/2006/DSST ngày 22-8-2006 của Tòa án nhân dân thị xã Hưng Yên (nay là thành phố Hưng Yên), tỉnh Hưng Yên; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân thành phố Hưng Yên, tỉnh Hưng Yên xét xử sơ thẩm lại vụ án theo đúng quy định của pháp luật. Tại phiên tòa giám đốc thẩm, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao đề nghị Hội đồng Thẩm phán TANDTC chấp nhận kháng nghị của Chánh án TANDTC. XÉT THẤY: Bà Đào Thị Bình đã chết ngày 09-8-2008, như vậy tại thời điểm xét xử giám đốc thẩm bà Bình đã chết nhưng Quyết định giám đốc thẩm “Giữ nguyên hiệu lực của bản án dân sự phúc thẩm số 78/2007/DS-PT ngày 30-11-2007 của Tòa án nhân dân tỉnh Hưng Yên” trong khi tại bản án dân sự phúc thẩm này quyết định buộc bà Đào Thị Bình phải thực hiện quyền và nghĩa vụ về tài sản khi Tòa án giải quyết hậu quả của hợp đồng chuyển nhượng đất giữa bà Vũ Thị Nhiên và bà Bình vô hiệu và buộc bà Bình phải chịu án phí là không đúng và không thể thi hành án được. Quá trình thi hành bản án, tại Biên bản xác minh hộ khẩu ngày 05-11-2008, biên bản ngày 05-1l-2008 của Thi hành án dân sự thị xã Hưng Yên; biên bản xác minh ngày 09-9-2010 của Tàa án nhân dân tỉnh Hưng Yên; Công văn số 400/CV-THA ngày 25-5-2009 của Thi hành án dân sự thành phố Hưng Yên đã xác định bà Đào Thị Bình đã chết, không có chồng con, bố của bà Bình là cụ Đào Văn Nhạn đã chết, hàng thừa kế thứ nhất của bà Bình chỉ còn cụ Vũ Thị Cúc là mẹ đẻ bà Bình nhưng trong Quyết định giám đốc thẩm của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao lại nhận định cụ Đào Thị Nhạn là mẹ đẻ bà Bình, là người thừa kế quyền và nghĩa vụ thi hành án về tài sản của bà Bình là không chính xác, do đó khi thi hành án cụ Cúc đã không thi hành và cho rằng cụ Cúc không phải là người thi hành án theo quyết định giám đốc thẩm. Trong đơn ngày 04-9-2009 của cụ Vũ Thị Cúc có xác nhận của Ủy ban nhân dân phường An Tảo, thành phố Hưng Yên, tỉnh Hưng Yên thì bà Vũ Thị Nhiên chết ngày 29-8-2009. Như vậy đến thời điểm này cả bà Bình và bà Nhiên là đương sự trong các bản án trước đây đều đã chết. Do đó, khi xét xử lại vụ án cần xác định lại đương sự trong vụ án theo qui định của pháp luật. Khi xảy ra tranh chấp về mặt pháp lý ông Vũ Xuân Đạt và bà Vũ Thị Nhiên vẫn tồn tại quan hệ hôn nhân, nhưng trên thực tế thì khoảng năm l980 ông Đạt đã bỏ nhà đi lên tỉnh Cao Bằng và chung sống với người phụ nữ khác, từ năm l982 ông Đạt và bà Nhiên đã sống ly thân, những điều này chính ông Đạt cũng đã thừa nhận trong khi bà Nhiên phải nuôi 07 người con chung của hai người, vì kinh tế khó khăn nên bà đã phải bán 59,16m2 đất trong tổng số 407m2 đất thổ cư thuộc sở hữu chung của vợ chồng ông Đạt, bà Nhiên cho bà Đào Thị Bình từ năm 1990 để giải quyết khó khăn chung của gia đình và chưa vượt quá phần bà Nhiên được hưởng là phù hợp với qui định tại Điều 15 Luật hôn nhà và gia đình năm l987. Sau khi nhận chuyển nhượng đất bà Bình đã xây dựng nhà và các công trình lên đất sử dụng ổn định không xảy ra tranh chấp cho đến năm 2004 ông Đạt mới khiếu nại, lẽ ra trong trường hợp này phải căn cứ vào hướng dẫn tại điểm b.3 tiểu mục b, mục 2.2 phần II Nghị quyết số 02/2004/HĐTP ngày 10-08-2004 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao để công nhận hợp đồng chuyển nhượng đất giữa bà Nhiên và bà Bình nhưng Tòa án cấp phúc thẩm xác định hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 21-12-1990 giữa bà Nhiên và bà Bình bị vô hiệu hủy hợp đồng này và Hội đồng giám đốc thẩm Tòa dân sự Toà án nhân dân tối cao giữ nguyên quyết định của Tòa án cấp phúc thẩm là không đúng. Bởi các lẽ trên, căn cứ vào khoản 3 Điều 29l, khoản 3 Điều 297, Điều 299 Bộ luật Tố tụng dân sự; QUYẾT ĐỊNH: Huỷ quyết định giám đốc thẩm số 304/2008/DS-GĐT ngày 30-9-2008 của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tôi cao, huỷ bản án dân sự phúc thẩm số 78/2007/DS-PT ngày 30-11-2007 của Tòa án nhân dân tỉnh Hưng Yên và bản án dân sự sơ thẩm số 11/2006/DSST ngày 22-8-2006 của Toà án nhân dân thị xã Hưng Yên (nay là thành phố Hưng Yên), tỉnh Hưng Yên; giao hồ sơ vụ án cho Toà án nhân dân thành phố Hưng Yên, tỉnh Hưng Yên xét xử sơ thẩm lại vụ án theo đúng quy định của pháp luật. Bài 7: Nhận xét của anh, chị về: - Quan hệ pháp luật về nội dung trong vụ án - Thành phần, tư cách đương sự trong vụ án - Chứng cứ và sử dụng chứng cứ trong vụ án Ngày 13 tháng 3 năm 2012, tại trụ sở Tòa án nhân dân tối cao mở phiên Tòa giám đốc thẩm xét xử vụ án dân sự “Tranh cấp chia tài sản chung và chia thừa kế tài sản”giữa các đương sự: Nguyên đơn: 1. Ông Nguyễn Văn Hai sinh năm 1952; 2. Ông Nguyễn Văn Ba sinh năm 1954; (ông Hai, ông Ba cùng trú tại nhà số 1/3 ấp 4, phường Bình Hưng Hoà, quận Bình Tân, thành phố Hồ Chí Minh). 3. Bà Nguyễn Thị Tư sinh năm 1957; trú tại nhà số 5 Long Bình, phường Bình Hưng Hoà, quận Bình Tân, thành phố Hồ Chí Minh. 4. Bà Nguyễn Thị Thu Phương sinh năm 1965; trú tại nhà số 45/22 Thạch Lam, phường Phú Thạnh, quận Tân Phú, thành phố Hồ Chí Minh. Đại diện theo ủy quyền của các nguyên đơn tại Tòa án cấp sơ thẩm là ông Trần Hữu Lộc sinh năm 1961; trú tại nhà số 227 Điện Biên Phủ, phường 6, quận 3, thành phố Hồ Chí Minh và tại Tòa án cấp phúc thẩm là ông Đặng Văn Cường; trú tại thôn Nhân Vũ, xã Nguyễn Trãi, huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên. Bị đơn: Ông Trà Anh Kiệt sinh năm 1959; trú tại nhà số 9/1 Đặng Văn Ngữ, phường 10, quận Phú Nhuận, thành phố Hồ Chí Minh. Đại diện theo uỷ quyền là bà Lâm Thị Gái; trú tại nhà số 150/18 Huỳnh Văn Bánh, phường 12, quận Phú Nhuận, thành phố Hồ Chí Minh. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: 1. Bà Lê Quang Ty (vợ của ông Kiệt) sinh năm 1961; trú tại cùng địa chỉ với ông Kiệt. Đại diện theo uỷ quyền là bà Lâm Thị Gái; trú tại nhà số 150/18 Huỳnh Văn Bánh, phường 12, quận Phú Nhuận, thành phố Hồ Chí Minh. 2. Ông Trà Anh Tuấn (anh ruột của ông Kiệt) sinh năm 1953; hiện định cư tại Mỹ Đại diện theo uỷ quyền là ông Dương Đức Thiện sinh năm 1964, trú tại nhà số 18/B410 chung cư Huỳnh Văn Chính, phường Phú Trung, quận Tân Phú, thành phố Hồ Chí Minh. 3. Bà Trà Thị Tuyết (em ruột của ông Kiệt) sinh năm 1969; hiện định cư tại Mỹ. Đại diện theo uỷ quyền là bà Đặng Thi Cẩm Vân sinh năm 1955; trú tại nhà số 29 Trương Công Định, phường 14, quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh. 4. Cụ Trà Thị Út sinh năm 1937; hiện định cư tại Canada. 5 . Ông Võ Chánh Trung sinh năm 1940; hiện định cư tại Mỹ. 6. Bà Võ Hoa Liêng sinh năm 1945; hiện định cư tại Mỹ. 7. Bà Võ Kim Oanh sinh năm 1948; hiện định cư tại Mỹ. 8 . Bà Võ Ngọc Thanh sinh năm 1951 ; hiện định cư tại Mỹ. 9. Chị Võ Thanh Tuyền sinh năm 1974; hiện định cư tại Mỹ. Cụ Út, ông Trung, bà Liêng, bà Oanh, bà Thanh và chị Tuyền cùng uỷ quyền cho ông Trần Hữu Lộc sinh năm 1961; trú tại nhà số 227 Điện Biên Phủ, phường 6, quận 3, thành phố Hồ Chí Minh. 10. Bà Võ Thị Rê sinh năm 1943; hiện định cư tại Mỹ. Đại diện theo ủy quyền tại Tòa án cấp sơ thẩm là ông Trần Hữu Lộc sinh năm 1961; trú tại nhà số 227 Điện Biên Phủ, phường 6, quận 3, thành phố Hồ Chí Minh. Đại diện theo ủy quyền tại Tòa án cấp phúc thẩm là ông Đặng Hoàng Tuấn; trú tại nhà số 72/13 Nguyễn Thị Nhỏ, phường 9, quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh. 11. Bà Phạm Thi Hạnh sinh năm 1957; 12. Chị Võ Thị Mai Thi sinh năm 1978; (Bà Hạnh, chị Thi cùng trú tại nhà số 988/3D ấp 3, phường An Phú Đông, quận 12, thành phố Hồ Chí Minh). 13 . Anh Võ Thanh Tùng sinh năm 1969 ; 14. Chị Võ Thanh Thuỷ sinh năm 1971; 15. Chị Võ Thị Thanh Loan sinh năm 1976; (Anh Tùng, chị Thủy, chị Loan cùng trú tại nhà số 13/8 Đặng Văn Ngữ, phường 10, quận Phú Nhuận, thành phố Hồ Chí Minh) 16. Bà Nguyễn Trung Thu sinh năm 1962; 17. Anh Nguyễn Hữu Hưng sinh năm 1986; (Bà Thu, anh Hưng cùng trú tại nhà số 7 Long Bình, tố 340, phường Bình Hưng Hoà, quận Bình Tân, thành phố Hồ Chí Minh). 18. Công ty TNHH một thành viên Cam Ly. Đại diện theo uỷ quyền là anh Trương Ngọc Hoà Sinh năm 1985; trú tại nhà số 10/14 Nguyễn Công Trứ, phường 4, thành phố Tuy Hoà, tỉnh Phú Yên. 19. Anh Phạm Trường Giang sinh năm 1972; tạm trú tại nhà số 9/1 Đặng Văn Ngữ, phường 10, quận Phú Nhuận, thành phố Hồ Chí Minh. NHẬN THẤY: Tại “Đơn khởi kiện" ngày 22/01/2008 và quá trình tham gia tố tụng, nguyên đơn là các ông bà Nguyễn Văn Hai, Nguyễn Văn Ba, Nguyễn Thị Tư, Nguyễn Thị Thu Phương và người đại diện theo ủy quyền thống nhất trình bày: Vợ chồng cố Lê Thị Láng (chết năm 1977), cụ Trà Văn Tiếu (chết năm 1982) có 5 người con là: Cụ Trà Thị Buộn (chết năm 1994); cụ Trà Thị Rớt (chết năm 2006); cụ Trà Thị Sanh (chết năm 2007); cụ Trà Văn Tám (chết năm 2004) và cụ Trà Thị Út. Sinh thời, cố Tiếu, cố Láng là chủ sở hữu căn nhà số 11/5 dường Huỳnh Quang Tiên (nay là số 9/1 Đặng Văn ngữ), phường 10, quận Phú Nhuận, thành phố Hồ Chí Minh. Khi qua đời, cố Láng, cổ Tiếu đều không để lại di chúc. Sau khi hai cố chết cụ Tám là người trực tiếp quản lý, sử dụng căn nhà. Ngày 13/4/2004, cụ Tám được Ủy ban nhân dân quận Phú Nhuận cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở, quyền sử dụng đất ở với tư cách là đại diện các thừa kế của cố Tiếu, cố Láng. Sau khi cụ Tám qua đời, ông Kiệt là người quản lý, sử dụng căn nhà. Như vậy căn nhà nêu trên là tài sản chung của cụ Buộn, cụ Rớt, cụ Sanh, cụ Tám và cụ Út. Nay các con của cụ Sanh là ông Nguyễn Văn Hai, ông Nguyễn Văn Ba, bà Nguyễn Thị Tư và bà Nguyễn Thị Thu Phương yêu cầu Tòa án chia tài sản chung là căn nhà nêu trên cho các thừa kế của cố Tiếu, cố Láng. Cụ Trà Thị Út yêu cầu được hưởng 1/5 giá trị căn nhà là phần di sản mà cổ Tiếu, cố Láng để lại cho cụ sau khi qua đời. Ngoài ra, do cụ Rớt không có chồng con và đã chết trước cụ Sanh nên yêu cầu Tòa án chia phần tài sản của cụ được hưởng cho cụ và các đồng thừa kế của cụ Sanh mỗi bên 1/2. Tổng phần tài sản cụ yêu cầu được hưởng là 3/10 giá trị căn nhà. Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đứng về phía nguyên đơn gồm các ông bà Võ Chánh Trung, Võ Thị Rê, Võ Hoa Liêng, Võ Kim Oanh, Võ Ngọc Thanh (các con của cụ Buộn); các anh chị Võ Thanh Tùng, Võ Thanh Thủy, Võ Thanh Tuyền và Võ Thị Thanh Loan (thừa kế của ông Võ Văn Tốt, con của cụ Buộn); bà Phạm Thị Thanh và chị Võ Thị Mai Thi (thừa kế của ông Võ Tấn Xuân, con của cụ Buộn nhất trí với lời trình bày và yêu cầu của các nguyên đơn và xin nhận thừa kế đối với phần tài sản được thừa hưởng của cụ Buộn. Bị đơn là ông Trà Anh Kiệt thừa nhận nguồn gốc căn nhà số 9/1 Đặng Văn Ngữ, phường 10, quận Phú Nhuận, thành phố Hồ Chí Minh, quan hệ huyết thống gia tộc như các nguyên đơn đã trình bày; đồng thời ông Kiệt và người đại diện theo ủy quyền trình bày bổ sung: Ngày 16/02/1993, cụ Buộn, cụ Sanh và cụ Rớt đã làm “Giấy khước từ di sản" có nội dung để lại toàn bộ quyền sở hữu căn nhà cho cụ Tám. Từ khi làm văn bản nhường cho cụ Tám quyền hưởng di sản cho đến khi qua đời, cụ Buộn, cụ Sanh và cụ Rớt đều không có ý kiến gì thay đổi. Năm 1997, cụ Út về nước và có lập giấy ủy quyền cho cụ Tám được toàn quyền định đoạt phần tài sản của cụ Út trong căn nhà nêu trên trong thời hạn 10 năm. Ngày 13/7/2004, cụ Tám được Ủy ban nhân dân quận Phú Nhuận cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở (500,5 m2) và quyền sử dụng đất ở (716,5 m2). Cụ Tám đã qua đời ngày 05/10/2004. Ông Kiệt không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của các nguyên đơn. Đối với phần của cụ Út, mặc dù năm 1997, cụ Út đã ủy quyền cho cụ Tám được toàn quyền quản lý, sử dụng, định đoạt phần nhà đất mà cụ Út được thừa kế; nhưng nay cụ út đòi lại thì ông Kiệt đồng ý trả giá trị theo kết quả định giá của Tòa án. Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đứng về phía bị đơn là ông Trà Anh Tuấn (con của cụ Tám), bà Lê Quang Ty (vợ của ông Kiệt) nhất trí với lời trình bày và quan điểm của ông Kiệt, không đồng ý yêu cầu khởi kiện của các nguyên đơn. Bà Trà Thị Tuyết trình bày: Bà là con của cụ Tám. Bà đồng ý chia tài sản chung là căn nhà của ông bà nội để lại. Phần tài sản cha bà được hưởng trong khối tài sản chung nêu trên, để lại cho ông Kiệt, ông Tuấn thì bà và ông Kiệt, ông Tuấn sẽ tự thương lượng, giải quyết. Anh Phạm Trường Giang xác nhận anh có thuê của ông Kiệt một phần nhà số 9/1 Đặng Văn Ngữ. Anh không có ý kiến gì đối với việc họ tộc ông Kiệt có tranh chấp căn nhà nêu trên và cam kết chấp hành quyết định của Tòa án. Anh Thương Ngọc Hòa đại điện cho Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên Cam Ly cũng xác nhận Công ty Cam Ly có thuê của ông Kiệt một phần nhà số 9/1 Đặng Văn Ngữ. Công ty Cam Ly không có ý liến gì đối với việc họ tộc ông Kiệt có tranh chấp căn nhà nêu trên, đồng thời cam kết chấp hàm quyết định của Tòa án. Tại bản án dân sự sơ thẩm số 3288/2009/DSST ngày 03/11/2009 , Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh căn cứ vào điểm c khoản 2 Điều 147 và Điều 305 Bộ luật dân sự năm 2005; điểm a khoản 2.4 Điều 2 Mục I Nghị quyết số 02/2004/NQ/HĐTP ngày 10/8/2004 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, quyết định: Không chấp nhận yêu cầu của ông Nguyễn Văn Hai, bà Nguyễn Thị Ba (chính xác phải là ông Nguyễn Văn Ba), bà Nguyễn Thị Tư và bà Nguyễn Thị Thu Phương về việc yêu cầu chia tài sản chung đối với căn nhà số 9/1 Đặng Văn Ngữ (số cũ 11/5 đường Huỳnh Quang Tiên), phường 10, quận Phú Nhuận, thành phố Hồ Chí Minh. Chấp nhận yêu cầu của cụ Trà Thị Út về việc yêu cầu chia tài sản chung là 1/5 giá trị căn nhà số 9/1 Đặng Văn Ngữ, phường 10, quận Phú Nhuận, thành phố Hồ Chí Minh. ghi nhận việc ông Trà Anh Kiệt, bà Lê Quang Ty đồng ý hoàn lại cho cụ Trần Thị Út giá trị căn nhà số 9/1 Đặng Văn Ngữ, phường 10, quận Phú Nhuận bằng 6.161.900.000đ là tài sản chung và cụ Út được hưởng trong căn nhà nói trên. Việc giao trả trong thời hạn 1 tháng. Các thừa kế của cụ Trà Văn Tám được quyền sở hữu căn nhà số 9/1 Đặng Văn Ngữ, phường 10, quận Phú Nhuận, thành phố Hồ Chí Minh ngay sau khi giao trả cho cô Trà Thị Út 6.161.900. 000đ là 1/5 giá trị của căn nhà nêu trên. Ghi nhận việc các thừa kế của cụ Trà Văn Tám là ông Trà Anh Tuấn, ông Trà Anh Kiệt, bà Trà Thị Tuyết tự giải quyết việc phân chia di sản của ông Trà Văn Tám là căn nhà số 9/1 Đặng Văn Ngữ (số cũ 11/5 Huỳnh Quang Tiên) phường 10, quận Phú Nhuận, thành phố Hồ Chí Minh. Sau khi xét xử sơ thẩm, trong thời hạn luật định: Các nguyên đơn và những người có quyền và nghĩa vụ liên quan đứng về phía các nguyên đơn có đơn kháng cáo cho rằng việc cụ Buộn, cụ Sanh, cụ Rớt khước từ quyền hưởng di sản vào năm 1993 là không có hiệu lực vì nằm ngoài thời hạn pháp luật cho phép; Tòa án cấp sơ thẩm định giá tài sản tranh chấp quá thấp, không phù hợp với giá thị trường. Tại bản án dân sự phúc thẩm số 73/2010/DSPT ngày 09/4/2010, Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chi Minh quyết định sửa bản án sơ thẩm: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn vê việc chia tài sản chung của cha mẹ và chia di sản thừa kế của chị ruột để lại tài sản của cố Trà Văn Tiêú, cố Lê Thị Láng, di sản thừa kế của cụ Trà Thị Rớt) Xác định nhà, đất số 9/1 Đặng Văn Ngữ, phường 10, quận Phú Nhuận thành phố Hồ Chí Minh là tải sản chung của cố Tiếu và cô Láng chết để lại, đựơc chia đều các con. Xác định phần tài sản của cụ Rớt đựơc hưởng của cha mẹ là di sản thừa tế của 02 người em ruột là cụ Trà Thị Sanh và cụ Trà Thị Út. Cụ Trà Văn Tám đựơc hưởng 2/10 giá trị đất của căn nhà trên và 718.217. 500đ. Cụ Tám chế năm 2004. Hai con của cụ Tám là ông Trà Anh Kiệt, ông Trà Anh Tuấn được hưởng (ông Kiệt đại diện nhận, sau này từ chia lại ). Cụ Trà Thị Sanh hưởng 3/10 giá trị đất của căn nhà (Trong đó 2/10 tài sản của cha mẹ và 1/10 là di sản của cụ Rớt). Cụ Sanh chết năm 2007. Các con là ông Nguyễn Văn Hai, ông Nguyễn Văn Ba, bà Nguyễn Thị Tư, bà Nguyễn Thị Thị Thu Phương và ông Nguyễn Hữu Hùng được hưởng (ông Hai đại diện nhận, sau đó chia lại với nhau). Cụ Trà Thị Út được hưởng 3/10 giá trị đất của căn nhà kể trên (2/10 là tài sản của cha mẹ và 1/10 là di sản của cụ Rớt). Do ông Trần Hữu Lộc đại diện nhận. Cụ Trà Thị Buộn hưởng 2/10 giá trị đất của căn nhà trên. Cụ Buộn chết năm 1994. Các con được hưởng là: + Ông Võ Chánh Trung (đại diện và ông Trần Hữu Lộc). + Bà Võ Thị Rê (đại diện là ông Đặng Hoàng Tuấn). + Bà Võ Hoa Liêng (đại diện là ông Trần Hữu Lộc). + Bà Võ Kim Oanh (đại diện là ông Trần Hữu Lộc). + Bà Võ Ngọc Thanh (đại diện là ông Trần Hữu Lộc). + Ông Võ Văn Tốt (chết) các con là anh Võ Thanh Tùng, chị Võ Thanh Thủy, chị Võ Thị Thanh Loan và chị Võ Thanh Tuyền đại diện là ông Trần Hữu Lộc. Các con của ông Tốt từ chia lại với nhau. + Ông Võ Tấn Xuân (vợ là bà Phạm Thị Hạnh, con là chị Võ Thị Mai Thi). Các con, cháu cụ Buộn sau khi nhận kỷ phần, tự chia lại cho nhau. Khi có đơn yêu cầu, cơ quan thi hành án phát mãi nhà, đất kể trên. Giá trị thực tế được trừ 718.217.500đ tiền xây dựng của cụ Tám, trừ các chi phí phục vụ việc phát mãi, số còn lại chia theo kỷ phần nêu trên. Các phần khác của quyết định án sơ thẩm tiếp tục có hiệu lực pháp luật. Sau khi bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật, tại “Đơn đề nghị" ngày 26/7/2010, ông Trà Anh Kiệt cho rằng. Khi còn sống, cụ Buộn, cụ Sanh và cụ Rớt đã khước từ quyền hưởng di sản thừa tế của cha mẹ, đồng thời để lại toàn bộ quyền sở hữu căn nhà cho cụ Tám. Tòa án cấp phúc thẩm xác định căn nhà và quyền sử dụng đất có tranh chấp là di sản thừa kế chưa chia, từ đó chấp nhận yêu cầu của các nguyên đơn, chia giá trị nhà đất cho 5 thừa kế của cố Tiếu, cố Láng là không đúng. Tại Quyết định kháng nghị số 161/QĐ/KNGĐT-V5 ngày 27/l0/2010, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao quyết định: Kháng nghị đối với bản án dân sự phúc thẩm số 73/2010/PTDS ngày 09/4/2010 của Toà phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh theo thủ tục giám đốc thẩm. Đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm theo hướng: Huỷ bản án dân sự phúc thẩm 73/2010/PTDS ngày 09/4/2010 của Toà phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân cấp phúc thẩm xét xử lại theo đúng quy định của pháp luật. XÉT THẤY: Tại Quyết định số 880/QĐUB ngày 22/11/1981, Ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh đã cho phép vợ chồng cố Trà Văn Tiếu (Trà Văn Tiến), cố Lê Thị Láng được giữ lại sở hữu căn nhà số 11/5 Huỳnh Quang Tiên (nay là số 9/1 Đặng Văn Ngữ), phường 10, quận Phú Nhuận) thành phố Hồ Chí Minh. Như vậy căn nhà này các đương sự tranh chấp có nguồn gốc là tài sản của vợ chồng cố Tiếu, cố Láng. Cố Láng chết năm 1977; cố Tiếu chết năm 1982 đều không để lại di chúc. Ngày 16/02/1993, cụ Buộn, cụ Sanh và cụ Rớt lập văn bản khước từ quyền hưởng thừa kế đồng thời thống nhất nhượng quyền hưởng di sản cho cụ Tám. Văn bản này được các chính quyền địa phương nơi cụ Buộn, cụ Sanh, cụ Rớt cư trú xác nhận đúng là chữ ký, dấu tay điểm chỉ của các cụ. Việc cụ Buộn, cụ Sanh và cụ Rớt khước từ quyền nhận di sản thừa kế tuy không nằm trong thời hạn quy định của pháp luật (6 tháng kể từ khi biết thời điểm mở thừa kế), nhưng song song với việc khước từ thì cụ Buộn, cụ Sanh, cụ Rớt lại nhường quyền hưởng di sản cho cụ Tám; điều này phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 31 Pháp lệnh thừa kế năm 1990 và hướng dẫn tại mục 8 Nghị quyết số 02/HĐTP ngày 19/10/1990 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. Sau khi cụ Buộn, cụ Sanh và cụ Rớt có văn bản nhượng quyền hưởng đi sản cho cụ Tám tại “Tờ khai chuyển dịch tài sản nộp thuế trước bạ” ngày 15/4/1993 (Phòng thu lệ phí trước bạ thuộc Cục thuế thành phố Hồ Chí Minh kiểm tra và tính thuế ngày 27/4/993), ở mục “Những người thừa kế di sản", cụ Tám đã kê khai rõ cụ Buộn, cụ Sanh và cụ Rớt “khước tìm di sản có chứng từ”, phần kê khai này đã được cơ quan kiểm tra và tính thuế đóng dấu xác nhận. Đến ngày 21/02/1997, cụ Út làm "Giấy ủy quyền” cho cụ Tám được thay mặt cụ Út quản lý sử dụng và định đoạt phần thừa kế của cụ Út đối với căn nhà trên trong thời hạn 10 năm. Nội dung ủy quyền của cụ Út cho cụ Tám không đồng nghĩa là cụ Út đã chuyển quyền sở hữu phần tài sản cụ được thừa kế trong căn nhà của cha mẹ sang cho cụ Tám. Tại “Tờ đăng ký nhà đất” ngày 09/8/1999 , cụ Tám đã kê khai nguồn gốc nhà, đất là: nhà của cha mẹ được thừa kế”, đồng thời liệt kê danh mục các tài liệu nộp kèm, trong đo có “Giấy khước từ di sản" ngày l6/02/1993 của cụ Buộn, cụ Sanh, cụ Rớt. Tuy nhiên, quá trình giải quyết vụ án, Tòa án các cấp chưa thu thập hồ sơ đăng ký kê khai và cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở cho cụ Tám đúng tên để xác minh làm rõ Ủy ban nhân dân quận Phú Nhuận có xem xét giá trị của giấy khước từ di sản nêu trên hay không? là chưa thu thập đầy đủ các chứng cứ để giải quyết vụ án. Tòa án cấp phúc thẩm căn cứ vào việc cụ Tám xác nhận cụ là đồng thùa kế trong bản “Di chúc" ngày 13/02/1996 “Đơn tường trình" về nguồn gốc nhà đất ngày 14/4/2004 và Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở ngày 13/7/2004 của Ủy ban nhân quận Phú Nhuận cấp cho cụ Tám là đại diện thừa kế của cố Tiếu, cố Láng để xác định nhà đất là di sản thừa kế chưa chia của cụ Buộn, cụ Sanh, cụ Rớt, cụ Tám và cụ Út là chưa đủ căn cứ. Cụ Buộn chết năm 1994. Cụ Rớt chết năm 2006. Cụ Sanh chết năm 2007. Trước khi chết cụ Buộn, cụ Sanh, cụ Rớt đều không có ý liến bằng văn bản thay đổi việc đã nhường quyền hưởng di sản cho cụ Tám. Tuy nhiên, trong hồ sơ vụ án còn có các tài liệu là "Tờ khai nộp tiền sử dụng đất" ngày 14/10/2004, có nội dung cụ Rớt “Đại diện cho các thừa kế”' nộp tiền sử dụng đất và “Tờ khai lệ phí trước bạ” ngày 22/10/2004, có nội dung cụ Rớt “Đại diện cho các thừa kế" nộp lệ phí trước bạ. Thời điểm này cụ Tám đã được cấp Giấy chứng nhân quyền sở hữu nhà ở, quyền sử dụng đất ở. Tại phiên tòa sơ thẩm, ông Kiệt cho rằng đây là thủ tục để ông Kiệt xin phép sửa chữa nhà. Hơn nữa, các đương sự đều thừa nhận cụ Rớt bị mù lòa, không biết chữ. Nhưng quá trình giải quyết vụ án, Tòa án cấp sơ thẩm, phúc thẩm đều chưa xác minh làm rõ xem việc kê khai có đúng với ý chí của cụ Rớt không và ai đã giúp cụ Rớt kê khai văn bản trên? cơ quan nào đã yếu cầu cụ Rớt kê khai mục đích của việc kê khai (vì thực tế Chi cục thuế quận Phú Nhuận sau khi kiểm tra đã xác định không thu lệ phí trước bạ và không thu tiền sử dụng đất)?cũng là chưa thu thập đầy đủ chứng cứ để giải quyết vụ án. Tại phiên tòa phúc thẩm, các đương sự đều thống nhất kết quả định giá của Tòa án cấp sơ thẩm. Tòa án cấp phúc thẩm không căn cứ vào kết quả định giá để xác định giá trị tài sản cụ Út được hưởng, mà lại chia theo phần và cho cụ Út được hưởng theo kết quả định giá khi phát mại tài sản thi hành án là không đúng. Ngoài ra, trong vụ án này có một số đương sự là người Việt Nam định cư ở nước ngoài, gồm: cụ Út, bà Rê, bà Tuyết, ông Tuấn, ông Trung, bà Liêng, bà Oanh, bà Thành và chị Tuyền. Vì vậy, khi giải quyết lại vụ án, Tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm phải xác minh làm rõ thời điểm các đương sự xuất cảnh ra nước ngoài để làm cơ sở cho việc áp dụng pháp luật đối với giao dịch dân sự về nhà ở xác lập trước ngày 01/7/1991. Do đó, kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao là có căn cứ. Tuy nhiên, cần phải hủy bản án phúc thẩm và hủy bản án sơ thẩm, giao hồ sơ cho Tòa án cấp sơ thẩm xét xử lại theo đúng quy định của pháp luật. Bởi các lẽ trên, căn cứ vào khoản 3 Điều 297 và Điều 299 Bộ luật tố tụng dân sự (đã được sửa đổi, bổ sung theo Luật số 65/2011/QH12 ngày 29/3/2011 của Quốc hội). QUYẾT ĐỊNH: 1. Hủy bản án dân sự phúc thẩm số 73/2010/DSPT ngày 09/4/2010 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh và hủy bản án dân sự sơ thẩm số 3288/2009/DSST ngày 03/11/2009 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh về vụ án “ Tranh chấp chia tài sản chung và chia thừa kế tài sản” giữa nguyên đơn là ông Nguyễn Văn Hai, ông Nguyễn Văn Ba, bà Nguyễn Thị Tư, bà Nguyễn Thị Thu Phương với bị đơn là ông Trà Anh Kiệt; những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan gồm: cụ Trà Thị Út, bà Lê Quang Ty, ông Trà Anh Tuấn, bà Trà Thị Tuyết, ông Võ Chánh Trung, bà Võ Hoa Liêng, bà Võ Kim Oanh, bà Võ Ngọc Thanh, chị Võ Thanh Tuyền, chị Võ Thị Rê, bà Phạm Thị Hạnh, chị Võ Thị Mai Thi, chị Võ Thị Thanh Thủy, chị Võ Thị Thanh Loan, anh Võ Thanh Tùng, bà Nguyễn Trung Thu, anhNguyễn Hữu Hưng, Công ty trách nhiệm hũm hạn một thành viên Cam Ly (do anh Trương Ngọc Hòa đại diện theo ủy quyền) và anh Phạm Trường Giang. 2. Giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật. Bài 7: Nhận xét của anh, chị về: - Quan hệ pháp luật về nội dung trong vụ án - Thành phần, tư cách đương sự trong vụ án - Chứng cứ và sử dụng chứng cứ trong vụ án Ngày 13 tháng 3 năm 2012, tại trụ sở Toà án nhân dân tối cao đã mở phiên toà giám đốc thẩm xét xử vụ án dân sự đòi bồi thường giá trị đất” giữa các đương sự: Nguyên đơn: Bà Trang Phù Dung sinh năm 1923 ủy quyền cho anh Trang Thanh Sơn sinh nam l960; trú tại số 18, đường Nguyễn Hữu Cảnh, khóm 5, phường Châu Phú A, thị xã Châu Đốc, tỉnh An Giang. Bị đơn: Nhà nghỉ khách sạn Bưu điện Núi Sam; trụ sở khóm Vĩnh Đông 1, phường Núi Sam, thị xã Châu Đốc, tỉnh An Giang do ông Phạm Thành Phương sinh năm l955 Giám đốc đại điện. Người có quyền lợi, nghĩa vụ có liên quan. 1.Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang do ông Nguyễn Minh Lý sinh năm 1955 là dại diện theo ủy quyền. 2. Bưu điện tỉnh An Giang do ông Trịnh Thanh Trà sinh năm 1957 là đại diện theo ủy quyền. 3. Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh An Giang do ông Nguyễn Thanh Vũ sinh năm 1960 là đại diện theo ủy quyền. NHẬN THẤY: Tại đơn khởi kiện ngày 15-10-2004 và quá trình tố tụng anh Trang Thanh Sơn (được bà Trang Phù Dung ủy quyền) trình bày: cụ Trang Ngẫu và cụ Đinh Thị Huê (là cha mẹ của bà Dung và là ông, bà nội của anh) là chủ sở hữu 3.160m2 đất tại làng Vĩnh Tế (nay là phường Núi Sam; thị xã Châu Đốc) theo bằng khoán điền thổ số 542 do chế độ cũ cấp năm 1940 cho cụ Huê. Trên đất có 2 căn nhà cấp 4 diện tích khoảng 130m2. Trước giải phóng miền Nam, cụ Huê cho hội chợ gia súc thuê. Năm 1973, Tỉnh trưởng Châu Đốc giao trả lại đất cho cụ Huê và bà Dung là người trực tiếp quản lý, sử dụng nhà đất nêu trên. Sau giải phóng miền Nam, bà Dung cho Phòng Lương thực thị xã Châu Đốc mượn làm trạm, kho thu mua lương thực. Người mượn nhà, đất của bà Dung là Trưởng phòng Lương thực thị xã Châu Đốc - bà Nguyễn Thị Minh Tâm (tức Tư Dựa). Năm 1982, Phòng Lương thực thị xã Châu Đốc giải thể, chính quyền địa phương đã tự ý chuyển giao cho Công an nhân dân xã Vĩnh Tế làm trụ sở mà không thông qua bà Dung, nên bà Dung có đơn yêu cầu chính quyền địa phương trả lại nhà, đất nhưng không được giải quyết. Năm 1996, Công an xã Vĩnh Tế bàn giao nhà, đất nêu trên cho Bưu điện tỉnh An Giang. Bưu điện tỉnh An Giang đã xây dựng nhà nghỉ khách sạn trên diện tích đất của bà Dung. Tại Quyết định 1743/QĐ-UB ngày 13-12-1996, Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang đã thu hồi 784,3m2 đất và cho Bưu điện tỉnh An Giang thuê để sử dụng vào mục đích xây dựng Trung tâm Bưu điện và nhà nghỉ . Bà Dung khiếu nại Quyết định 1743/QĐ-UB ngày 13-12-1996 nêu trên. Tại Quyết định số 2555/QĐ.UB.KN ngày 23-11-2001, Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang quyết định bác yêu cầu của bà Dung đòi bồi thường phần đất xây dựng kho lương thực năm 1977 tọa lạc tại ấp Vĩnh Đông, xã Vĩnh Tế. Bà Dung khởi kiện hành chính đối với Quyết định hành chính nêu trên. Tại bản án hành chính sơ thẩm số 14/HCST ngày 24-3-2004, Tòa án nhân dân tỉnh An Giang quyết định: Bác yêu cầu khởi kiện của anh Sơn (do bà Dung ủy quyền) đối với quyết định hành chính số 2555/QĐ.UB.KN ngày 23-11-2001 của Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang về việc giải quyết khiếu nại của bà Dung đòi Nhà nước bồi thường phần đất xây dựng kho lương thực năm 1977 tại ấp Vĩnh Đông, xã Vĩnh Tế . Ngày 02-4-2004, anh Trang Tranh Sơn (được bà Dung ủy quyền) kháng cáo không đồng ý với bản án hành chính sơ thẩm. Tại bản án hành chính phúc thẩm số 27/HCPT ngày 15-7-2004, Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố đồ Chí Minh quyết định: Hủy bản án hành chính số 14/HCST ngày 24-3-2004 của Tòa án nhân dân tỉnh An Giang và đình chỉ vụ án hành chính, với lý do: Qua xem xét nội dung vụ kiện và Quyết định 1743/QĐ-UB ngày 13-12-1996 nêu trên của Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang là không thuộc thẩm quyển giải quyết của Tòa án. Ngày 15-10-2004, bà Dung có đơn khởi kiện vụ án dân sự, yêu cầu Phòng Lương thực thị xã Châu Đốc, Nhà nghỉ khách sạn Bưu điện Núi Sam và các hộ dân đang chiếm dụng đất của bà phải bồi hoàn thành quả lao động cho bà. Trong quá trình giải quyết vụ án bà Dung chỉ yêu cầu Nhà nghỉ khách sạn Bưu điện Núi Sam phải bồi thường giá trị đất và tài sản có trên đã là giá trị 2 căn nhà, bờ kè cho bà. - Bị đơn Nhà nghỉ Bưu điện khách sạn Núi Sam (sau đây gọi tắt là Nhà nghỉ Bưu điện) do ông Nguyễn Thành Phương là đại diện trình bày: về cơ sở vật chất Nhà nghỉ Bưu điện thuê của Bưu điện tỉnh An Giang từ tháng 12-l998. Khi thuê, Nhà nghỉ Bưu điện không rõ phía Bưu điện đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chưa và cũng không rõ nguồn gốc đất là của ai. Vì vậy, không đồng ý bồi hoàn thành quả lao động cho bà Dung. Đại điện Bưu điện tỉnh An Giang trình bày diện tích đất sử dụng xây Nhà nghỉ Bưu điện là thuê của Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang với thời hạn 50 năm theo hợp đồng thuê đất số 02/HĐ.TĐ ngay 12-6-1997 giữa Bưu điện với Sở Địa chính (nay là Sở Tài nguyên và Môi trường) tỉnh An Giang. Việc Bưu điện thuê đất có sự phê duyệt của Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang nhằm mục đích kinh doanh phục vụ Bưu điện và nhà nghỉ. Sau khi xây dựng xong cơ sở hạ tầng thì Bưu điện cho ông Phạm Thành Phương thuê lại. Bưu điện tỉnh không biết nguồn gốc đất là của gia đình bà Dung mà chỉ biết Bưu điện thuê của Sở Địa chính (nay là Sở Tài nguyên và Môi trường) theo quyết định của Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang. Vì vậy, luông đồng ý bồi hoàn thành quả lao động cho bà Dung. - Đại diện Sở Tài Nguyên và Môi trường tỉnh An Giang trình bày do có Quyết định 1743/QĐ.UB ngày 13-12-1996 của Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang về việc thu hồi đất nên Sở Địa chính (cũ) để là hợp đồng cho thuê đất với Bưu điện tỉnh. Việc ký hợp đồng cho thuê đã là có sự chỉ đạo của Ủy ban nhân dân tỉnh nên không đồng ý bồi thường theo yêu cầu của bà Dung. - Đại diện Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang trình bày diện tích đất mà Nhà nghỉ Bưu điện đang quản lý,sử dụng là do Nhà nước thu hồi theo quyết định 1743/QĐ.UB ngay 13-12-1996 của Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang nên thuộc sở hữu Nhà nước. Năm 1997, Ủy ban nhân dân tỉnh đã cho Bưu điện tỉnh An Giang thuê để xây dựng nhà nghỉ. Bà Dung khiếu nại yêu cầu bồi thường giá trị đất và tại Quyết định số 2555/QĐ.UB.KN ngày 23-11-2001, Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang đã bác yêu cầu của bà Dung, vì nhà đất của bà Dung là do chính quyền Cách mạng tiếp quản từ cơ sở cũ của ngụy quyền Sài Gòn và đã liên tục bố trí sử dụng từ sau giải phóng đến nay. Sự việc khiếu nại của bà Dung đã được giải quyết. Nay Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang vẫn giữ nguyên theo quan điểm của Quyết định số 2555/QĐ.UB.KN không chấp nhận yêu cầu của bà Dung. Tại bản án dân sự sơ thẩm số 35/2006/DSST ngày 05-12-2006, Tòa án nhân dân tỉnh An Giang quyết định: bác yêu cầu khởi kiện về việc “đòi bồi hoàn giá trị đất” bà Trang Phù Dung do ông Trang Thanh Sơn đại diện. Ông Trang Thanh Sơn (được bà Dung ủy quyền) kháng cáo không đồng ý với bản án sơ thẩm. Tại bản án dân sự phúc thẩm số 150/2007/DSPT ngày 18-5-2007, Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh quyết định: Sửa bản án sơ thẩm số 35/2006/DSST ngày 05-12-2006 của Tòa án nhân dân tỉnh An Giang như sau: 1. Buộc sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh An Giang, Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang, Bưu điện An Giang và Nhà nghỉ khách sạn Bưu điện Núi Sam. Bốn đơn vị cơ quan nêu trên phải liên đới bồi thường cho bà Trang Phù Dung: - Tiền thiệt hại về chi phí vật tư xây dựng, tiền công của 2 căn nhà cấp 4; tiền vật tư, công xây dựng bờ kè ven sông của khu đất. Cộng 3 khoản là 363.364.000 đồng. - Tiền hỗ trợ sau khi thu hồi đất là: 136.636.000đồng. Tổng cộng là: 500.000.000 đồng. 2. Chia theo phần mỗi đơn vị cơ quan nêu ở điểm 1 của quyết định này phải bồi thường: 125. 000.000 đồng. Ngoài ra, Tòa án cấp phúc thẩm còn quyết định về án phí. Sau khi xét xử phúc thẩm, Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh An Giang và bị Trang Phù Dung có đơn khiếu nại. Tại Quyết đinh số 315/2010/KN-DS ngày 17-5-2010, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao kháng nghị bản án dân sự phúc thẩm sô 150/2007/DS-PT ngày 18-5-2007 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh; đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòi án dân dân tối cao xét xử giảm đốc thẩm hủy bản án dân sự phúc thẩm nêu trên và bản án dân sự sơ thẩm số 35/2006/DSST ngày 05-12-2006 của Tòa án nhân dân tỉnh An Giang; giao hồ sơ vụ án cho Toà án nhân dân tỉnh An Giang xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật. Tại phiên tòa giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao chấp nhận kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao; hủy bản án dân sự phúc thẩm số 150/2007/DSPT ngày 18-5-2007 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh và bản án dân sự sơ thẩm số 35/2006/DSST ngày 05-12-2006 của Tòa án nhân dân tỉnh An Giang; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân tỉnh An Giang xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật. XÉT THẤY: Nguồn gốc nhà, đã có tranh chấp là của cụ Đinh Thị Huê (là mẹ bà Trang Phù Dung) đứng tên trên bằng khoán điền thổ do chính quyền cũ cấp. Ngày 16-12-1958 cụ Huê cho hội đồng xã Vĩnh Tế thuê để làm hội chợ gia súc. Ngày 02-8-1973, Tỉnh trường tỉnh Châu Đốc (cũ) có văn bản giao cả đất cho cụ Huê. Ba Trang Phù Dung cho rằng, sau khi được trả đất thì gia đình bà quản lý đến khi giải phóng miền Nam gia đình bà cho Phòng lương thực thị xã Châu Đốc mượn làm trạm, kho thu mua lương thực. Bà Nguyễn Thị Minh Tâm (tức Tư Dựa) là Trưởng Phòng lương thực thời điểm đó đã trực mượn nhà, đất của gia đình bà việc cho mượn chỉ thỏa thuận miệng không có văn bản nhưng có các nhân chứng biết và xác nhận. Đại diện Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang, đại diện Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh An Giang, Bưu điện tỉnh An Giang, Nhà nghỉ khách sạn Bưu điện Núi Sam thừa nhận diện tích đất tranh chấp có nguồn gốc là của gia đình bà Dung nhưng cho rằng sau khi giải phóng miền Nam, Nhà nước đã quản lý nhà, đã nêu trên là do tiếp quản từ chế độ cũ, đến năm 1996 thì Ủy ban nhân dân tỉnh giao Bưu điện tỉnh An Giang thuê. Như vậy, các bên đương sự đều thừa nhận nguồn gốc nhà, đã có tranh chấp là của gia đình bà Dung. Tuy nhiên lời khai của các đương sự có mâu thuẫn về người quản lý, sử dụng từ khi chính quyền cũ trả lại đất từ năm 1973. Tòa án các cấp chưa tiến hành xác minh làm rõ sau khi chính quyền cũ trả lại đất thì gia đình bà Dung có quản lý, sử dụng cho đến khi Phòng lương thực thị xã Châu Đốc mượn làm kho, trạm thu mua lương thực hay Nhà nước quản lý nhà, đất trên là do tiếp quản của chế độ cũ và chính quyền địa phương có văn bản thu hồi đất hợp pháp hay không. Trường hợp có đủ căn cứ xác định gia đình bà Dung vẫn có quyền sử dụng hợp pháp diện tích đất trên và chính quyền địa phương không có văn bản thu hồi đất hợp pháp những Nhà nước đã giao đất cho cơ quan quản lý và không thể trở lại được đất thì phải thanh toán giá trị đất cho bà Dung. Việc xác định tư cách pháp lý của người phải bồi thường theo quy định của Luật đất đai. Trường hợp nếu chính quyền địa phương có văn bản thu hồi đất hợp pháp thì phải bác yêu cầu của bà Dung. Tòa án các cấp chưa xác minh làm rõ các vấn đề nêu trên nhưng Tòa án cấp sơ thẩm cho rằng sau khi chính quyền cũ trả đất, gia đình bà Dung chưa nhận lại mà đất vẫn do chính quyền cũ quản lý và Nhà nước đã tiếp quản từ chế độ cũ để từ đó bác yêu cầu của bà Dung; còn Tòa án cấp phúc thẩm chỉ căn cứ vào lời khai của bà Dung xác nhận của bà Nguyễn Thị Minh Tâm để công nhận gia đình bà Dung có quyền sử dụng hợp pháp diện tích nhà, đất tranh chấp, từ đó buộc Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang, Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh An Giang, Bưu điện tỉnh An Giang và Nhà nghỉ khách sạn Bưu điện Núi Sam phải liên đới bồi thường phần chi phí xây dựng 2 căn nhà, chi phí xây dựng bờ kè 363.364.000 đồng và hỗ trợ 136.636.000 đồng tiền thu hồi đất là không đúng. Ngoài ra, nếu xác định diện tích đất nêu trên là của bà Dung và văn bản thu hồi đất của chính quyền địa phương không họp pháp thì theo quy định tại Điều 32a Bộ luật tố tụng dân sự (đã được sửa đổi, bổ sung theo Luật số 65/2011/QH12 ngày 29/3/2011 của Quốc hội) thì khi giải quyết vụ việc dân sự, Tòa án có quyền hủy quyết định cá biệt rõ ràng trái pháp luật của cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền của cơ quan, tổ chức đó... Vì các lẽ trên, căn cứ vào khoản 3 Điều 297 và Điều 299 Bộ luật tố tụng dân sự (đã được sửa đổi, bổ sung theo Luật số 65/2011/QH12 ngày 29/3/2011 của Quốc hội); QUYẾT ĐỊNH: 1. Huỷ bản án dân sự phúc thẩm số 150/2007/DSPT ngày 18-5-2007 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh và bản án dân sự sơ thẩm số 35/2006/DSST ngày 05-12-2006 của Tòa án nhân dân tỉnh An Giang về vụ an dân sự “đòi bồi thường giá trị đất” giữa nguyên đơn là bà Trang Phù Dung với bị đơn là Nhà nghỉ khách sạn Bưu điện Núi Sam, Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang, Bưu điện tỉnh An Giang, Sở Tài nguyên về Môi trường tỉnh An Giang. 2. Giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân tỉnh An Ciang xét xử sơ thẩm đi theo đúng quy định của pháp luật. Bài 8: Nhận xét của anh, chị về: - Quan hệ pháp luật về nội dung trong vụ án - Thành phần, tư cách đương sự trong vụ án - Chứng cứ và sử dụng chứng cứ trong vụ án Ngày 14/02/2012, tại trụ sở Tòa án nhân dân tối cao mở phiên tòa giám đốc thẩm xét xử vụ án dân sự “Tranh chấp về quyền sở hữu tài sản " (đòi lại tài sản là nhà gắn liền với quyền sử dụng đất) giữa: - Nguyên đơn: Bà Hàng Tuyết Phương sinh năm 1928; định cư ở nước Cộng hòa Pháp; tạm trú tại 115 Nguyễn Thái Học, phường Cầu Ông Lãnh quận 1, thành phố Hồ Chí Minh; Đại diện theo ủy quyền của bà Phương là ông Hàng Võ trú tại 109 Cách Mạng Tháng Tám, phường Hòa Bình, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai. Bị đơn: Chị Huỳnh Thị Thu Hương sinh năm 1967; trú tại 17/1A, khu phố 2, phường Bửu Long, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai. - Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: 1. Bà Nguyễn Thị Phẩm sinh năm 1952. 2. Ông Vũ Hồng Tăng sinh năm 1934. 3 . Anh Vũ Hồng Anh sinh năm 1979 4. Chị Vũ Lệ Anh sinh năm 1981. 5 . Chị Vũ Vân Anh sinh năm 1983. 6. Anh Vũ Nam Anh sinh năm 1987. Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan cùng trú tại số nhà 111 đường Cách Mạng Tháng Tám, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai. NHẬN THẤY: Tại đơn khởi kiện đề ngày 20/12/2006 và các lời khai trong quá trình tố tụng nguyên đơn là bà Hàng Tuyết Phương trình bày. Năm 1953, bà mua một căn nhà trên diện tích đất 0h11a45 tại số 49 đường Nguyễn Hữu Cảnh (nay là số 111 đường Cách Mạng Tháng Tám) thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai của vợ chồng “Nguyễn Xuân Bá và Maire Hélène Nguyen Van Yen”. Do nhà cũ xuống cấp nên ngày 9/11/1961 bà lập đồ án xây dựng căn nhà trên một phần đất diện tích 432,8m2 và được Tỉnh trưởng Biên Hòa cấp phép xây dựng ngày 29/12/1961. Do bận đi công tác ở xa nên bà giao nhà cho bà Huỳnh Thi Tư (là chị gái bà) quản lý và nuôi mẹ bà là cụ Huỳnh Sâm (chết năm 1993). Năm 1962, lấy danh nghĩa của bác sỹ Vương Tú Toàn, bà mở Nhà bảo sanh, lấy hiệu "Minh Đức" và giao cho bà Tư quản lý. Năm 1967, bà Tư nhận chị Huỳnh Thị Thu Hương làm con nuôi. Ngày 01/8/1971, bà làm “Tờ xác nhận cho đất cất nhà" có nội dung bà đứng tên làm chủ lô đất sổ địa bộ 47 số bản đồ 49 tờ thứ 4 tỉnh lỵ Biên Hòa số 89 Nguyễn Hữu Cảnh; bằng lòng và thỏa thuận để một phần đất của bà là 80m2 cho bà Tư xây cất một căn nhà để cho cụ Sâm ở. Năm 1976, bà xuất cảnh sang Pháp, bà giao nhà đất của bà cho mẹ bà và bà Tư quản lý, chị Hương ở cùng. Năm 1985 bà Tư chết bà tiếp tục cho chị Hương sử dụng. Năm 1987, chị Hương tự ý lập giấy tờ kê khai nhà đất do bà Tư chết để lại cho chị Hương thừa kế để được cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà vào ngày 19/6/1987, bà không biết. Năm 1997, chị Hương tiếp tục làm thủ tục đăng ký, kê khai nhà đất bà cũng không biết. Năm 1998, bà về nước, chị Hương lập "Tờ cam kết" ngày 6/5/1998 có nội dung: nguyên căn nhà 111 đường Cách Mạng Tháng Tám hiện chị Hương đang ở nguồn gốc nhà đất thuộc sở hữu của bà, nay bà đồng ý cho chị Hương đứng tên, nếu sau này có sự mua bán, cho thuê, chuyển đại nhà đất thì phải có sự đồng ý của bà và chị Hương. Ngày 12/3/2002, chị Hương được cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất. Ngày 26/3/2002, chị Hương tự ý bán toàn bộ nhà và chuyển nhượng đất cho bà Nguyễn Thị Phẩm không được sự đồng ý của bà. Bà Phương yêu cầu Toà án hủy hợp đồng mua bán nhà đất giữa chị Hương với vợ chồng ông Vũ Hồng Tăng, bà Nguyễn Thị Phẩm, trả lại nhà đất cho bà. Bà đồng ý cho chị Hương 80m2 đất theo giấy cho đất lập năm 1971. - Bị đơn là chị Huỳnh Thị Thu Hương trình bày: Nhà tranh chấp do mẹ chị là bà Tư xây năm 1961, đất có thể do cụ Huỳnh Sâm cho mẹ chị. Năm 1963, mẹ chị mua lại những dụng cụ Nhà bảo sanh Minh Đức của bác sỹ Vương Tú Toàn. Năm 1971, bà Phương cho mẹ chị 80m2 đất và mẹ chị đã xây một căn nhà nhỏ năm 1985, mẹ chị chết không để lại di chúc, chị là con duy nhất nên được thừa kế toàn bộ và đất của mẹ chị để lại. Do sử dụng nhà đất ổn định nên năm 1987 chỉ làm thủ tục đăng ký và được cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà 111 đường Cách Mạng Tháng Tám. Năm 1976 , bà Phương xuất cảnh diện con bảo lãnh, bà Phương không làm thủ tục ủy quyền quản lý tài sản do thực tế bà không còn tài sản nào ở Việt nam và cũng không đăng ký, kê khai nhà đất theo quy định của pháp luật. Năm 1997, chị đăng ký, kê khai theo quy định của Nhà nước và được cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất ngày 12/03/2002. Năm 1998, bà Phương về nước có lập sẵn một tờ cam kết, chị đã ký tên trong trạng thái tinh thần không minh mẫn và không có chứng thực của chính quyền địa phương. Ngày 26/3/2002, chị bán toàn bộ nhà đất cho bà Phẩm với giá 200 lượng vàng. Nay chị không đồng ý với yêu cầu của bà Phương. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là vợ chồng bà Nguyễn Thị Phẩm và ông Vũ Hồng Tăng trình bày: Ngày 26/3/2002, ông bà đã lập hợp đồng mua nhà 111 đường Cách Mạng Tháng Tám của chị Hương trên diện tích đất 432,8m2, đã được chứng thực của Ủy ban nhân dân phường và hồ sơ chuyển nhượng đã làm ở Ủy ban dân nhân thành phố Biên Hòa. Ông bà đã thanh toán xong số tiền mua bán như chị Hương trình bày, nhưng do bà Phương có tranh chấp nên việc sang tên quyền sở hữu nhà chưa thực hiện được. Nay ông bà yêu cầu chị Hương tiếp tục thực hiện hợp đồng. Tại bản án dân sự sơ thẩm số 08/2007/DS-ST ngày 12/7/2007, Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai quyết định : Chị Hương được sở hữu căn nhà số 111 có diện tích 230,95m2 và được quyền sử dụng diện tích đất 432,8m2 thuộc thửa 36, tờ bản đồ số 07 phường Hòa Bình, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai (có căn nhà tọa lạc ở trên). Chị Hương có trách nhiệm thanh toán 1/2 giá trị diện tích nhà và đất cho bà Phương là 100 lương vàng SJC. Tách và dành quyền khởi kiện cho ông Tăng, bà Phẩm đốí với chị Hương bằng vụ kiện khác về hợp đồng chuyển nhượng nhà và quyền sử dụng đất nếu có yêu cầu và còn thời hiệu khởi kiện. Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về án phí. Ngày 20/7/2007, đại diện của bà Hàng Tuyết Phương là ông Hàng Võ kháng cáo yêu cầu chị Huỳnh Thị Thu Hương trả là diện tích đất hoặc trả theo giá thị trường. Ngày 25/7/2007, chị Huỳnh Thị Thu Hương kháng cáo đề nghị được xem xét lại. Tại bản án dân sự phúc thẩm số 387/2007/DSPT ngày 29/1l/2007, Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh quyết định: Bác yêu cần khơỉ kiện đòi tài sản và đất của bà Hàng Tuyết Phương (ủy quyền cho ông Hàng Võ) đối với chị Huỳnh Thị Thu Hương. Chị Huỳnh Thị Thu Hương được quyền sở hữu nhà và đất tại số 111 đường Cách Mạng Tháng Tám, phường Hòa Bình, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai theo giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở số 4701020384 ngày 12/3/2002 của Ủy ban nhân dân tỉnh Đồng Nai. Các phần quyết định khác của án sơ thẩm đã có hiệu lực pháp luật. Tòa án cấp phúc thẩm còn quyết định về án phí. Ngày 20/1 2/2007, bà Hàng Tuyệt Phương khiếu nại đề nghị Tòa án chấp thuận yêu cầu đòi lại nhà đất của bà, hoặc trả giá trị 1/2 nhà đất theo giá thị trường. Tại Quyết định số 900/2010/KN-DS ngày 26/11/2010, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao kháng nghị bản án dân sự phúc thẩm số 387/2007/DSPT ngày 29/11/2007 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh; đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm, hủy ban án phúc thẩm nêu trên và huỷ bản án dân sự sơ thẩm số 08/2007/DS-ST ngày 12/7/2007 của Toà án nhân dân tỉnh Đồng Nai; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai xét xử lại theo thủ tục sơ thẩm. Tại phiên tòa giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao nhất trí với kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao. XÉT THẤY: Theo tài liệu trong hồ sơ vụ án có cơ sở xác định đất tranh chấp diện tích 432,8m2 tại số nhà 111 đường Cách Mạng Tháng Tám, phường Hòa Bình, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai do bà Hàng Tuyết Phương tạo lập năm 1953 và xây nhà năm 1961, có giấy tờ mua bán, xây dựng và được chính quyền chế độ cũ xác nhận. Sau khi xây nhà xong bà Phương để cho mẹ là cụ Huỳnh Sâm, chị gái là bà Huỳnh Thị Tư và chị Huỳnh Thị Thu Hương (được bà Tư nhận làm con nuôi vào năm 1967) sử dụng. Năm 1971, bà Phương viết giấy đồng ý coi một phần đất của bà thương cho bà Tư 80m2 (tại phần đất tranh chấp nêu trên) để bà Tư xây dựng nhà cho bà Tư và cụ Sâm ở; nay bà Phương vẫn đồng ý cho chị Hương phần đất này. Trước và sau khi xuất cảnh sang nước Pháp năm 1976 bà Phương không ủy quyền quản lý sử dụng, bán, tặng cho nhà đất cho ai, nên năm 1987 chị Hương tự kê khai và được cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà là không đúng quy định. Năm 1998, chị Hương đã ký “Tờ cam kết" với bà Phương, có nội dung thừa nhận nhà đất tranh chấp thuộc quyền sở hữu của bà Phương, bà Phương đồng ý để chị Hương đứng tên quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất nếu sau này có sự mua bán cho thuê, chuyển đổi nhà đất nói trên phải có sự đồng ý của bà phương và chị Hương. Ngày 12/3/2002, chị Hương được cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất; chỉ hai ngày sau (ngày 14/3/2002), chị Hương ký hợp đồng bán toàn bộ nhà đất nêu trên cho vợ chồng ông Vũ Hồng Tăng và bà Nguyễn Thị Phẩm với giá 200 lượng vàng. Khi tranh chấp xảy ra (năm 2002) bà Phương yêu cầu hủy hợp đồng mua bán nhà đất giữa chị Hương với vợ chồng ông Tăng, bà Phẩm và được lấy lại nhà đất, đồng ý cho chị Hương 100 lượng vàng và 80m2 đất đã cho bà Tư năm 1971; còn chị Hương không đồng ý trả nhà đất, chỉ đồng ý trả bà Phương 66 lượng vàng (BL 91,92,93) Như vậy, nhà đất tranh chấp bà Phương chưa bán, tặng cho ai và không bị Nhà nước quản lý. Chị Hương không có chứng cứ chứng minh bà Phương đã cho bà Tư toàn bộ nhà đất này nên chị Hương không có quyền thừa kế tài sản tranh chấp. Chị Hương viết cam kết năm 1998 với bà Phương đã thừa nhận nhà đất tranh chấp vẫn thuộc quyền sở hữu và sử dụng của bà Phương. Từ sau khi có cam kết, bà phương không có văn bản nào bán, tặng cho chị Hương nhà đất của bà Phương. Vì vậy, nhà đất tranh chấp vẫn thuộc quyền sở hữu và sử dụng hợp pháp của bà Phương, nhưng giao cho chị Hương 80m2 đất bà Phương cho bà Tư và giao cho chị Hương một phần đất do có công sức duy trì tài sản, tổng cộng tương đương là diện tích đất tranh chấp, như Tòa án cấp sơ thẩm đã xác định là phù hợp. Tòa án cấp phúc thẩm cho rằng bà Tư quản lý tài sản trong thời gian dài, chị Hương đã kê khai và đo được thừa kế của bà Tư, đã được cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà, quyền sử dụng đất, từ đó bác yêu cầu của bà Phương là không đứng. Khi đã xác định nhà đất tranh chấp vẫn thuộc quyền sở hữu và sử dụng hợp pháp của bà Phương thì phải xác định chị Hương không có quyền bán. Lẽ ra, phải giải quyết đồng thời trong cùng vụ án này về việc có công nhận hay không công nhận hợp đồng mua bán nhà đất giữa chị Hương với vợ chồng ông Tăng, bà Phẩm; phải thu thập chứng cứ làm rõ nếu người mua là ngay tình thì xem xét công nhận quyền sở hữu nhà, sử dụng đất cho người mua theo quy định tại Điều 258 Bộ luật dân sự; nếu người mua biết rõ nguồn gốc nhà đất của bà Phương nhưng vẫn tiến hành mua thì xem xét lỗi của đôi bên và giải quyết hợp đồng vô hiệu theo quy định; phải định giá nhà đất theo thị trường để buộc chị Hương trả một phần giá trị nhà đất cho bà Phương. Tòa án cấp sơ thẩm không xem xét các nội dung trên, tách quan hệ mua bán nhà đất giữa chị Hương với ông Tăng, bà Phẩm để giải quyết trong vụ án khác nếu đương sự có yêu cầu là không giải quyết toàn diện vụ án. Bởi các lẽ trên, căn cứ vào khoản 3 Điều 297 và Điều 299 Bộ luật tố tụng dân sự (đã được sửa đổi, bổ sung theo Luật số 65/2011/QH12 ngày 29/3/2011 của Quốc hội). QUYẾT ĐỊNH: Hủy bản án dân sự phúc thẩm số 387/2007/DSPT ngày 29/11/2007 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh và bản án dân sự sơ thẩm số 08/2007/DS-ST ngày 12/7/2007 của Toà án nhân dân tỉnh Đồng Nai về vụ án “Tranh chấp về quyền sở hữu tài sản” giữa nguyên đơn là bà Hàng Tuyết Phương với bị đơn là chị Huỳnh Thị Thu Hương; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà Nguyễn Thị Phẩm, ông Vũ Hồng Tăng, anh Vũ Hồng Anh, chị Vũ Lệ Anh, chị Vũ Vân Anh và anh Vũ Nam Anh; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật. Bài 9: Nhận xét của anh, chị về: - Quan hệ pháp luật về nội dung trong vụ án - Thành phần, tư cách đương sự trong vụ án - Chứng cứ và sử dụng chứng cứ trong vụ án Ngày 22-03-2011, tại trụ sở Tòa án nhân dân tối cao mở phiên tòa giám đốc thẩm xét xử vụ án dân sự về “tranh chấp đòi lại nhà, đất cho ở nhờ” giữa: Nguyên đơn: 1/ Bà Lâm Thị Sáu sinh năm 1943, trú tại nhà số 628/85 đường Hậu Giang, phường 12, quận 6, thành phố Hồ Chí Minh. 2/ Bà Lâm Thị Túc sinh năm 1940; trú tại nhà số 96/65 đường Sơn Hùng, phường 12, quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh. 3/ Bà Lâm Kim Anh sinh năm 1950; trú tại ấp 1, xã Tân Tây, huyện Thạnh Hoá, tỉnh Long An. 4/ Chị Lâm Thị Mỹ Phượng (người thừa kế thế vị của ông Lâm Thành Xung) sinh năm 1970; trú tại nhà số 628/85 đường Hậu Giang, phường 12, quận 6, thành phố Hồ Chí Minh. 5/ Ông Lâm Hữu Châu sinh năm 1947; định cư tại Mỹ. 6/ Ông Lâm Thành Chung sinh năm 1931; định cư tại Mỹ. Các đồng nguyên đơn ủy quyền cho bà Lâm Thị Sáu đại diện. Bị đơn: Bà Diệp Thị Đẹt sinh năm 1921. Bà Đẹt ủy quyền cho chị Nguyễn Thị Ngọc Hường, sinh năm 1962 đại diện. Bà Đẹt và chị Hường cùng trú tại nhà số 50 (số mới 88) Điện Biên Phủ, khóm 3, phường 6, thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: 1/ Bà Dương Thị Mỹ Dung (vợ của ông Lâm Thành Xung), sinh năm 1948; trú tại nhà số 98 đường 3/2, phường Xuân Khánh, quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ. Bà Dung ủy quyền cho bà Lâm Thị Sáu đại diện. 2/ Chị Nguyễn Thị Ngọc Hường sinh năm 1962 (con của bà Đẹt). 3/ Nguyễn Quốc Thông sinh năm 1986 (con của chị Hường). 4/ Nguyễn Quốc Thanh sinh năm 1990 (con của bà Hường). 5/ Chị Nguyễn Thị Ngọc Tuyết sinh năm 1956 (con của bà Đẹt). 6/ Anh Nhâm Muối sinh năm 1953 (chồng của chị Tuyết). 7/ Nhâm Nguyễn Hoàng Tuấn sinh năm 1979 (con của chị Tuyết) . 8/ Nhâm Nguyễn Khánh Trang sinh năm 1981 (con của chị Tuyết) . 9/ Nhâm Nguyễn Hoàng Tấn sinh năm 1984 (con của chị Tuyết) . 10/ Chị Nguyễn Thị Ngọc Anh sinh năm 1951 (con của bà Đẹt). 11/ Anh Nguyễn Hoàng Minh sinh năm 1973 (con của bà Đẹt). 12/ Chị Lê Thị Thu Cúc sinh năm 1982 (con dâu của bà Đẹt). Cùng trú tại nhà số 50 (số mới 88) Điện Biên Phủ, khóm 3, phường 6, thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng. 13/ Anh Nguyễn Việt Bình (chồng của chị Hường) sinh năm 1956; trú tại nhà số 1/1 Ngô Gia Tự, khóm 3, phường 6, thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng. Các anh chị Nhâm Muối, Tuyết, Ngọc Anh, Hoàng Minh, Bình, Thông, Thanh, Tuấn, Trang, Tấn, Cúc đều ủy quyền cho chị Hường đại diện. NHẬN THẤY: Theo đơn khởi kiện ngày 25-01-1994, ngày 09-3-2008 và quá trình giải quyết vụ án bà Lâm Thị Sáu đại diện cho các đồng nguyên đơn trình bày: Nguồn gốc nhà đất tại số 50 Điện Biên Phủ, thị xã Sóc Trăng, (nay là thành phố Sóc Trăng), tỉnh Sóc Trăng là của cha mẹ bà là cụ Lâm Xạ Hương (chết năm 1981) và cụ Trương Thị Lý (chết năm 1990) nhận chuyển nhượng từ các ông Đội Nho, Ba Chúa, Bếp Bỗn, Hai Lục Lộ (giấy tờ nhà đất hiện đã bị mất). Cụ Hương và cụ Lý có 6 con chung gồm các ông bà: Lâm Thành Chung, Lâm Thành Xung (chết năm 1980, có con là Lâm Thị Mỹ Phượng), Lâm Thị Túc, Lâm Thị Sáu, Lâm Hữu Châu, Lâm Kim Anh. Năm 1954, cụ Hương, cụ Lý cho cụ Trương Thị Đạo (em ruột của cụ Lý) ở để chăm sóc cố Nguyễn Thị phúc (cố Phúc là mẹ của cụ Lý và cụ Đạo) đến năm 1960 cố Phúc chết, cụ Đạo vẫn ở đây. Năm 1968 bà Diệp Thị Đẹt (con dâu của cụ Đạo) vào ở nhà của cụ Hương, cụ Lý cùng cụ Đạo để buôn bán và bà Đẹt cùng gia đình ở trong nhà số 50 đường Điện Biên Phủ từ đó cho đến nay. Năm 1991, bà Đẹt dỡ nhà cũ để xây dựng nhà thì ông Lâm Thành Chung đã khiếu nại ra Ủy ban nhân dân xã nhưng không được giải quyết. Nay bà đại diện cho các anh em khởi kiện yêu cầu bà Đẹt trả lại nhà, đất của cha mẹ bà để lại. Sau đó, bà Sáu yêu cầu bà Đẹt trả nhà trên diện tích đo thực tế là 640,79m2 hoặc trả giá trị quyền sử dụng đất theo giá của Trung tâm thẩm định giá Miền nam với số tiền là 3 .783.865.000 đồng. Đại diện cho bị đơn và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chị Nguyễn Thị Ngọc Hường trình bày: Năm 1950, cụ Trương Thị Đạo (bà nội của chị) được vợ chồng cụ Lý, cụ Hương cho căn nhà số 50 Điện Biên Phủ, tỉnh Sóc Trăng để ở và chăm sóc cố Nguyễn Thị Phúc (tại biên bản hòa giải ngày 07-4-1994 bà Đẹt khai nhà số 50 Điện Biên Phủ là của cụ Hương cho cụ Đạo ở nhờ). Năm 1960, cụ Đạo cùng con trai Nguyễn Văn Đức và con dâu là bà Đẹt sống trong căn nhà này và quản lý diện tích đất xung quanh cho đến nay. Năm 1991, căn nhà số 50 Điện Biên Phủ đã bị sập hết, bà Đẹt làm đơn xin chính quyền địa phương sửa chữa toàn bộ. Ngày 13-4-1991, Ủy ban nhân dân thị xã Sóc Trăng có giấy xác nhận chủ quyền căn nhà số 50 Điện Biên Phủ là của bà Đẹt, ông Đức. Nay chị đại diện cho bị đơn và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không đồng ý với yêu cầu trả lại nhà và đất cho các nguyên đơn vì gia đình chị đã ở trên đất này hơn 50 năm, căn nhà đã được xây dựng mới. Tại bản án dân sự sơ thẩm số 07/2009/DSST ngày 24-4-2009, Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng quyết định: Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của các đồng nguyên đơn về việc đòi bà Diệp Thị Đẹt trả lại nhà số 50 (số mới 88) đường Điện Biên Phủ, khóm 3, phường 6, thành phố Sóc Trăng và diện tích đất xung quanh 640,79m2 hoặc trả giá trị quyền sử dụng đất trị giá 3.783.865.000 đồng. Bản án còn quyết định về án phí và chi phí định giá tài sản. Ngày 06-5-2009, bà Lâm Thị Sáu kháng cáo với nội dung nhà đất tại số 50 đường Điện Biên Phủ là của cha mẹ bà để lại, yêu cầu gia đình bà Đẹt phải trả cho các anh chị em bà. Tại bản án dân sự phúc thẩm số 253/2009/DSPT ngày 25-8-2009 và thông báo sửa chữa bản án ngày 08-9-2009, Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao lại thành phố Hồ Chí Minh quyết định: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của các đồng nguyên đơn bà Lâm Thị Sáu, Lâm Thị Túc, Lâm Kim Anh, Lâm Thị Mỹ Phương, ông Lâm Hữu Châu, Lâm Thành Chung do bà Lâm Thị Sáu đại diện về việc đòi bà Diệp Thị Đẹt trả lại giá trị quyền sử dụng đất tại số 50 (số mới 88) Điện Biên Phủ, khóm 3, phường 6, thành phố Sóc Trăng. Ghi nhận sự tự nguyện của các đồng nguyên đơn để lại diện tích đất 72.60m2 cho bị đơn Diệp Thị Đẹt sử dụng. Buộc bà Đẹt phải trả cho các đồng nguyên đơn do bà Lâm Thị Sáu đại diện số tiền 3.355.161.950 đồng. Bà Diệp Thị Đẹt có quyền liên hệ với các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để được cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật. Bản án còn quyết định về án phí và chi phí định giá. Sau khi xét xử phúc thẩm, chị Nguyễn Thị Ngọc Hường đại diện cho bà Đẹt có đơn khiếu nại. Tại Quyết định số 11/QĐ-KNGĐT-V5 ngày 27-01-2010, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã kháng nghị bản án phúc thẩm nêu trên và đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao xử hủy bản án phúc thẩm nêu trên và hủy bản án dân sự sơ thẩm số 07/2009/DSST ngày 24-4-2009 của Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng; giao hồ sơ cho Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng xét xử sơ thẩm lại vụ án. XÉT THẤY: Bà Lâm Thị Sáu cho rằng nhà, đất tại số 50 đường Điện Biên Phủ khóm 3, phường 6, thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng do cha mẹ bà là cụ Lâm Xạ Hương và Trương Thị Lý tạo lập từ năm 1936, giấy tờ mua bán với chủ cũ đã bị thất lạc. Theo đơn “Cớ mất giấy chủ quyền bất động sản” do cụ Lý viết ngày 02-6-1988, có xác nhận của chính quyền, với nội dung: năm 1936, vợ chồng cụ Lý đã tạo lập nhà đất tại số 50 Điện Biên Phủ, năm 1950 cụ Lý ủy quyền cho cụ Đạo là chị ruột sử dụng toàn bộ nhà đất, năm 1985 cụ Đạo chết và hiện do bà Diệp Thị Đẹt (con dâu cụ Đạo) tiếp tục coi sóc; mọi giấy tờ liên quan đến căn nhà này do Ủy ban quân quản thị xã Sóc Trăng thu giữ năm 1975, không lập biên bản giao cho gia đình, sự việc có ông Lê Kim Hòa, bà Đẹt biết rõ. Đơn của cụ Lý có chữ ký làm chứng của ông Hòa, bà Đẹt (BL 31). Bà Đẹt cũng thừa nhận nhà đất tranh chấp là của cụ Hương cụ Lý. Như vậy, có cơ sở xác định nhà đất tranh chấp thuộc quyền sở hữu và sử dụng của cụ Hương cụ Lý, cụ Lý chỉ cho cụ Đạo sau này là bà Đẹt được sử dụng và tiếp tục quản lý. Bà Đẹt cho rằng cụ Đạo được cụ Lý cho nhà, đất đó tù năm 1950 nhưng không có giấy tờ chứng minh. Theo nội dung “Thơ phúc đáp” ngày 15-11-1991 của Công ty Quản lý công trình đô thị thị xã Sóc Trăng gửi ông Lâm Thành Chung (con cụ Lý) thì đất của cụ Lý không bị Nhà nước quản lý (BL 32). Do đó, nhà, đất tranh chấp vẫn thuộc quyền sở hữu và sử dụng của cụ Lý, cụ Hương chưa chuyển dịch sở hữu cho cụ Đạo, bà Đẹt. Nay căn nhà của cụ Hương, cụ Lý do bà Đẹt tháo dỡ năm 1991, nhưng ngay khi đó ông Chung đã có đơn ngăn chặn nên đất tranh chấp không phải do nguyên đơn đã từ bỏ quyền sử dụng. Tuy nhiên, hồ sơ chưa xác minh tại cơ quan Nhà nước có thẩm quyền có ý kiến như thế nào về việc nếu không có gia đình bà Đẹt ở đây nhà, đất có bị quản lý trong quá trình Nhà nước thực hiện chính sách cải tạo nhà đất không? Mặt khác, theo đơn khởi kiện bà Sáu yêu cầu trả 500m2 đất; trong đơn “Cớ mất giấy chủ quyền bất động sản” cụ Lý xác định đất có diện tích 8m x 40m; theo sơ đồ thẩm định ngày 22-8-2008 (BL 210) thì bà Đẹt quản lý 625,60m2 “phần đất tự khai của chủ tranh chấp 15,19m2”. Chị Hường (con bà Đẹt) khai diện tích đất 15,19m2 chị Tuyết (con bà Đẹt) nhận chuyển nhượng từ người khác. Lẽ ra trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án các cấp phải xác minh làm rõ có việc chị Tuyết nhận chuyển nhượng thêm đất hay không? Tứ cận lô đất do cụ Hương, cụ Lý tạo lập và hiện tại có thay đổi không? Diện tích đất chênh lệch do đâu mà có? Khi chưa làm rõ những nội dung nêu trên Tòa án cấp sơ thẩm bác yêu cầu của nguyên đơn, còn Tòa án cấp phúc thẩm xác định toàn bộ đất tranh chấp là di sản của cụ Hương, cụ Lý chỉ trừ 72,60m2 đất tương đương giá trị công sức quản lý nhà đất cho bà Đẹt và buộc gia đình bà Đẹt phải trả cho nguyên đơn giá trị diện tích đất 568,19m2 đều là chưa đủ căn cứ. Vì các lẽ trên, căn cứ vào khoản 3 Điều 297 và khoản 1 Điều 299 Bộ luật tố tụng dân sự, QUYẾT ĐỊNH: 1. Hủy bản án dân sự phúc thẩm số 253/2009/DSPT ngày 25-8-2009 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh và hủy bản án dân sự sơ thẩm số 07/2009/DSST ngày 24-4-2009 của Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng về vụ án “tranh chấp đòi lại nhà, đất cho ở nhờ” giữa nguyên đơn là các ông, bà Lâm Thị Sáu, Lâm Thị Túc, Lâm Kim Anh, Lâm Thị Mỹ Phượng, Lâm Hữu Châu, Lâm Thành Chung với bị đơn là bà Diệp Thị Đẹt; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là các ông, bà Dương Thị Mỹ Dung, Nguyễn Thị Ngọc Hường, Nguyễn Quốc Thông, Nguyễn Quốc Thanh, Nguyễn Thị Ngọc Tuyết, Nhâm Muối, Nhâm Nguyễn Hoàng Tuấn, Nhâm Nguyễn Khánh Trang, Nhâm Nguyễn Hoàng Tấn, Nguyễn Thị Ngọc Anh, Nguyễn Hoàng Minh, Lê Thị Thu Cúc. 2. Giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật. Bài 10: Nhận xét của anh, chị về: - Quan hệ pháp luật về nội dung trong vụ án - Thành phần, tư cách đương sự trong vụ án - Chứng cứ và sử dụng chứng cứ trong vụ án Ngày 22-03-2011, tại trụ sở Toà án nhân dân tối cao mở phiên toà giám đốc thẩm xét xử vụ án dân sự đòi quyền sở hữu tài sản và quyền sử dụng đất giữa: Nguyên đơn: Anh Hoàng Hữu Hương sinh năm 1965; trú tại nhà số 8C thị trấn Vôi, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang. Bị đơn: Ủy ban nhân dân huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang do ông Nguyễn Văn Minh, Chánh Thanh tra Nhà nước huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang làm đại diện theo giấy ủy quyền số 601/CV-UB ngày 24 -7 - 2002 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Lạng Giang. - Công ty Thương nghiệp huyện Lạng Giang do ông Nghiêm Xuân Lâm giám đốc đại diện. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: 1. Chị Nguyễn Thị Mậu 2. Chị Phạm Thị Hạnh 3 . Chị Chu Thị Nụ 4 . Anh Nguyễn Thanh Cao 5 . Anh Phạm Văn Hưởng 6. Anh Trịnh Văn Phước 7 . Anh Nguyễn Hồng Giang 8 . Anh Trần Đức Hùng. Chị Mậu, chị Hạnh, chỉ Nụ, anh Cao, anh Hưởng, anh Phước, anh Giang và anh Hùng đều trú tại thị trấn Vôi, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang. NHẬN THẤY: Theo đơn khởi kiện ngày 06-01-1994 và các lời khai trong quá trình tố tụng nguyên đơn là anh Hoàng Hữu Hương trình bày: Ngày 15-7-1968, gia đình anh nhận chuyển nhượng của ông Nguyễn Văn Thành một dinh cơ tại phố Vôi gồm một nhà ngói đã dỡ, một bếp, sân, giếng và cây cối trong vườn đứng tên anh trai anh là Hoàng Hữu Tăng. Ngày 24 - 4 - 1973, anh Tăng và Cửa hàng ăn uống Vôi, huyện Lạng Giang, tỉnh Hà Bắc (cũ) thỏa thuận ký "Biên bản thỏa thuận mua bán nhà và dùng nhờ đất”, do ông Lạc Như Vĩnh đại diện với nội dung: gia đình anh Tăng bán 4 gian nhà lợp ngói và sân gạch trên diện tích 78m2 đất cho Cửa hàng ăn uống Vôi, phần đất cỏn lại trên đất có một giếng gạch và công trình phụ bên cạnh là ao cá nhỏ, diện tích khu đất bỏ không khoảng 120m2 không tính diện tích ao, vườn, cho cửa hàng mượn. Ngày 15-9-1991, gia đình anh đòi quyền sử dụng khu đất cho Cửa hàng ăn uống Vôi mượn. Ngày 27-1-1992, Liên hiệp Công ty Thương nghiệp Hà Bắc (là cơ quan quản lý cấp trên của Cửa hàng ăn uống Vôi) có văn bản trả lại khu đất của Cửa hàng bán kem, phở cho Ủy ban nhân dân huyện Lạng Giang để giải quyết tranh chấp, phần còn lại một số hộ hiện đang sử dụng. Anh yêu cầu Công ty Thương nghiệp huyện Lạng Giang trả cho gia đình anh ba gian nhà và 485m2 đất (phiên tòa sơ thẩm ngày 9-4-1996). Tại phiên tòa sơ thẩm ngày 30-11-2000, anh yêu cầu Ủy ban nhân dân huyện Lạng Giang trả lại đất mà Cửa hàng ăn uống Vôi mượn (không xác định diện tích cụ thể), còn giá trị nhà 4 gian Cửa hàng ăn uống đã trả bằng nguyên vật liệu. Tại phiên tòa sơ thẩm ngày 18-5-2006, anh yêu cầu Ủy ban nhân dân huyện Lạng Giang trả cho gia đình anh 500m2 đất (có 8 hộ đang ở); tài sản trên đất không còn giá trị nên anh không yêu cầu. Bị đơn là Ủy ban nhân dân huyện Lạng Giang do người đại diện theo ủy quyền trình bày: Phần nhà trên diện tích 78m2 đất gia đình anh Hương đã chuyển nhượng cho Cửa hàng ăn uống Vôi; phần còn lại gia đình anh Hương đã được trả lại theo bản án số 07/DSST ngày 12-6-1991 của Toà án nhân dân tỉnh Hà Bắc (cũ); giấy thỏa thuận mua bán nhà và dùng nhờ đất được lập khi ông Lạc Như Vĩnh (người ký văn bản đại diện cơ quan mượn đất) đã nghỉ hưu và ông Vĩnh không có thẩm quyền ký văn bản thỏa thuận Ủy ban nhân dân huyện Lạng Giang yêu cầu anh Hương xuất trình bản gốc văn bản thỏa thuận mua bán nhà và dùng nhờ đất ngày 24-4-1973, nhưng anh không xuất trình được nên Ủy ban không chấp nhận yêu cầu của anh. Đồng bị đơn là Công ty Thương nghiệp huyện Lạng Giang do ông Nghiêm Xuân Lâm đại diện trình bày: Liên hiệp Công ty Thương nghiệp Hà Bắc đã bàn giao cho Ủy ban nhân dân huyện Lạng Giang giải quyết việc tranh chấp đất giữa anh Hương với Ủy ban nhân dân huyện. Tài sản trên đó vẫn thuộc Công ty Thương nghiệp huyện Lạng Giang quản lý. Khi nào Ủy ban nhân dân huyện Lạng Giang giải quyết dứt điểm thì Công ty sẽ giải quyết về tài sản với người được sử dụng đất trên. Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Chị Mậu, chị Hạnh, chị Nụ cho rằng các chị được Ban Tài chính huyện Lạng Giang cho thuê ki ốt từ những năm 1993 nên họ không có quyền quyết định về đất và tài sản trên đất. Anh Phước, anh Giang là người được thanh lý nhà nên không đồng ý với yêu cầu của anh Hương. Anh Nguyễn Thanh Cao cho rằng năm 1978, anh được Công ty Thương nghiệp thanh lý 2 gian nhà cấp 4. Anh đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất năm 1993 với diện tích 56m2 tờ bản đồ số 19, thửa số 580, nên không chấp nhận yêu cầu của anh Hương. Anh Trần Đình Hùng cho rằng vợ chồng anh làm cổng đi trên đất bờ ao có chiều ngang khoảng l,5m, chiều dài 19,7m được chính quyền địa phương cho phép, nên không đồng ý với yêu cầu của anh Hương. Anh Phạm Văn Hưởng khẳng định năm 1986 anh mua nhà của bà Dương Thị Bài là cán bộ Công ty Thương nghiệp huyện Lạng Giang. Bà Bài đã được Ủy ban nhân dân xã cấp đất năm 1979 là 150m2 nên không đồng ý trả đất cho anh Hương. Tại bản án dân sự sơ thẩm số 04/DSST ngày 9-4-1996, Toà án nhân dân tỉnh Hà Bắc (cũ) quyết định: Bác đơn kiện đòi tài sản của anh Hoàng Hữu Hương Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về án phí và tuyên quyền kháng cáo của các đương sự. Sau khi xét xử sơ thẩm tại Quyết định kháng nghị số 503/DS ngày 19-4-1996, Viện trường Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Bắc kháng nghị bản án dân sự sơ thẩm số 04/DSST ngày 9-4-1996 theo thủ tục phúc thẩm, đề nghị Tòa án nhân dân tối cao xét xử phúc thẩm theo hướng chấp nhận hợp đồng thỏa thuận giữa hai bên. Ngày 11-4-1996, anh Hoàng Hữu Hương kháng cáo không nhất trí bản án sơ thẩm. Ngày 19-4-1996, đại diện Ủy ban nhân dân huyện Lạng Giang kháng cáo yêu cầu Tòa án phúc thẩm buộc anh Hương phải chịu án phí vì yêu cầu anh Hương không được chấp nhận; làm rõ gia đình anh Hương kiện đòi những gì, vị trí đến đâu, giá trị bao nhiêu, ai đang quản lý sử dụng tài sản đó; Quyết định số 11/QĐ-UB ngày 4-2-1994, Ủy ban nhân dân huyện Lạng Giang đã bác đơn khiếu nại đòi đất của anh Hương vì không đủ cơ sở giải quyết. Tại Bản dân sự phúc thẩm số 16 ngày 13-12-1996, Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội quyết định: Huỷ bản án sơ thẩm sổ 04/DSST ngày 9-4-1996 của Tòa án nhân dân tỉnh Hà Bắc; giao hồ sơ về cho cấp sơ thẩm điều tra xét xử lại từ giai đoạn sơ thẩm. Tại bản án dân sự sơ thẩm số 04/DSST ngày 30-11-2000, Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang quyết định: Bác đơn khởi kiện của anh Hương Ngày l-12-2000, anh Hương kháng cáo bản án sơ thẩm. Tại Quyết định số 1993/QĐKN ngày 11-12-2000, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Giang kháng nghị bản án sơ thẩm nêu trên, đề nghị Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội xét xử phúc thẩm trả lại đất cho anh Hương. Tại bản án dân sự phúc thẩm số 92/DSPT ngày 06-7-2004, Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội nhận định: Huỷ bản án dân sự sơ thẩm số 04/DSST ngày 30-11-2000 của Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang, giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang xét xử sơ thẩm lại Tại bản án dân sự sơ thẩm số 03/DSST ngày 18-5-2006, Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang quyết định: Xác nhận 148,5m2 đất Ủy ban nhân dân huyện Lạng Giang nhận bàn giao của Liên hiệp Thương nghiệp tỉnh Hà Bắc (cũ) thuộc quyền sử dụng của anh Hoàng Hữu Hương. Giao cho Ủy ban nhân dân huyện Lạng Giang quyền sử dụng 148,5m2 đất trên đây. Nhưng Ủy ban nhân dân huyện Lạng Giang phải thanh toán cho anh Hương 222.750. 000 đồng giá trị lô đất đó. Anh Hương có quyền sở hữu 222.750.000 đồng do Ủy ban nhân dân huyện Lạng Giang thanh toán. Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về án phí, nghĩa vụ do chậm thi hành án và tuyên quyền kháng cáo của các đương sự. Ngày 26-5-2006 và ngày 29-5-2006, anh Hoàng Hữu Hương kháng cáo bản án sơ thẩm với các nội dung sau: Phần nhà trên diện tích 78m2 theo Biên bản thỏa thuận ngày 24 - 4 - 1973 gia đình anh nhượng bán cho Cửa hàng để Cửa hàng cho gia đình anh được mua nguyên vật liệu giá Nhà nước, nhưng gia đình anh chưa được mua nguyên vật liệu nên đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm buộc Ủy ban nhân dân huyện Lạng Giang thanh toán cho anh diện tích 78m2 đất của nhà 4 gian và sân gạch đã bán. Do Ủy ban nhân dân huyện Lạng Giang đã cấp sổ đỏ trái pháp luật cho anh Nguyễn Thanh Cao 81m2, anh Phạm Văn Hưởng 118,6m2 nên Ủy ban nhân dân phải thanh toán trả anh bằng tiền đối với diện tích đất trên. Đề nghị Tòa án buộc Ủy ban nhân dân huyện phải trả cho gia đình anh diện tích đất do các hộ đang sử dụng gồm : - Anh Nguyễn Hồng Giang : 65,1m2 - Anh Trịnh Văn Phước : 63 ,3m2 - Anh Trần Đức Hùng : 30m2 - Anh Nguyễn Thanh Cao : 81m2 - Anh Phạm Văn Hưởng : 118,6m2 - Ủy ban nhân dân huyện Lạng Giang: 188,9m2 - Tổng cộng là : 546,9m2 Nếu thanh toán bằng tiền thì anh yêu cầu áp giá 3.000.000 đồng/1m2. Ngày 24-5-2006, đại diện Ủy ban nhân dân huyện Lạng Giang kháng cáo cho rằng: Theo kết luận giám định và lời khai thì anh Tăng thừa nhận chữ viết và chữ ký trong Biên bản thỏa thuận mua bán nhà và dùng nhờ đất không phải của anh; ông Vĩnh không có thẩm quyền ký Biên bản thỏa thuận; Biên bản thỏa thuận có dấu hiệu bị làm giả; anh Tăng không xuất trình được bản gốc Biên bản thỏa thuận nên không có việc Cửa hàng mượn đất. Giấy chuyển nhượng đất giữa ông Thành và anh Tăng không nêu diện tích, không có vị trí, ranh giới; Bản án dân sự số 07/DSST ngày 12-6-1991 đã giải quyết về diện tích đất mà anh Tăng mua của ông Thành; không có căn cứ xác định 148,5m2 đất Liên hiệp Công ty Thương nghiệp Hà Bắc bàn giao cho Ủy ban nhân dân huyện là đất mượn của anh Tăng. Việc anh Hương kiện đòi đất nhưng không nêu diện tích cụ thể, lời khai trước sau không thống nhất; Biên bản thỏa thuận có hai nội dung là phần nhượng bán và phần cho mượn nhưng Tòa án không làm rõ hai phần này gồm những gì, diện tích, giá trị bao nhiêu; phần anh Hương được trả năm 1991 có nằm trong diện tích kiện đòi không; tình trạng tài sản trên đất hiện nay gồm những gì, ai đang sử dụng nhưng vẫn giải quyết là không đủ căn cứ. Tòa án không buộc anh Hương phải chịu án phí đối với phần yêu cầu bị bác là không đúng. Ủy ban nhân dân huyện không phải là bị đơn nhưng Tòa án lại xác định Ủy ban nhân dân huyện là bị đơn trong vụ án là không đúng. Tại bản án dân sự phúc thẩm số 50/2007/DSPT ngày 03 - 4 - 2007, Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội quyết định sữa một phần án sơ thẩm như sau: Xác định 148,5m2 đất trên thừa đất số 1427, bản đồ năm 1978 của xã Yên Sơn cũ huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang do Liên hiệp Công ty Thương nghiệp tỉnh Hà Bắc bàn giao cho Ủy ban nhân dân huyện Lạng Giang thuộc quyền sử dụng của anh Hoàng Hữu Hương. Ủy ban nhân dân huyện Lạng Giang tiếp tục quản lý đất này nhưng phải trả anh Hương 297. 000. 000 đồng. Ngoài ra, Tòa án cấp phúc thẩm còn quyết định về án phí nghĩa vụ do chậm thi hành án. Sau khi xét xử phúc thẩm, Ủy ban nhân dân huyện Lạng Giang khiếu nại cho rằng: Tại Kết luận giám định số 1487/C21(P6) ngày 27-6-2007, Viện Khoa học hình sự khẳng định dấu đóng ở Biên bản thỏa thuận mua bán nhà và dùng nhờ đất là dấu giả; chữ ký và chữ viết trong biên bản không phải của anh Tăng; ông Cơ (người chứng thực vào Biên bản thỏa thuận) lúc đó không phải là Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã Yên Mỹ; ông Vĩnh không có thẩm quyền ký Biên bản thỏa thuận nên đây là văn bản giả. Anh Hương sử dụng văn bản giả nhưng lại khai mất bản gốc. Đất mà nguyên đơn kiện đòi không rõ ràng về ranh giới, diện tích nhưng Tòa án lại căn cứ vào tài liệu giả nêu trên và lời khai của anh Hương để công nhận anh Hương có quyền sử dụng đất, từ đó buộc Ủy ban nhân dân huyện trả giá trị quyền sử dụng đất cho anh Hương là không đúng vì bản án dân sự số 07/DSST ngày 12-6-1991 đã giải quyết xong diện tích đất mà anh Tăng mua của ông Thành Tại quyết định số 203/2010/KN-DS ngày 31-3-2010, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao kháng nghị bản án dân sự phúc thẩm nêu trên, đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm hủy Bản án dân sự phúc thẩm nêu trên và Bản án dân sự sơ thẩm số 03/2006/DSST ngày 18-5-2006 của Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang xét xử sơ thẩm lại theo đúng qui định của pháp luật. Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao chấp nhận kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao; hủy bản án phúc thẩm và bản án sơ thẩm giao hồ sơ vụ án choTòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang giải quyết lại sơ thẩm theo đúng quy định của pháp luật. XÉT THẤY: Anh Hương cho rằng nguồn gốc đất tranh chấp là một phần trong diện tích đất mà gia đình anh mua của ông Nguyễn Văn Thành năm 1968. Ngày 24-4-1973, anh Hoàng Hữu Tăng (là anh trai của anh) ký “Biên bản thỏa thuận mua bán nhà và dùng nhờ đất" với đại diện Cửa hàng ăn uống Vôi, huyện Lạng Giang, tỉnh Hà Bắc (cũ) có nội dung: gia đình anh bán 4 gian nhà lợp ngói và sân gạch trên diện tích 78m2 đất; phần đất còn lại trên đó có công trình phụ, giếng ao, vườn cho Cửa hàng ăn uống Vôi mượn, khi nào gia đình sử dụng thì Cửa hàng trả. Sau khi mua và mượn đất, Cửa hàng ăn uống Vôi sử dụng để kinh doanh và cho một số hộ ở trên đất. Ngày 15-9-1991, anh yêu cầu Cửa hàng ăn uống Vôi trả lại diện tích đất đã mượn. Tuy nhiên, thục hiện Quyết định của Ủy ban nhân dân tỉnh Hà Bắc vê việc sắp xếp lại các đơn vị kinh tế quốc doanh thì Liên hiệp Công ty Thương nghiệp tỉnh Hà Bắc (cũ) là cơ quan quản lý trực tiếp và nhận bàn giao tài sản của Công ty Thương nghiệp Tổng hợp huyện Lạng Giang (trong đó có tài sản của Cửa hàng ăn uống Vôi) nên trước khi khởi kiện tại Tòa án thì anh Hương đã có đơn gửi Liên hiệp Thương nghiệp và Ủy ban nhân dân tỉnh Hà Bắc (cũ) yêu cầu trả lại nhà đất mà Cửa hàng ăn uống Vôi đã mựợn cho gia đình anh. Tại Công văn số 271/LH-TN ngày 27-01-1992, Liên hiệp Thương nghiệp tỉnh Hà Bắc (cũ) đã đề nghị Ủy ban nhân dân tỉnh chấp thuận để Liên hiệp Công ty Thương nghiệp giao toàn bộ lô đất và tài sản của Cửa hàng bán kem phở ở phố Vôi cho Ủy ban nhân dân huyện Lạng Giang xem xét giải quyết trong đó xác định trên diện tích đất do Liên hiệp Thương nghiệp Hà Bắc quản lý (có tranh chấp) có hai hộ đang sử dụng một phần đất có tranh chấp. Tại Công văn số 79/HC-UB ngày 18-02-1992, Ủy ban nhân dân tỉnh Hà Bắc (cũ) yêu cầu Liên hiệp Công ty Thương nghiệp tiến hành bàn giao toàn bộ lô đất và tài sản trên đất của Cửa hàng bán kem, phở cho Ủy ban nhân dân huyện Lạng Giang theo nội dung Công văn 271/LH-TN ngày 27-1-1992 gửi Liên hiệp Công ty Thương nghiệp tỉnh Hà Bắc (cũ); Ủy ban nhân dân huyện Lạng Giang có trách nhiệm xem xét và giải quyết đơn đề nghị của anh Hương theo thẩm quyền. Tại Biên bản làm việc ngày 26-7-1992, Liên hiệp Thương nghiệp Hà Bắc bàn giao khu đất có diện tích 148,5m2 cạnh khu nhà bán kem Vôi cho Ủy ban nhân dân huyện Lạng Giang để giải quyết khiếu nại của anh Tăng. Thực hiện yêu cầu tại Công văn số 79/HC-UB ngày 18-2-1992 nêu trên của Ủy ban nhân dân tỉnh, tại Quyết định số 11/QĐ-UB ngày 4-2-1994, Ủy ban nhân dân huyện Lạng Giang đã giải quyết khiếu nại và bác đơn khiếu nại của anh Hương về việc đòi lại đất tại phố Vôi, xã Yên Mỹ vì anh Hương không xuất trình được những chứng từ gốc có giá trị pháp lý để làm cơ sở giải quyết; giao cho Phòng Nông nghiệp - TTCN, phòng Giao thông - XD quản lý và sử dụng đúng mục đích. Như vậy, việc đòi nhà, đất tại phố Vôi của gia đình anh Hương đã được giải quyết bằng Quyết định số 11/QĐ-UB ngày 4-2-1994 của Ủy ban nhân dân huyện, cho đến nay Quyết định nêu trên vẫn có hiệu lực và không bị hủy bỏ. Lẽ ra, trước khi giải quyết yêu cầu của anh Hương thì Tòa án phải trao đổi với Ủy ban nhân dân huyện Lạng Giang về Quyết định nêu trên. Trường hợp Ủy ban nhân dân huyện xác định việc giải quyết của Ủy ban nhân dân huyện là đúng thẩm quyền và Quyết định số 11/QĐ-UB nêu trên là đúng pháp luật thì phải hướng dẫn cho anh Hương khiếu nại yêu cầu Ủy ban nhân dân tỉnh giải quyết. Trường hợp Ủy ban nhân dân huyện Lạng Giang xác định việc giải quyết của Ủy ban nhân dân là không đúng thẩm quyền và Ủy ban nhân dân huyện rút hoặc hủy bỏ quyết định hành chính nêu trên thì phải hướng dẫn anh Hương khởi kiện yêu cầu những người đang quản lý sử dụng nhà, đất trả nếu anh Hương có chứng cứ chứng minh. Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm chưa yêu cầu Ủy ban nhân dân huyện Lạng Giang xem xét về Quyết định nêu trên, trong khi đó một số hộ đang quản lý sử dụng diện tích đất có tranh chấp những lại xác định Ủy ban nhân dân huyện Lạng Giang là bị đơn trong vụ án dân sự là không đúng. Mặt khác, theo lời khai của các đương sự thì thực tế chị Mậu, chị Hạnh, chị Nụ, anh Cao, anh Hương, anh Phước, anh Giang và anh Hùng đang quản lý sử dụng một phần đất mà anh Hương yêu câu trả. Đồng thời, theo lời khai của đại diện Công ty Thương nghiệp huyện Lạng Giang thì trên diện tích đất nói trên có một số tài sản của công ty. Khi giải quyết vụ án Tòa án cấp sơ thẩm đưa các anh chị có tên trên tham gia tố tụng nhưng với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là không đúng và không đưa đại diện Liên hiệp Thương nghiệp tỉnh tham gia tố tụng cũng không đúng. Còn Tòa án cấp phúc thẩm không đưa các đương sự trên tham gia tố tụng là vi phạm thủ tục tố tụng. Ngoài ra, anh Hương đòi quyền sử dụng đất và tài sản trên đất vì cho rằng Cửa hàng ăn uống Vôi mượn của gia đình anh. Tuy nhiên trong quá trình giải quyết vụ án anh Hương có lời khai mâu thuẫn về diện tích và không xác định rõ ràng ranh giới, diện tích đất anh khởi kiện đòi. Còn tại "Biên bản thỏa thuận mua bán nhà và dùng nhờ đất" mà anh Hương xuất trình cũng không xác định ranh giới, vị trí đất mà đại diện của Cửa hàng ăn uống Vôi mượn của gia đình anh. Hơn nữa từ năm 1990 anh Hương đã khởi kiện đòi nhà đất và tại bản án dân sự sơ thẩm số 07/DS-ST ngày 12-6-1991, Tòa án nhân dân tỉnh Hà Bắc đã giải quyết yêu cầu của anh Hương. Lẽ ra, phải xác minh làm rõ yêu cầu cụ thể của anh Hưong xem xét quyết định tại bản án dân sự số 07/DS-ST ngày 12-6-1991 của Tòa án nhân dân tỉnh Hà Bắc (cũ). Trường hợp có căn cứ xác định ngoài phần nhà, đất mà Tòa án đã giải quyết cho anh Hương theo bản án nêu trên nhưng anh Hương vẫn có quyền sử dụng đối với phần đất khác thì chỉ giải quyết đối với phần tài sản mà Tòa án chưa giải quyết mới đúng. Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm chưa xác minh các vấn đề nêu trên mà chỉ căn cứ vào sơ đồ hiện trạng khu đất bàn giao giữa Liên hiệp Công ty Thương nghiệp tỉnh Hà Bắc (cũ) với Ủy ban nhân dân huyện Lạng Giang và Biên bản làm việc giữa đại diện hai cơ quan trên để xác định anh Hương vẫn còn quyền sử dụng 148,5m2 đất. Từ đó giao cho Ủy ban nhân dân huyện Lạng Giang sử dụng và buộc Ủy ban nhân dân huyện Lạng Giang thanh toán giá trị cho anh Hương là không có căn cứ và không đúng pháp luật. Vì các lẽ trên, Căn cứ khoản 3 Điều 297, Điều 299 Bộ luật tố tụng dân sự, QUYẾT ĐỊNH: 1. Huỷ bản án dân sự phúc thẩm số 50/2007/DSPT ngày 3-4-2007 của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại Hà Nội và bản án dân sự sơ thẩm số 03/DSST ngày 18-5-2006 của Toà án nhân dân tỉnh Bắc Giang về vụ án đòi nhà đất giữa nguyên đơn là anh Hoàng Hữu Hương với bị đơn là Ủy ban nhân dân huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang. 2. Giao hồ sơ vụ án cho Toà án nhân dân tỉnh Bắc Giang giải quyết lại theo đúng quy định của pháp luật.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét