Thứ Tư, 5 tháng 9, 2012

BÀI TẬP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ 9-2012

ĐÁNH GIÁ CHỨNG CỨ Năm 2004, bà H. nộp đơn kiện đòi ông bà L. trả gần 90 m2 đất ở quận 8, TP.HCM. Bấy giờ, phía bị đơn cho rằng vào năm 2000, nguyên đơn đã lăn tay vào “bản cam kết ưng thuận” và “bản xác nhận tái sử dụng đất” (có xác nhận của UBND phường) để đồng ý cho họ được sử dụng và hợp thức hóa phần đất trên. Phản đối, nguyên đơn bảo mình không lăn tay vào giấy tờ nào cả. Năm 1988, bà chỉ cho bị đơn cất một căn chòi nhỏ để ở trên 20 m2 đất. Sau đó, bị đơn đã dần dần lấn thêm và mở rộng diện tích lên gần 90 m2, lại còn tự ý đi hợp thức hóa nhà. Do bà H. phủ nhận dấu vân tay nên để giải quyết vụ án, TAND quận 8 đã quyết định trưng cầu giám định dấu vân tay trong hai văn bản này. Tháng 11-2004, Phân viện Khoa học hình sự - Bộ Công an kết luận điểm chỉ trong hai văn bản này “bị mờ nhòe, không xác định được dạng chung nên không đủ yếu tố giám định”. TAND quận 8 quyết định trưng cầu giám định lại. Tháng 7-2005, Viện Khoa học hình sự - Bộ Công an khẳng định không thể giám định lại. Bởi các mẫu vân tay dùng để so sánh in mờ nhòe, tờ khai chứng minh nhân dân đứng tên bà H. chỉ in vân ngón trỏ phải và trỏ trái. Trong khi đó, hai dấu vân tay điểm chỉ cần giám định lại không ghi rõ vân ngón nào. Cuối năm 2007, TAND quận 8 mở phiên xử sơ thẩm vụ án và tuyên bác yêu cầu đòi đất của nguyên đơn Tháng 5-2008, TAND TP.HCM mở phiên xử phúc thẩm và sửa án sơ thẩm. Cấp phúc thẩm buộc bị đơn giao trả cho nguyên đơn gần 70 m2 đất. Do bị đơn đã xây nhà trên phần đất tranh chấp và được hợp thức hóa chủ quyền nên bị đơn phải thanh toán cho nguyên đơn hơn 400 triệu đồng. tháng 5-2009, viện trưởng VKSND tối cao đã quyết định kháng nghị bản án phúc thẩm nói trên của TAND TP.HCM đề nghị hủy bản án phúc thẩm, giữ nguyên bản án sơ thẩm. CÓ ĐƯỢC LY HÔN KHÔNG? Ông P. kể rằng vợ chồng ông kết hôn năm 1987. Ba năm sau thì có một bé gái. Tuy nhiên, một năm sau nữa, vợ ông bỏ nhà đi… 12 năm trước, ông cũng đã nộp đơn ra tòa này xin ly hôn vì vợ bị bệnh bởi bà hay nói ông lăng nhăng. Rồi bà từng một lần tự tử, phá phách, chửi bới ông, đánh con trước mặt lối xóm... Ông không thể chung sống vì nếu sống chung sẽ sinh ra những người con không bình thường. Tuy nhiên, vợ ông lại phản bác cho là mình rất bình thường, không mắc bệnh gì cả. Bà vẫn rất yêu thương chồng con… Bà nhấn mạnh thêm rằng từng bị sốc khi biết ông không chung thủy, phụ bạc. Gia đình có đưa bà đi khám vì bà bị bệnh về nhân cách, không có bệnh về tâm thần. Sau khi nghe hai bên trình bày, cuối cùng tòa quyết không chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của ông P. vì bà vợ chỉ bị sốc về tình cảm dẫn đến ảnh hưởng tinh thần chứ không phải mắc bệnh tâm thần như ông nại ra. Giờ đây, để chuyện ly hôn có kết quả, ông làm đơn yêu cầu tòa tuyên bố bà mất năng lực hành vi dân sự. Bởi nếu ông không làm được thủ tục này thì không có cách nào khác để ly hôn. tòa đã mời vợ ông P. cùng gia đình bà này đến để phối hợp giải quyết nhưng hết người này đến người khác đều không xuất hiện. Trong khi luật thì cũng không quy định tòa được cưỡng chế họ khi họ không hợp tác nên vụ án đành phải… treo. ĐÁNH GIÁ CHỨNG CỨ Vợ chồng ông Nguyễn Văn Bé Tư (quận 2, TP.HCM) bán một lô đất cho Công ty Đức Minh. Hai bên cam kết bên bán có trách nhiệm đảm bảo tính pháp lý của lô đất cho bên mua. Sau đó, bên mua đã giao tiền như hợp đồng. Bên bán cũng đã tiến hành làm thủ tục chuyển nhượng, cắm mốc giao đất cho bên mua. Năm 2002, bên mua xin UBND TP.HCM chuyển dự án đầu tư nhà trên khu đất này từ bên bán cho bên mua và được chấp thuận. Đồng thời, ủy ban yêu cầu các đương sự phải có nghĩa vụ bồi thường cho nhà nước một số diện tích đất kênh rạch trong phần đất chuyển nhượng. Việc này đã phát sinh tranh chấp. Bên bán bảo rằng mình đã hoàn tất thủ tục chuyển nhượng, đã giao đất nên phần bồi thường từ việc chuyển dự án đầu tư này bên mua phải chịu trách nhiệm. Tuy nhiên, bên mua lại bảo trong hợp đồng, bên bán cam kết đảm bảo các thủ tục pháp lý về lô đất do vậy phần tiền trên bên bán phải bồi thường. Không ai chịu ai, cả hai đã kéo nhau ra tòa. Xử sơ thẩm, TAND quận 2 đã chấp nhận yêu cầu của bên mua, buộc bên bán phải có trách nhiệm bồi thường tiền đất kênh rạch cho nhà nước. Sau đó, xử phúc thẩm, TAND TP.HCM đã y án sơ thẩm. Hai bản án trên đã bị viện trưởng VKSND Tối cao kháng nghị giám đốc thẩm đề nghị hủy để xử lại. Theo kháng nghị, hợp đồng giữa hai bên không thỏa thuận khoản tiền đóng cho nhà nước để thay đổi mục đích sử dụng đất. Do vậy, trách nhiệm đóng phải là của bên mua. Hai cấp tòa buộc bên bán phải gánh chịu là không có căn cứ. Xử giám đốc thẩm, Tòa Dân sự (TAND Tối cao) nhận định quyết định kháng nghị của viện trưởng VKSND Tối cao là có căn cứ chấp nhận bởi khi ký hợp đồng, các bên không thỏa thuận trách nhiệm của bên bán phải chịu các chi phí phát sinh sau khi ký kết hợp đồng cũng như chi phí chuyển đổi mục đích sử dụng đất. Do vậy, tòa hủy hai bản án sơ, phúc thẩm, giao về cấp sơ thẩm xử lại. Tuy nhiên, xử sơ thẩm lần hai mới đây, TAND quận 2 vẫn giữ nguyên quan điểm như đã xử lần một, vẫn buộc bên bán phải chịu trách nhiệm bồi thường. Ngay sau đó, bên bán đã kháng cáo. Bên này cho rằng quyết định giám đốc thẩm đã định hướng xử lý vụ việc chính xác, tòa cấp sơ thẩm không theo định hướng trên khiến cho vụ việc phán quyết không thống nhất là có sai sót… Vào một đêm đẹp trời, cô Holly Marie Adams (gọi tắt là Adams) cùng một nhóm bạn gái đi xem cuộc biểu diễn của các chàng cao bồi tại thành phố Sikeston. Sau khi chán chê cuộc vui, Adams ghé vào nhà của hai chàng trai trẻ Raymon và Richard Miller mặc dù không có hò hẹn trước. Trong đêm lưu lại nhà của gia đình Miller, Adams đã quan hệ tình dục với Raymon. Vài giờ sau, cô lại quan hệ với Richard. Sau đêm chăn gối cuồng nhiệt đó, Adams mang thai và sinh ra một bé gái. Hai anh em sinh đôi Raymon (phải) và Richard Miller Một mình nuôi con tốn kém và vất vả, Adams muốn cha của đứa bé chia sẻ gánh nặng với mình. Cô nhất quyết trong hai anh em, Raymon chính là cha của đứa bé. Raymon không chấp nhận. Anh cho rằng người anh em song sinh Richard cũng có thể là cha của đứa bé vì cũng có quan hệ tình dục với Adams. Raymon đòi thử ADN cả hai anh em để xác định ai đích thực là cha của đứa bé. Kết quả thử ADN cho thấy cả Richard lẫn Raymon đều có khả năng là cha ruột của đứa bé tới 99,9%. Kết quả này không lạ vì hai người là anh em song sinh cùng trứng. Tranh chấp căn hộ The Manor Ngày 19-4-2010, TAND quận Bình Thạnh (TP.HCM) một lần nữa mở phiên tòa xét xử vụ tranh chấp căn hộ The Manor giữa chủ đầu tư là Công ty TNHH sản xuất kinh doanh xuất nhập khẩu Bình Minh (Bitexco) với khách hàng Nguyễn Thị Bình. Phiên tòa sơ thẩm lần thứ nhất đã được TAND quận Bình Thạnh mở vào tháng 2-2008 với phán quyết phần thắng thuộc về Bitexco. Lúc bà Bình ký hợp đồng mua căn hộ, giá trị căn hộ là 167.000 USD. Tại thời điểm tranh chấp, căn hộ đã có giá khoảng 260.000 USD (tương đương hơn 4,4 tỉ đồng) nhưng bản án sơ thẩm tuyên cho Bitexco được nhận lại căn hộ và chỉ phải trả lại khoản tiền mà bà Bình đã trả cho công ty là hơn 2,5 tỉ đồng (kể cả lãi). Bà Bình kháng cáo. Ngày 24-6-2008, TAND TP.HCM đã tuyên hủy toàn bộ bản án, giao hồ sơ về TAND quận Bình Thạnh để xét xử lại từ đầu, với lý do vụ án có nhiều vi phạm tố tụng nghiêm trọng. Tại phiên sơ thẩm lần thứ hai ngày 19-4-2010, khách hàng Nguyễn Thị Bình cho biết bà ký hợp đồng mua căn hộ (số AE-305) với giá 167.000 USD. Ngoài hợp đồng mua bán căn hộ giữa hai bên, Bitexco và bà còn ký với Ngân hàng Ngoại thương chi nhánh TP.HCM một thỏa thuận ba bên để vay vốn mua căn hộ. Phía ngân hàng sẽ cho bà Bình vay 50% trị giá căn hộ trong thời gian 10 năm, khi nào có giấy chủ quyền nhà thì bà Bình sẽ thế chấp cho ngân hàng. Tháng 11-2006 bà Bình được Bitexco bàn giao căn hộ. Tuy nhiên, chỉ sau khi nhận nhà vài tháng, bà Bình bức xúc vì nhiều hạng mục nội thất của căn hộ kém chất lượng. Đỉnh điểm là vào khoảng tháng 5-2007, nhà vệ sinh của căn hộ AE-305 nhiều lần bị chất thải trào ngược lên rất hôi thối, mất vệ sinh. Khi bà Bình khiếu nại, đại diện Bitexco hứa sẽ sửa chữa và còn cam kết có thể đổi căn hộ khác cho bà. Tuy nhiên, việc sửa chữa sau đó không đạt chất lượng, đề nghị được đổi căn hộ khác của bà Bình cũng không được chấp thuận nên hai bên đã xảy ra mâu thuẫn gay gắt. Mấu chốt của vụ án là việc xác định khách hàng Nguyễn Thị Bình có vi phạm nghĩa vụ thanh toán theo hợp đồng hay không đã được các bên tranh luận gay gắt. Tại phiên tòa, đại diện Bitexco nói dù công ty đã nhiều lần gửi thư nhắc nợ nhưng bà Bình vẫn không thanh toán nốt khoản nợ 15.000 USD nên Bitexco có quyền đơn phương hủy hợp đồng. Còn theo luật sư Nguyễn Văn Trung - người bảo vệ quyền lợi cho bà Nguyễn Thị Bình - thì ngược lại. Theo thỏa thuận ba bên giữa Bitexco, bà Bình và ngân hàng, bà Bình phải thanh toán đủ 50% trị giá hợp đồng thì ngân hàng sẽ cho vay tiếp 50%. Mà Bitexco đã có văn bản xác nhận bà Bình thanh toán đủ 50% trị giá hợp đồng nên bà Bình được ngân hàng cho vay 50% trị giá căn hộ để trả cho Bitexco thì có nghĩa bà Bình đã thanh toán đủ 100% trị giá hợp đồng. Tại phiên tòa, khách hàng Nguyễn Thị Bình cũng đề nghị Bitexco bồi thường cho bà khoản tiền mà gia đình bà phải bỏ ra thuê nhà để ở trong suốt hơn hai năm tranh chấp. Đại diện Bitexco không đồng ý vì cho rằng khi lấy lại căn hộ AE-305 để sửa chữa đã bố trí cho gia đình bà Bình một căn hộ trong tòa nhà để ở tạm nhưng bà Bình không ở mà tự ra ngoài thuê. Trong khi đó, bà Bình cho biết: đúng là công ty có bố trí căn hộ B502 để gia đình bà ở nhưng tháng 11-2007, The Manor đưa vào sử dụng hệ thống thẻ từ để kiểm soát việc ra vào tòa nhà. Gia đình bà không được cấp thẻ nên cứ phải đứng canh, nhờ thẻ của người khác để ra vào nhà mình. Chính vì vậy, bà đành trả lại căn hộ B502 để đi thuê chỗ khác. Bà Bình đã đề nghị tòa tuyên buộc Bitexco phải tiếp tục thực hiện hợp đồng, trường hợp tòa tuyên hủy hợp đồng thì Bitexco phải trả lại cho bà khoản tiền theo trị giá căn hộ thời điểm hiện nay, khoảng 272.000 USD (tương đương hơn 5 tỉ đồng, theo kết quả định giá mà tòa trưng cầu). Bà Bình cũng đề nghị tòa buộc Bitexco bồi thường khoản tiền gia đình bà phải bỏ ra thuê nhà để ở tổng cộng hơn 22.000 USD. GIÁM HỘ Cha mẹ chị Thủy chỉ có chị là người con duy nhất. Người thân thích của chị Thủy cũng không còn ai. Khi lấy chồng, chị Thủy dọn ra ở riêng. Cha mẹ chị tiếp tục ở căn nhà mua hóa giá của nhà nước tại phường 15. Cả hai đều lớn tuổi, bệnh nặng và bị lú lẫn, không thể tự chăm sóc bản thân. Vậy là chị Thủy phải trở về nhà để chăm nom. Do hoàn cảnh khó khăn, chạy xe ôm không có nhiều tiền nên chị Thủy phải vay mượn khắp nơi để trang trải cuộc sống. Trước bệnh tình của cha mẹ, chị Thủy đã đến TAND quận 10 xin tuyên cả hai cụ mất năng lực hành vi dân sự. Tháng 7-2008, TAND quận 10 có phán quyết chấp nhận yêu cầu của chị Thủy. Chị Thủy cũng đã làm thủ tục để được công nhận là người giám hộ của cha mẹ mình. Tháng 3-2009, mẹ chị Thủy qua đời, không để lại di chúc. Sau khi làm thủ tục khai nhận di sản thừa kế, chị Thủy và cha đồng đứng tên trên giấy hồng. Phần của người cha có ghi chú chị Thủy là người giám hộ. Muốn trả hết nợ và tìm mua một nơi ở khác cho cả gia đình và chữa bệnh cho cha, chị Thủy quyết định bán nhà. Tìm được người mua, chị Thủy đến Phòng Công chứng số 4 để chứng nhận hợp đồng mua bán nhưng nơi này từ chối chứng nhận. Theo chỉ dẫn, chị Thủy đã làm tờ cam kết (được UBND phường chứng thực) với nội dung việc chị bán nhà và sử dụng số tiền phải đảm bảo quyền lợi cho người cha. Nhưng sau đó Phòng Công chứng số 4 lại yêu cầu UBND phường 15 phải cử người giám sát chị Thủy. UBND phường 15 lại không giải quyết. UBND phường 15 không giải quyết đúng hay sai? BẢO HÀNH THEO LUẬT HAY THEO HỢP ĐỒNG Mới đây, Công ty TNHH Thương mại Đất Phương Nam, chủ đầu tư tòa nhà, thông báo hết thời hạn bảo hành nhà vào ngày 30-4-2008. Những hư hỏng sau đó của các căn hộ sẽ do chủ sở hữu tự bỏ chi phí để sửa chữa. Tại buổi họp giữa hai bên sáng 18-1, ông Hoàng Nghĩa Long (phòng 1, lầu 6, lô B) cho biết nhiều thiết bị trong tòa nhà đã bị hư hỏng nhưng chưa được sửa chữa. Tường bị thấm nước, sơn tường tróc loang lổ, một số căn hộ hễ xả nước nhiều thì hệ thống thoát nước nghẹt ứ. “Phải kéo dài thời gian bảo hành tòa nhà để sửa chữa những hư hỏng trên. Chúng tôi mua nhà cao cấp mà phải chịu những hiện tượng như thế là không được” - ông Long nói. Nhiều người dân yêu cầu công ty phải bảo hành tòa nhà trong 60 tháng theo Luật Nhà ở dành cho cao ốc cao trên chín tầng. Ông Trần Mạnh Hùng, Giám đốc Công ty Đất Phương Nam, giải thích thời điểm Luật Nhà ở có hiệu lực (từ ngày 1-7-2006) thì công ty ông đã xây dựng gần xong tòa nhà. Nhà thầu xây dựng và các công ty cung cấp thiết bị không đồng ý kéo dài thời hạn bảo hành công trình. Nếu như vậy, họ phải mua bảo hiểm công trình và thiết bị, chi phí kết cấu, xây dựng thiết bị điện cơ sẽ đội lên. Đến thời điểm Luật Nhà ở có hiệu lực, công ty đã ký hợp đồng bán nhà cho hơn 100 khách hàng. Những hợp đồng ký sau ngày 1-7-2006, công ty cũng thống nhất giữ lại điều khoản này. “Khách hàng ký hợp đồng thì phải tuân theo quy định của hợp đồng chứ không thể khác được” - ông Hùng khẳng định. Người dân cho rằng những thiết bị điện gia dụng, nước, đồ gỗ... thì có thể bảo hành trong 24 tháng như hợp đồng. Còn những hạng mục khác như hệ thống điện, nước, kết cấu tòa nhà phải được bảo hành 60 tháng. Tuy nhiên, ông Hùng cho rằng công ty chỉ bảo hành phần kết cấu của tòa nhà tức là cột, đà nhà chứ không phải là tất cả thiết bị, hệ thống liên quan đến căn hộ. “Hợp đồng ghi bảo hành trong 24 tháng nhưng những kết cấu căn nhà như hệ thống chịu lực, đà, tường... thì công ty sẽ bảo đảm cho chủ nhà từ 50 đến 100 năm chứ không phải năm hay 10 năm” - ông Hùng nói. Theo Điều 74 Luật Nhà ở, nội dung bảo hành nhà ở bao gồm khắc phục, sửa chữa, thay thế kết cấu nhà ở, thiết bị hư hỏng, khiếm khuyết hoặc khi vận hành sử dụng không bình thường không phải do lỗi của người sử dụng nhà gây ra. Còn chuyện thiết bị điện, cơ... kèm theo nhà chung cư trên chín tầng có phải bảo hành 60 tháng hay không thì chưa rõ. THỰC HIỆN BIỆN PHÁP BẢO ĐẢM Năm 2006, bà V. và bà T. hùn tiền đấu thầu được một khu đất tại tỉnh B. Khi bà V. yêu cầu được chia lợi nhuận thì hai bên mâu thuẫn. Bà V. đã kiện bà T. ra tòa đòi trả lại hơn 2,3 tỉ đồng tiền gốc đã bỏ ra mua đất cùng tiền lãi. Trong quá trình tòa giải quyết án, thấy bà T. bán một phần trong tổng diện tích lô đất chung nhằm tẩu tán tài sản, bà V. đã yêu cầu tòa áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời nhằm không cho bà T. chuyển dịch tài sản tiếp. Tòa chấp nhận yêu cầu này và yêu cầu bà V. đóng 420 triệu đồng tiền phí bảo đảm, khoảng 9% giá trị khối tài sản yêu cầu kê biên (4,6 tỉ đồng). Vụ khác, tháng 3-2010, bà L. kiện ông Q. ra tòa vì ông này vay của bà 70 triệu đồng nhưng mãi không trả. Tòa vừa thụ lý, bà L. đã yêu cầu tòa kê biên chiếc xe hơi cũ của ông Q. vì sợ ông sẽ bán để trốn tránh việc trả nợ. Tòa chấp nhận, sau khi xem xét giá trị chiếc xe hơi là khoảng 300 triệu đồng, tòa đã yêu cầu bà L. phải đóng tiền bảo đảm đúng 300 triệu đồng, tức 100% giá trị tài sản yêu cầu kê biên. Tòa nào áp dụng pháp luật đúng? Căng bạt để đòi nợ Một tấm bạt thông báo việc khách hàng (Công ty Dầu nhớt Davina) chây ỳ không chịu thanh toán tiền biển quảng cáo cho một công ty quảng cáo. Tấm bạt này được căng ngay trên panô quảng cáo của Davina và chiếm đến một phần hai tấm panô. Vị trí căng bạt nằm ở đầu dốc cầu Chương Dương chạy xuống Nguyễn Văn Cừ, nằm bên phải đường theo hướng từ Hà Nội sang. Cách đòi nợ như thế có đúng pháp luật không? MỨC BỒI THƯỜNG Tháng 9-2006, bà Dung mua một con chó Phú Quốc hai tháng tuổi. Tháng 3-2008, bà thuê doanh nghiệp của ông K. huấn luyện cho chó với chi phí 1 triệu đồng/tháng. Bà Dung đã đưa trước cho phía ông K. 2 triệu đồng. Bốn tháng sau, bà Dung được ông K. thông báo là chó của bà đã bị mất. Xót con chó cưng, bà khởi kiện ra TAND quận Thủ Đức yêu cầu tòa buộc ông K. bồi thường 100 triệu đồng. Bà Dung liệt kê năm khoản: Tiền mua chó 60 triệu đồng, tiền nuôi chó 27 triệu đồng, chi phí tiêm ngừa 3 triệu đồng, tiền huấn luyện chó 2 triệu đồng, tiền chăm sóc, đưa đón chó 8 triệu đồng. Đầu tháng 7-2010, TAND quận Thủ Đức xử sơ thẩm đã bác yêu cầu đòi bồi thường khoản tiền chăm sóc, đưa đón chó, chỉ chấp nhận bốn khoản còn lại với tổng số tiền buộc phía ông K. phải bồi thường cho bà Dung hơn 6 triệu đồng. Bà Dung kháng cáo. Tại phiên phúc thẩm , bà Dung đã rút số tiền đòi bồi thường xuống còn 30 triệu đồng gồm: Tiền mua chó hơn 14 triệu đồng, tiền nuôi chó gần 11 triệu đồng… Theo tòa phúc thẩm, tòa đã tham khảo giá chó Phú Quốc loại hai tháng tuổi tại một số cơ sở thì có giá khoảng hơn 2 triệu đồng. Còn tiền nuôi chó tòa cũng đã tham khảo và đưa ra giá bình quân là 600.000 đồng/tháng… Tổng cộng, tòa buộc ông K. phải bồi thường 16,8 triệu đồng. Đặc trưng của chó Phú Quốc - Bộ lông sát và ngắn. - Có xoáy trên lưng. - Chân có màng vịt, bơi giỏi. - Lưỡi có màu đen hoặc vài đốm đen kịt. - Trên trán có những nếp nhăn, hai tai dựng thẳng, đuôi cong ngược lên sống lưng kiểu “quắc cần câu”. - Thích săn thú và săn rất giỏi. - Khôn và rất hung dữ nhưng lại rất trung thành với chủ. Ý kiến anh, chị? Đám cưới cô dâu 17, chú rể 14 Anh Hà Ngọc Tính (SN 1978) quyết định kết tình sui gia với anh Nguyễn Văn Lạc (SN 1963, cùng ngụ xã Hưng Điền B, huyện Tân Hưng, Long An). Ai cũng phải giật mình vì tân lang Hà Ngọc Toán (con anh Tính) vừa tròn 14 tuổi kết hôn cùng cô dâu Nguyễn Thị Mỹ Tiên, 17 tuổi. Chỉ riêng về tuổi tác thì “chồng” nhỏ hơn vợ đến 3 tuổi. Theo gia đình anh Tính, việc cưới vợ cho con chưa đủ tuổi là vi phạm pháp luật nhưng anh cũng kết luận một cách khá khôi hài: “Hai đứa thương nhau quá nên cưới, nếu để lâu quá tui sợ...”. Theo tìm hiểu, người dân địa phương cho rằng, anh Tính đã ép buộc con trai mình phải cưới vợ, con không đồng ý anh còn có lời nói thô bạo, thậm chí dùng cả bạo lực. Vì sợ cha, chú rể phải chấp nhận. Đối với cô dâu Mỹ Tiên thì lại lạc quan và yêu đời hơn rất nhiều. Chị Đoàn Thị Thủy, chủ tiệm uốn tóc ở Gò Pháo kể, lúc vào tiệm trang điểm, Mỹ Tiên khoe với mọi người tại đây “em 17 tuổi, còn chồng em 14 nhưng hai đứa yêu nhau dữ lắm, tuổi tác đâu thành vấn đề, cưới sớm có con sớm mau được nhờ”. Ngày 14-3, đám cưới của đôi “uyên ương” chính thức tổ chức với đầy đủ lễ vật. Không chỉ mời khách trong thân tộc, xóm giềng chung xã mà anh Tính còn thuê văn nghệ ca hát tưng bừng. Xử lý thế nào? Cô dâu có phạm tội giao cấu với người chưa thành niên? CÔNG DÂN CHẾT KHI NÀO? Năm 1976, do mâu thuẫn trong gia đình, ông C. bỏ nhà đi. Gia đình tìm kiếm khắp nơi nhưng không có tin tức. 10 năm sau, theo yêu cầu của vợ ông, tòa tuyên bố ông mất tích. Từ đó, ông C. vẫn biệt tăm. Năm 2009, vợ ông yêu cầu TAND quận 11 (TP.HCM) tuyên bố ông đã chết. Tháng 3-2010, căn cứ theo khoản 1 Điều 81 Bộ luật Dân sự, TAND quận 11 tuyên bố ông C. đã chết, ngày chết là ngày 26-9-2009 (ba năm sau ngày tòa tuyên bố ông mất tích). Quyết định này đã bị VKS TP kháng nghị vì cho rằng TAND quận 11 xác định ngày chết của ông C. chưa đúng. Theo VKS, ngày chết của ông C. phải được xác định theo khoản 1 Điều 78 Bộ luật Dân sự. Theo đó, nếu không xác định được ngày có tin tức cuối cùng của ông C. thì thời hạn này được tính từ ngày đầu tiên của tháng tiếp theo có tin tức cuối cùng. Nếu không xác định được ngày tháng có tin tức cuối cùng thì thời hạn này được tính từ ngày đầu tiên của năm tiếp theo năm có tin tức cuối cùng. Theo luồng quan điểm thứ nhất, nếu trường hợp tuyên bố chết thuộc điểm a Khoản 1 (sau ba năm kể từ ngày quyết định tuyên bố mất tích của tòa có hiệu lực pháp luật mà vẫn không có tin tức xác thực là còn sống) thì ngày chết là ngày người đó bị tòa tuyên bố mất tích. Nếu thuộc trường hợp tại điểm b (biệt tích trong chiến tranh sau năm năm kể từ ngày chiến tranh kết thúc mà vẫn không có tin tức xác thực là còn sống) thì ngày chết là ngày kết thúc chiến tranh. Nếu thuộc trường hợp tại điểm c (bị tai nạn hoặc thảm họa, thiên tai mà sau một năm kể từ ngày tai nạn hoặc thảm họa, thiên tai đó chấm dứt vẫn không có tin tức xác thực là còn sống…) thì ngày chết là ngày chấm dứt tai nạn hoặc thảm họa, thiên tai. Nếu thuộc trường hợp tại điểm d (biệt tích năm năm liền trở lên và không có tin tức xác thực là còn sống…) thì ngày chết là ngày người đó biệt tích. ví dụ: Ông A đang phải cấp dưỡng nuôi con thì mất tích. Năm 2005, tòa tuyên bố ông mất tích theo yêu cầu của vợ cũ của ông; giao tài sản của ông cho cha mẹ ông quản lý. Năm 2007, có tranh chấp về việc thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng và tòa buộc cha mẹ ông A sử dụng tiền của ông để cấp dưỡng thay. Năm 2010, khi giải quyết yêu cầu tuyên bố một người đã chết, nếu tòa tuyên bố ông A chết vào năm 2005 thì sẽ mâu thuẫn với bản án tòa buộc cha mẹ ông A cấp dưỡng thay con năm 2007. Bởi lẽ nếu xác định ông A chết vào năm 2005 thì đồng nghĩa với việc nghĩa vụ cấp dưỡng của ông cũng chấm dứt ngay từ lúc đó. ví dụ khác: Theo yêu cầu của người liên quan, năm 2006, tòa tuyên bố ông B mất tích. Năm 2007, vợ ông B xin ly hôn, được tòa chấp nhận. Năm 2010, khi giải quyết yêu cầu tuyên bố ông B đã chết, nếu tòa tuyên ông B chết vào tháng 2-2006 thì sẽ mâu thuẫn với bản án mà tòa cho vợ ông ly hôn năm 2007. Bên cạnh đó, xác định ngày chết là ngày chiến tranh kết thúc cũng không phù hợp. Còn trong tai nạn, thiên tai, thảm họa, không phải ai cũng chết ngay khi chấm dứt thảm họa mà thường là chết sau đó do không được cứu giúp, cứu giúp không được..., nếu xác định ngày chết là thời điểm chấm dứt thảm họa cũng chưa ổn. Bi kịch cưới nhầm trẻ con Bị cáo Thuận (trái) trao đổi với luật sư khi tòa nghị án. 10 năm sau khi lấy vợ, có hai con, bị cáo bỗng bị bắt về tội hiếp dâm trẻ em do cưới nhầm cô dâu mười hai tuổi rưỡi. Thuận làm nghề sửa xe máy thuê, còn N. hằng ngày phụ bán hàng cho người dì ở một cửa hàng bên cạnh (thuộc thị trấn Hòa Thành, Tây Ninh). Từ quê lên thị trấn, thoát cảnh chân lấm tay bùn nên cô bé N. trở nên trắng trẻo, phổng phao, vẻ người lớn. Qua mai mối, họ đã làm quen và thân nhau lúc nào không hay. Hai bên gia đình biết chuyện nên cũng có ý tác hợp cho con trẻ. ngày 25-5-1998, Thuận và N. ra mắt họ hàng, bạn bè bằng một đám cưới long trọng. Về sống chung, đôi lần Thuận ngờ ngợ vợ mình còn ít tuổi. Năm 2008 thì vợ chồng Thuận quyết đường ai nấy đi nên ra tòa ly hôn. Đúng 10 năm sau khi đám cưới, tháng 4-2008, TAND huyện Hòa Thành xét xử và chấp nhận cho Thuận và N. ly hôn. Một tháng sau, khi kiểm sát án sơ thẩm, VKS huyện phát hiện khi Thuận cưới N., cô dâu còn quá nhỏ tuổi nên Thuận có dấu hiệu phạm tội. Nơi đây đã chuyển tin báo tội phạm cho cơ quan điều tra huyện. Sau vài lần được gọi lên lấy lời khai, ngày 30-10-2008, Thuận bị bắt giam về tội hiếp dâm trẻ em do đã “quan hệ” với người mới mười hai tuổi rưỡi. Sau đó, hồ sơ được chuyển qua viện và tòa. Tháng 3-2009, TAND tỉnh Tây Ninh đưa vụ án ra xử sơ thẩm. Tại phiên xử, Thuận thừa nhận hành vi phạm tội như cáo trạng đã truy tố. N. cũng làm đơn xin bãi nại cho Thuận. Phía tòa nhận định, Thuận đã thực hiện hành vi phạm tội. Mặc dù giữa Thuận và N. tự nguyện tìm hiểu yêu thương, tự nguyện giao cấu và đã có hai con chung nhưng hành vi của Thuận là đặc biệt nguy hiểm cho xã hội. Tuy nhiên, Thuận đã ăn năn hối cải, thành khẩn khai báo, do đó tòa phạt Thuận tám năm tù về tội hiếp dâm trẻ em. Tòa án giải quyết như vậy là đúng hay sai? VAY TIỀN HAY TẶNG CHO? Anh Việt kiều đưa tiền cho bạn gái mua đất, xây nhà rồi kiện bạn phải trả lại tiền. Theo ông T. (Việt kiều Mỹ), sau khi quen biết một thời gian, ông đã cho bà Tr. mượn tiền để mua đất, xây nhà. Bà Tr. cam kết sẽ trả lại cho ông số tiền đã mượn. Nghĩ rằng nơi thân tình, ông không lập giấy tờ gì. Tuy nhiên, do chuyển tiền qua hệ thống ngân hàng nên ông có các giấy tờ liên quan cho thấy có việc giao nhận tiền giữa hai bên. Đồng thời sau khi mua nhà đất, bà đã đưa giấy tờ nhà đất cho ông giữ. Thời gian gần đây, ông đã đòi lại hơn 500 triệu đồng nhưng bà không đồng ý, buộc ông phải khởi kiện. Dù tại tòa bà Tr. cho rằng số tiền trên là do ông T. tự nguyện cho bà vì hai bên có quan hệ thân thiết, không phải tiền vay nhưng Tòa Phúc thẩm TAND Tối cao tại TP.HCM đã bác lập luận này. Tòa cho rằng bà Tr. không có chứng cứ gì chứng minh là ông T. tự nguyện cho bà. Mặt khác, qua các giao dịch tại ngân hàng, có đủ cơ sở xác định bà Tr. đã nhận tiền của ông T. Kèm các chứng cứ khác, thấy rõ ràng rằng bà Tr. đã mượn tiền của ông T. chứ không phải là cho tặng gì cả. Do vậy, tòa đồng tình với cấp sơ thẩm, chấp nhận yêu cầu của ông T. buộc bà Tr. phải trả lại tiền đã mượn cho… khổ chủ. Quanh vụ kiện đã có hai quan điểm về cách đánh giá chứng cứ của tòa. Một quan điểm đồng tình với tòa, cho rằng tòa đã tuyên chính xác, bảo vệ được quyền lợi hợp pháp của nguyên đơn. Quan điểm khác lại bảo tòa đánh giá chứng cứ chưa chuẩn, dẫn đến việc tuyên “oan” cho bà Tr. Theo quan điểm này, khi khởi kiện, bản thân ông T. cũng không có chứng cứ trực tiếp như giấy cho vay tiền để chứng minh đã cho bà Tr. vay số tiền trên. Phía bà Tr. lại kịch liệt phản đối. Ông chỉ có chứng cứ gián tiếp là chuyển tiền cho bà Tr. qua ngân hàng và bà này đã ký nhận cùng với việc ông giữ giấy tờ nhà của bà. Tuy nhiên, những chứng cứ này cũng chưa thể nói đó là vay mượn tiền. Cũng có thể hiểu rằng hai người có tình cảm thân thiết nên bà Tr. được ông này cho tiền và bà nhờ ông giữ giùm giấy tờ nhà… Mặt khác, không thể nại rằng bà Tr. không chứng minh được mình được tặng cho tiền nên quy ra là ông T. đã cho bà Tr. vay. Việc bà Tr. không chứng minh được tặng cho không quan trọng bằng việc ông T. phải chứng minh yêu cầu khởi kiện của mình. Mà như đã phân tích ở trên, ông T. cũng không có chứng cứ chắc chắn về việc vay mượn này. BỒI THƯỜNG CÓ PHÙ HỢP Do lỗi lơ đễnh của một tài xế xe ôtô mà chị Trần Minh Tú (quận Tây Hồ, Hà Nội), chuyên gia dạy các môn thể dục thẩm mỹ, trang điểm, trở thành người tàn phế khi đang ngồi trong nhà văn hóa quận Hai Bà Trưng. Trong phiên xử sơ thẩm vừa qua, TAND quận Hai Bà Trưng tuyên buộc bị cáo Nguyễn Văn Thái bồi thường cho chị Tú tổng cộng chỉ có... 37 triệu đồng. Chị Tú yêu cầu Thái phải bồi thường tổng cộng 970 triệu đồng, trong đó gồm: hơn 50 triệu đồng tiền điều trị tại bệnh viện (có hóa đơn), 540 triệu đồng tiền thu nhập bị mất cho đến năm 55 tuổi và 200 triệu đồng tiền bồi thường tổn thất tinh thần. Chị Tú bị thương tật đến 61% nhưng tòa sơ thẩm chỉ buộc bị cáo bồi thường tổng cộng có 37 triệu đồng. Thế nhưng TAND quận Hai Bà Trưng tuyên bị cáo chỉ phải bồi thường cho chị Tú tổng cộng 37 triệu đồng. Trong đó tiền điều trị là 11 triệu đồng, tiền hồi phục bảy triệu đồng, ba tháng thu nhập bị mất là 13 triệu đồng... Tiền thu nhập bị giảm sút, tiền bồi thường chiếc xe máy của chị Tú bị hư, tiền phụ nuôi mẹ của chị Tú hơn 80 tuổi đều không được tòa tính đến. Dựng quan tài để trả thù chủ nợ Đó là ông Nguyễn Hữu Thọ, Chủ nhiệm CLB Kinh tế nông thôn thuộc báo Kinh Tế Nông Thôn đặt văn phòng liên lạc tại địa phương trên. Cớ sự phát sinh từ việc bà Nguyễn Thị Bích Đào, người đang chung sống với ông Thọ như vợ chồng, bị kiện đòi nợ. Năm 2009, bà Đào thế chấp một phần đất của mình để vay của bà Trần Thị Cẩm Liên (ngụ Vũng Tàu) gần 200 triệu đồng. Đất ấy nằm gần nhiều phần đất khác của ông Thọ. Án tòa xử bà Đào phải trả nợ nhưng bà Đào không chịu thi hành án (THA). Do vậy, Chi cục THA dân sự huyện Xuyên Mộc đã kê biên, phát mại đất của bà Đào. Hai chiếc quan tài này đặt sát bên diện tích đất đấu giá. Chỉ ít ngày sau khi chi cục đo đất, đóng cọc, ông Thọ đã đem về đây hai chiếc quan tài mới. Ông Thọ cho xây gạch, lợp mái tôn trên phần đất của mình nằm kế ngay lối ra vào của phần đất chuẩn bị phát mại rồi đặt hai quan tài vào trong. Hỏi “Sao để đó?”, ông đáp: “Mua để làm từ thiện”. Đã có người tới xem đất nhưng khi nhìn thấy hai chiếc quan tài đặt vậy, họ lắc đầu rồi bỏ đi ngay. Đến giờ đất vẫn chưa bán được”. Có vi phạm pháp luật không? XỬ LÝ THẾ NÀO? Theo hồ sơ, cuối năm 2003, vợ chồng anh L. đồng đứng đơn thuận tình ly hôn gửi ra TAND quận Hải Châu. Trong đơn, họ nói cha mẹ anh L. làm di chúc cho họ được thừa hưởng một căn nhà. Kèm theo đó là bản di chúc của cha mẹ anh L. lập năm 2002 cùng một lá đơn của ông bà gửi UBND phường Hòa Thuận xác nhận rằng vợ chồng anh L. được toàn quyền sở hữu ngôi nhà theo di chúc. Tại phiên hòa giải sau đó, vợ chồng anh L. vẫn một mực xin được ly hôn. Về phần con cái, hai bên thỏa thuận để đứa con gái duy nhất sống với mẹ. Về phần tài sản, hai bên thống nhất giao ngôi nhà trên cho con gái được quyền sở hữu, sử dụng nhưng do cháu còn vị thành niên nên tạm thời giao anh L. quản lý, khi nào cháu đủ 18 tuổi thì sẽ sang tên. Tháng 1-2004, TAND quận Hải Châu đã ra quyết định công nhận thuận tình ly hôn với các nội dung trên. Cuộc sống cứ thế trôi qua, lần lượt người vợ cũ tái giá, rồi anh L. cũng có hạnh phúc mới. Riêng cha mẹ anh L. cuối năm 2006 mới biết ngôi nhà mình đứng tên sở hữu đã bị chia khi họ còn sống sờ sờ. Vậy là họ lập di chúc mới, bỏ tên con dâu cũ ra ngoài diện hưởng thừa kế và khiếu nại lên VKSND TP Đà Nẵng. Tháng 3-2007, VKS đã kháng nghị tái thẩm, nhận định khi xin ly hôn, vợ chồng anh L. tự chia nhà được hưởng thừa kế trong lúc cha mẹ anh L. - chủ sở hữu nhà chưa mất, thừa kế chưa mở là bất hợp pháp. Tòa phân xử mà không mời cha mẹ anh L. tham gia tố tụng là sai. Những sai sót đó đã xâm hại nghiêm trọng quyền lợi của cha mẹ anh L. Theo VKS, việc cha mẹ anh L. hủy di chúc cũ, lập di chúc mới và khiếu nại phán quyết của tòa là tình tiết mới, đủ cơ sở để TAND TP Đà Nẵng tái thẩm, hủy phần công nhận thỏa thuận tài sản chung của vợ chồng anh L. Ba tháng sau, VKSND TP Đà Nẵng lại rút quyết định kháng nghị tái thẩm. Theo văn bản này, “tình tiết mới” được đưa ra làm cơ sở kháng nghị tái thẩm không vững chắc, còn kháng nghị giám đốc thẩm thì đã hết thời hạn xem xét (ba năm kể từ ngày bản án, quyết định của tòa có hiệu lực pháp luật). Rối vì hồ sơ án gửi bưu điện bị mất Hồ sơ một vụ tranh chấp đất trị giá bạc tỉ được TAND Tối cao gửi bưu điện về tòa cấp dưới đã bị thất lạc. Hơn bảy năm trước, bà L. cho một người quen mượn trên 30.000 m2 đất tại TP Phan Thiết (Bình Thuận) để canh tác. Theo bà, làm được một thời gian, người này đã lấy luôn đất của bà. Năm 2003, bà khởi kiện đòi lại tài sản. Sau ba năm thụ lý vụ kiện, tháng 5-2006, TAND TP Phan Thiết bất ngờ ra quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án. Không đồng tình với quyết định này, bà L. kháng cáo. Tuy nhiên, TAND tỉnh Bình Thuận đã bác kháng cáo của bà. Thấy bị thiệt thòi, bà liền gửi đơn kiến nghị đến TAND Tối cao đề nghị giám đốc thẩm… Nhận được đơn, TAND Tối cao đã rút toàn bộ hồ sơ vụ kiện lên để xem xét. Tháng 5-2009, chánh án TAND Tối cao ra quyết định kháng nghị vì việc đình chỉ giải quyết vụ án là không đúng, không đảm bảo quyền lợi của các đương sự. Sau đó, TAND Tối cao ra quyết định giám đốc thẩm tuyên hủy quyết định sơ thẩm, giao hồ sơ vụ án cho TAND TP Phan Thiết giải quyết lại vụ án theo đúng quy định của pháp luật. Ngày 29-9-2009, TAND Tối cao gửi toàn bộ hồ sơ vụ án đến TAND TP Phan Thiết theo dạng bưu phẩm bảo đảm thông qua dịch vụ của Công ty Cổ phần Bưu chính Viettel. Thế nhưng sau gần năm tháng ròng rã chờ đợi, bà L. chẳng thấy TAND TP Phan Thiết xét xử lại. Nóng lòng, bà đi khiếu nại. Kết quả xác minh của Viettel khiến mọi người đều bất ngờ: Một nhân viên ở khâu chấp nhận dịch vụ đã tự ý viết tên người nhận là Q. để trả báo phát đến TAND Tối cao. Viettel cho biết việc này sai quy trình nghiệp vụ. Viettel đang chỉ đạo những cán bộ nhân viên làm sai phải kiểm điểm để có hình thức kỷ luật thích đáng. Đơn vị này cũng cho biết để khắc phục hậu quả, họ sẽ cử cán bộ đến TAND Tối cao thương thảo thống nhất phương thức xử lý dứt điểm vụ việc và mong TAND Tối cao, TAND TP Phan Thiết... thông cảm! Được biết, ngày 17-11, TAND TP Phan Thiết đã mời bà L. đến làm việc, giải thích việc thất lạc hồ sơ không phải do lỗi của ngành tòa án mà lỗi của Viettel. TAND TP Phan Thiết cũng yêu cầu bà làm lại đơn khởi kiện bằng một vụ kiện dân sự mới, họ sẽ thụ lý, giải quyết. Tuy nhiên, bà L. không đồng ý vì tất cả chứng cứ quan trọng đều nằm trong hồ sơ bị thất lạc, nay muốn thu thập các chứng cứ, tư liệu phục vụ cho việc khởi kiện mới sẽ khó khăn, mất thời gian, tiền bạc, công sức, thậm chí nhiều chứng cứ khó có thể tìm lại được. Bà L. đề nghị TAND Tối cao sớm đưa ra các giải pháp khắc phục việc thất lạc hồ sơ của bà. Ngoài ra, bà cũng yêu cầu Viettel phải bồi thường toàn bộ chi phí phát sinh từ việc thất lạc hồ sơ. Nếu không thỏa thuận được, bà sẽ khởi kiện Viettel ra tòa yêu cầu bồi thường thiệt hại. Bởi chỉ vì hành vi tùy tiện của một nhân viên Viettel khiến vụ việc rắc rối, dẫn đến nhiều khả năng gia đình bà sẽ bị mất oan ức số tài sản lớn nêu trên. Cách giải quyết? Kiện công nhận hợp đồng: Thụ lý hay không? Năm 2003, ông D. (ngụ Bình Dương) mua lại nhà đất của bà N. Bàn bạc xong xuôi, hai bên ra phòng công chứng công chứng hợp đồng. Nhận thấy thỏa thuận tự nguyện, hợp pháp, phòng công chứng đã... đóng dấu. Sau đó, hai bên đã giao đất, nhận tiền. Bên mua nộp hồ sơ xin đăng bộ, nộp thuế và được hẹn ngày nhận kết quả. Tuy nhiên, đến hẹn, bên mua đến nhận giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì lại được trả lời có công văn của cơ quan thi hành án ngăn chặn chuyển nhượng nhà đất nên chưa thể giao giấy chứng nhận được. Nguyên trước đó, do có mượn nợ của người khác, bà N. bị kiện và tòa buộc bà phải trả nợ. Cơ quan thi hành án phong tỏa tài sản trên (vì cho rằng đó là tài sản của bà N.) để đảm bảo thi hành án. Sau đó, bên mua đã khiếu nại việc kê biên của thi hành án nhưng không có kết quả. Bên mua cũng đã nhiều lần yêu cầu bên bán giải tỏa ngăn chặn việc đăng ký quyền sử dụng đất nhưng cũng không được đáp ứng. Do vậy, mới đây bên mua đã nộp đơn khởi kiện ra tòa yêu cầu công nhận lại hợp đồng để một lần nữa khẳng định việc mua bán hợp pháp và tài sản đã thuộc sở hữu của bên mua, cơ quan thi hành án không thể phong tỏa tài sản này. Xung quanh việc khởi kiện đòi công nhận hợp đồng này của bên mua đã có nhiều quan điểm khác nhau. Quan điểm thứ nhất cho rằng không thể thụ lý vụ án. Bởi hợp đồng đã qua công chứng, bên mua đã nhận tài sản, bên bán đã nhận tiền thì bên mua đã có toàn quyền đối với tài sản này nên việc thụ lý để công nhận hợp đồng là không còn ý nghĩa. Không thể thụ lý giải quyết một chuyện đã hiển nhiên. Trường hợp này bên mua chỉ cần khiếu nại việc kê biên tài sản để cơ quan thi hành án hủy quyết định kê biên, trả lại quyền lợi cho bên mua là được. Quan điểm thứ hai thì cho rằng tòa vẫn có thể thụ lý vụ án. Bởi trên thực tế, người mua vẫn chưa có toàn quyền đối với tài sản đã mua. Người bán vẫn còn có quyền nhất định với tài sản. Tòa sẽ thụ lý và hỏi hai bên xem có ý định tiếp tục thực hiện hợp đồng chuyển nhượng nữa hay không. Nếu đồng ý thì tòa công nhận hợp đồng, yêu cầu hai bên tiếp tục thực hiện những khoản còn lại. Còn hai bên không đồng ý tiếp tục thực hiện hợp đồng thì tòa bác. Tuy nhiên, điều kiện thụ lý là tài sản đã được giao cho bên mua. Quan điển thứ ba lại bảo bản chất của vụ kiện này là tranh chấp quyền sử dụng đất chứ không phải là tranh chấp hợp đồng. Hợp đồng mua bán chỉ là phần ngọn. Do vậy, muốn được tòa thụ lý, hai bên phải ra hòa giải lại ở địa phương theo thủ tục về tranh chấp quyền sử dụng đất đai… Nếu hòa giải không thành thì khởi kiện, lúc này tòa sẽ xem xét thụ lý. Hướng giải quyết? Đòi lại sính lễ? TAND huyện Giá Rai (Bạc Liêu) đã buộc gia đình cô N. phải trả lễ vật gần 23 chỉ vàng, 10 triệu đồng tiền mặt cho gia đình anh P. vì đám cưới của hai người bị hủy, không diễn ra như dự kiến. Gia đình cô N. bức xúc cho rằng tòa tuyên như vậy là sai sót vì chưa xét đến phong tục, tập quán và phẩm giá của phụ nữ. Theo hồ sơ, năm 19 tuổi, qua mai mối, cô N. gặp anh P. Sau đó hai gia đình đồng ý định ngày cưới cho đôi trẻ. Lúc đám hỏi, nhà trai mang sính lễ đến nhà gái theo đúng phong tục địa phương gồm 13,5 chỉ vàng 24K; 8,9 chỉ vàng 18K; 10 triệu đồng tiền mặt và mâm quà trà rượu. Ai nấy đều vui vẻ mong đến ngày thành hôn. Tuy nhiên, lúc chuẩn bị đám cưới, gia đình hai bên nảy sinh mâu thuẫn gay gắt. Đám cưới đã không diễn ra đúng như lời tuyên bố của nhà trai. Chỉ có điều là sau đó cha chú rể lại kiện ra TAND huyện Giá Rai, yêu cầu phía nhà gái phải trả lại toàn bộ lễ vật. Xử sơ thẩm, TAND huyện Giá Rai đã chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn, buộc gia đình cô N. phải hoàn trả đầy đủ lễ vật. Theo tòa, đây là hợp đồng tặng cho tài sản có điều kiện. Nguyên đơn dùng số tiền, vàng trên làm lễ vật tặng nhà gái là để đạt điều kiện hai trẻ cưới nhau. Thực tế không có đám cưới, nhà trai đòi lại lễ vật là hợp lý, cần chấp nhận. Sau phiên xử, gia đình cô N. cho rằng quyết định của tòa chưa thấu lý đạt tình khi chưa xem xét vì sao có việc hủy hôn. Tòa cũng đã không xác định được phần lỗi của nguyên đơn để buộc họ phải đền bù một phần vật chất. Làm hợp đồng mua bán xe đã mất Ngày 24-3-2011, ông T.K.N. (ngụ quận 8, TP.HCM) đi xe gắn máy hiệu Honda SHi125 tới nhà hàng Kichi Kichi tại khu đô thị mới Phú Mỹ Hưng, quận 7 ăn tối cùng gia đình. Nhân viên bảo vệ nhận giữ xe và đưa thẻ, thế mà chỉ khoảng một giờ sau, khi ông ra lấy xe thì được thông báo chiếc xe đã không còn trong bãi. Lỗi mất xe đã được xác định thuộc về công ty bảo vệ. Sau nhiều lần thương lượng, cuối tháng 5-2011 chủ nhà hàng đã đồng ý bồi thường cho ông N. nhưng chỉ theo số tiền ghi trên hóa đơn mua xe. Chiếc xe SHi125 ông N. mua giá khoảng 160 triệu đồng chỉ mới hơn một tháng trước. Tuy nhiên, do cửa hàng bán xe chỉ xuất hóa đơn giá 110 triệu đồng nên ông N. chỉ được nhà hàng bồi thường 117 triệu đồng (tính cả biên lai thuế và phí đăng ký biển số). Ngoài ra, nhà hàng yêu cầu ông N. phải giao giấy đăng ký xe (cà vẹt), đồng thời làm hợp đồng bán chiếc xe trên cho nhà hàng. Đơn vị này lý giải rằng do đã nhận bồi thường nên ông N. đương nhiên không còn quyền sở hữu đối với chiếc xe đã mất, mà quyền sở hữu phải thuộc về họ. Ông N. đã làm giấy bán xe. Hỏi: Giao dịch trên là đúng hay sai? Tại sao? “liệt sĩ” về làng. Vợ ông Luận đang ngồi bên giường chăm sóc “liệt sĩ” về làng. Cuộc đoàn viên trong nước mắt với gia đình của một chiến sĩ quân tình nguyện tưởng đã hy sinh trên chiến trường K sau 30 năm bặt tin. Nỗ lực của ông tổng lãnh sự. Mấy mươi năm qua, người đàn ông trạc tuổi trung niên đẩy xe bán nước mía dạo trên đường phố Siêm Riệp (Campuchia) chỉ mang máng nhớ mình tên Lê Đức Luận, là người Việt, quê nhà ở tỉnh Hải Hưng (nay là Hải Dương và Hưng Yên). Nhưng câu chuyện tình cờ một ngày đầu hè năm 2009 đã đưa cả trí nhớ và thể xác người đàn ông Việt ấy về quê cũ sau 30 năm bặt tin. 30 năm lưu lạc Năm 1974, chàng thanh niên Lê Đức Luận lên đường nhập ngũ, chiến đấu ở chiến trường phía Nam. Năm năm sau, anh nhập vào đoàn quân tình nguyện thuộc Trung đoàn 757, Sư đoàn 317 sang chiến trường K. Đến năm 1980, anh mới về phép thăm gia đình, đứa con trai ngày anh đi bộ đội mới vừa được sinh ra nay đã đi học lớp 1. “Ai ngờ lần về phép đầu tiên trong đời quân ngũ phải 30 năm sau mới có lần về tiếp theo” - ông Luận hồi tưởng. Quay lại chiến trường K sau lần về phép, trong một lần hành quân, chiếc xe chở anh Luận bị tàn quân Pol Pot phục kích. Đồng đội trên xe đều hy sinh, riêng anh dính vết thương vào đầu và ngất đi. Quân Pol Pot ngỡ rằng anh đã chết nên bỏ đi và anh may mắn được người dân Siêm Riệp cứu sống. Nhưng khi hồi tỉnh, trí nhớ hầu như bị xóa sạch khiến anh không thể nhớ được địa chỉ gia đình, đơn vị trong khi giấy tờ, đồ đạc đã bị quân Pol Pot lấy hết. Đề phòng bị rơi vào tay tàn quân Pol Pot, người dân đưa anh về nhà và cải trang thành người Campuchia, chăm sóc cho vết thương bình phục. Thế nhưng ba năm sau ngày bị thương, trí nhớ của anh bộ đội tình nguyện vẫn chưa phục hồi. Năm 1984, anh lấy vợ người Khmer và có hai con gái. Vợ chồng anh sống bằng nghề bán nước mía dạo, bữa đói bữa no nên đôi khi mang máng nhớ về quê cũ nhưng 25 năm từ ngày có gia đình anh chưa lần dám nghĩ đến chuyện đi tìm vì không có tiền. Ông Luận bồi hồi: “Cứ khi nào tỉnh táo là lại muốn đi tìm quê nhưng lúc trái gió trở trời, vết thương tái phát thì lại quên hết. Thời gian đầu sống trong vùng rừng núi cả chục năm, gần quên cả tiếng Việt. Mơ ước được về lại quê nhà cứ lụi dần, lụi dần”. Trung đoàn 757 - đơn vị của ông Luận sau thời gian không tìm thấy xác đồng đội đã làm thủ tục đề nghị công nhận liệt sĩ. Và vào năm 1992, gia đình ông ở thôn Hùng Trì, xã Lạc Đạo, huyện Văn Lâm, Hưng Yên đã được nhà nước trao lại Huân chương Chiến công hạng Ba, gia đình được trao bằng Tổ quốc ghi công, chính thức xác nhận ông Luận là liệt sĩ. Tấm bằng Tổ quốc ghi công tại gia đình ông Luận. Nỗi khắc khoải chập chờn về quê nhà tưởng sẽ lụi tàn thì đầu tháng 6-2009, trong một lần đi khám sức khỏe tại một phòng bệnh của bác sĩ người Việt, ông Luận tình cờ gặp ông tổng lãnh sự Việt Nam tại Battambang (Campuchia) Trần Công Thịnh. Cùng ngồi ngoài phòng chờ, nghe thấy ông Thịnh nói điện thoại bằng tiếng Việt, ông Luận lân la bắt chuyện: “Tôi cũng là người Việt...”. Nghe chuyện một hồi, ông Thịnh hiểu ra quãng đời lưu lạc của anh lính tình nguyện. “Tôi tự hứa với bản thân là phải bằng mọi cách giúp anh ấy tìm lại quê cũ. Đó không phải là trách nhiệm của một nhân viên ngoại giao nữa mà là trách nhiệm của người Việt với nhau khi xa quê” - ông Thịnh nói. Thế nhưng tất cả manh mối mà vị tổng lãnh sự có chỉ là cái tên của cha người lưu lạc ở Hải Hưng và thời điểm chiếc xe của anh lính tình nguyện bị quân Pol Pot phục kích. Tra cứu danh sách các liệt sĩ đã hy sinh tại Campuchia, ông Thịnh đã lần ra được đơn vị, quê quán của ông Luận. Nhưng chưa hết nhiêu khê, địa chỉ ngày ấy so với bây giờ đã thay đổi, ông Thịnh lại phải nhờ người ở Việt Nam đi xác minh, ráp nối thông tin. Và cuối cùng vị tổng lãnh sự Việt Nam tại Battambang đã có được lý lịch của ông Luận sau hơn một tháng dò tìm từ nhiều nguồn. Anh Lê Hữu Luân, con trai duy nhất của ông Luận, nói đó là “niềm vui như sét đánh” với gia đình: “Trưa 1-8, tôi chạy như điên từ cơ quan về nhà khi nhận được cú điện thoại báo tin cha tôi còn sống và đang lưu lạc ở Campuchia. Mẹ tôi lăn đùng ra bất tỉnh vì bất ngờ. Chiều hôm đó, gia đình còn gọi điện thoại cả chục lần sang Tổng Lãnh sự quán Việt Nam tại Battambang hỏi đi hỏi lại mới dám tin đó là sự thật”. Một tuần sau ngày nhận được tin vui, anh Luân cùng một người chú đã có mặt ở Campuchia. Cuộc hội ngộ diễn ra bên lề đường Siêm Riệp, cạnh chiếc xe bán nước mía dạo mà ông Luận đã còng lưng đẩy suốt mấy mươi năm xa quê. Và hơn một tuần sau đó, ông Luận được con trai đưa về quê nhà đoàn tụ. Gặp cả gia đình ông Luận chỉ vài ngày sau khi ông đoàn tụ, trong ngôi nhà mà bàn thờ liệt sĩ Lê Viết Luận và bằng Tổ quốc ghi công vẫn chưa kịp gỡ xuống, bà Phạm Thị Nhài - vợ ông Luận xúc động: “Từ khi con trai sang đón ông nhà tôi về, không đêm nào tôi ngủ được. Ông ấy đã bằng xương bằng thịt ngồi trước mặt đây mà đôi lúc cứ phải tự cấu vào tay mình mới tin là thực...”. Đầu vẫn còn đau, trí nhớ vẫn chập chờn nhưng ngồi lại giữa quê hương, trong hơi ấm của gia đình, ông Luận nói ông đã dần mường tượng lại được những người thân của mình. “Bà con ai cũng cố gắng kể lại những kỷ niệm cũ, những cái tên cũ. Chỉ biết cám ơn mọi người rồi rớm nước mắt vì niềm vui đến bất ngờ quá” - ông Luận bồi hồi. Xử lý thế nào? Tranh chấp “tách” và “cốc” Cái tách và cái cốc màu đỏ trên bao bì sản phẩm của hai công ty bị cho là sẽ gây nhầm lẫn. Chủ tịch UBND tỉnh Bình Dương đã phạt Công ty TNHH Gold Roast Việt Nam (Gold Roast) do dùng hình cái tách màu đỏ trên bao bì sản phẩm cà phê gây nhầm lẫn với cái cốc của một công ty khác. Tòa án tỉnh này cũng cho rằng Gold Roast đã vi phạm quyền sở hữu công nghiệp. Hiện công ty này đang kháng cáo phán quyết trên của tòa. Theo hồ sơ, trước năm 2006, Công ty Société des Produits Nestlé (Nestlé) đã tung ra thị trường sản phẩm cà phê sữa uống liền mang hình cái cốc đỏ có viền vàng. Ngay sau đó, công ty này phát hiện Gold Roast cũng có loại sản phẩm tương tự có in hình cái tách đỏ trên bao bì. Tháng 10-2006, Nestlé đề nghị Cục Sở hữu trí tuệ (Bộ Khoa học và Công nghệ) thẩm định xem nhãn hiệu hình cái tách đỏ của Gold Roast có vi phạm quyền sở hữu công nghiệp của Nestlé hay không. Nửa tháng sau, Cục phúc đáp Gold Roast sử dụng cái tách đỏ là gây nhầm lẫn với cái cốc đỏ đã được bảo hộ của Nestlé. Dựa vào kết luận trên, Nestlé yêu cầu Thanh tra Bộ Khoa học và Công nghệ xử lý hành vi vi phạm của Gold Roast. Vì không thuộc thẩm quyền nên nơi này đã chuyển hồ sơ cho Thanh tra Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Bình Dương xử lý. Cuối năm 2007, Thanh tra Sở kết luận Gold Roast đã có hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ. Đầu năm 2008, chủ tịch UBND tỉnh Bình Dương đã phạt Gold Roast 100 triệu đồng và buộc công ty này “loại bỏ các yếu tố vi phạm” trên bao bì sản phẩm cà phê sữa uống liền. Cho rằng bị phạt oan và để chứng minh mình không sao chép hình ảnh trên của Nestlé, Gold Roast liền nhờ Viện Nghiên cứu sở hữu trí tuệ (thuộc Liên hiệp Các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam) thẩm định lại. Một thời gian sau, viện này kết luận dấu hiệu tách cà phê màu đỏ trên sản phẩm của Gold Roast không có khả năng gây nhầm lẫn với cốc đỏ của Nestlé. Bởi theo viện này, người tiêu dùng nói rằng hình dáng giữa cái cốc và cái tách khác nhau (một cái hình trụ tròn, cái kia không tròn đều; một cái cao, một cái thấp...) cộng thêm các yếu tố chuyên môn nữa nên khó có thể gây ra sự nhầm lẫn. Có được kết luận của Viện Nghiên cứu sở hữu trí tuệ, Gold Roast đã kiện quyết định xử phạt của chủ tịch UBND tỉnh Bình Dương ra Tòa hành chính. Gold Roast còn dẫn giải thêm từ năm 1996, sản phẩm của công ty này đã được nhập vào Việt Nam từ Singapore, có sử dụng hình ảnh cái tách màu đỏ trên bao bì. Đến năm 2001, Gold Roast có nhà máy sản xuất tại Việt Nam và tiếp tục sử dụng hình ảnh này. Nestlé chỉ đăng ký bảo hộ hình ảnh cái cốc đỏ tại Việt Nam từ năm 2004. Vì thế, Gold Roast sử dụng hình ảnh cái cốc đỏ là ngay tình, không hề vi phạm quyền sở hữu trí tuệ như văn bản của Cục Sở hữu trí tuệ. Gold Roast còn bảo nếu cho rằng công ty này vi phạm, tỉnh cũng không được quyền phạt tiền vì thời hiệu phạt tiền đã hết (vì họ sử dụng hình ảnh này gần 10 năm). Thụ lý vụ án, TAND tỉnh Bình Dương đã trưng cầu giám định vì kết luận của Cục Sở hữu trí tuệ và Viện Nghiên cứu sở hữu trí tuệ không phải là văn bản giám định. Đầu tiên, tòa trưng cầu ở một viện nghiên cứu nhưng nơi này bảo rằng mình không có chức năng giám định vụ việc trên. Tiếp đến, tòa nhờ Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh nhưng nơi này cũng “bó tay” vì nằm ngoài khả năng giám định của cấp tỉnh. Tòa nhờ Viện Khoa học hình sự (Bộ Công an) thì viện này cũng lắc đầu do không thuộc lĩnh vực của mình. Không có cơ quan nào giám định, trong khi hai cơ quan chuyên môn có ý kiến khác nhau, tòa án tỉnh quyết định lấy kết luận của Cục Sở hữu trí tuệ (cho rằng Gold Roast vi phạm) để làm căn cứ xử lý. Tòa nhận định công văn của Cục là kết luận về hành vi vi phạm của Gold Roast nên chủ tịch UBND tỉnh Bình Dương xử phạt Công ty Gold Roast là có căn cứ. Vì thế, tòa bác đơn kiện, giữ nguyên quyết định xử phạt của chủ tịch tỉnh. Tạm đình chỉ vụ án thiếu cơ sở Tòa căn cứ vào thông báo của cơ quan công an gửi cho đương sự để tạm đình chỉ vụ án. Cơ quan công an chưa thụ lý điều tra vụ án và cũng chưa thông báo cho tòa cấp sơ thẩm thì tòa không được tạm đình chỉ vụ án. Tháng 6-2008, Công ty N. ở TP.HCM ký hợp đồng góp vốn với Công ty Đ. ở TP Cần Thơ để xây dựng công trình san lấp một dự án cảng… Hứa mà không trả Theo trình bày của Công ty N., khi hợp đồng hết hạn, Công ty Đ. còn nợ công ty gần 39 tỉ đồng tiền vốn, tiền cát... Hai bên đã nhiều lần ngồi lại bàn bạc, thống nhất Công ty Đ. sẽ trả 22 tỉ đồng tiền vốn góp. Hơn 10 tỉ đồng còn lại sẽ trả trong vòng bốn tháng. Riêng khoản nợ tiền cát hẹn trả chậm nhất là ngày 15-1-2009. Thế nhưng sau nhiều hứa hẹn trả, Công ty Đ. vẫn không thanh toán tiền nợ. Tháng 4-2009, Công ty N. khởi kiện Công ty Đ. ra tòa. Tuy nhiên, sau đó hai bên thống nhất sẽ tự hòa giải nên Công ty N. rút đơn kiện. Khi Công ty N. rút đơn, Công ty Đ. lại không chịu thanh toán tiền. Tháng 6-2010, Công ty N. lại tiếp tục khởi kiện. Năm tháng sau, Công ty N. bất ngờ nhận được quyết định “tạm đình chỉ giải quyết vụ án kinh doanh thương mại” của TAND TP Cần Thơ vì xét thấy cần đợi kết quả giải quyết của Cục CSĐT tội phạm về trật tự quản lý kinh tế và chức vụ. Nhận được quyết định của tòa, Công ty N. tìm hiểu thì biết được Công ty Đ. làm đơn tố giác tổng giám đốc Công ty N. có hành vi chiếm đoạt tài sản của Công ty Đ. thông qua việc hợp tác gói thầu... Ngày 13-10-2010, Cục CSĐT tội phạm về trật tự quản lý kinh tế và chức vụ gửi thông báo về Công ty Đ. cho biết đã nhận được đơn và đang tiến hành điều tra xác minh. Có được thông báo này, Công ty Đ. gửi cho TAND TP Cần Thơ yêu cầu tạm đình chỉ vụ án và được tòa này chấp nhận. Công ty N. cho rằng tòa căn cứ vào giấy thông báo của cơ quan công an cho đương sự để ra quyết định tạm đình chỉ là sai quy định. Công ty đã kháng cáo. Tạm đình chỉ là đúng hay sai? Không tòa nào chịu xử Tháng 7-2007, gia đình ông C. thế chấp tài sản cho Công ty D. để vay ít tiền. Sau đó, Công ty D. đề nghị ông C. dùng giấy tờ đã thế chấp cho công ty bảo lãnh cho công ty vay vốn tại ngân hàng. Tuy nhiên, quá trình lập hợp đồng bảo lãnh thế chấp thì bên được nhận bảo lãnh lại là Công ty H. Trên cơ sở đó, Công ty H. đã lập hợp đồng vay vốn. Ít lâu sau, ông C. phát hiện nên kiện ngân hàng ra TAND quận 1 (TP.HCM) để hủy hợp đồng bảo lãnh vay vốn trên. Sau khi nghiên cứu vụ án, TAND quận 1 cho rằng hợp đồng dân sự về thế chấp tài sản có liên quan chặt chẽ đến hợp đồng vay vốn kinh doanh giữa ngân hàng với Công ty H. Tranh chấp hợp đồng vay vốn lại thuộc thẩm quyền xét xử của TAND TP.HCM nên TAND quận 1 đã chuyển vụ án cho TAND TP xử lý. Ngày 13-10-2008, TAND TP thụ lý vụ án. Nhưng sau đó, tòa nhận định ông C. là một cá nhân, khởi kiện ngân hàng là một pháp nhân về hợp đồng thế chấp tài sản bảo lãnh cho một hợp đồng vay vốn khác mang tính chất lợi nhuận. Nhưng bản thân hợp đồng thế chấp lại không mang mục đích lợi nhuận. Cạnh đó, giao dịch thế chấp của ông C. không phải là hoạt động kinh doanh thương mại. Hợp đồng vay giữa Công ty H. với ngân hàng cũng không xảy ra tranh chấp nên chưa phát sinh tranh chấp về kinh doanh thương mại. Từ những lý do đó, cuối năm 2008, TAND TP đã chuyển trả vụ kiện lại cho TAND quận 1. Không đồng ý, ngày 20-5-2009, TAND quận 1 tiếp tục chuyển trả lại hồ sơ cho TAND TP với lý do tương tự như đã nêu trước đó. Đòi tài sản là tranh chấp gì? Theo đơn khởi kiện của ông Đ., trước đây ông đã mua hai mảnh đất có trồng cà phê và cây ăn trái. Trên hai mảnh đất còn có hai ngôi nhà gỗ, một ngôi nhà tạm và hai giếng nước. Sau đó, vì phải đi xa làm việc, ông đã nhờ gia đình người chị trông coi nhà cửa, vườn tược. Đầu năm 2007, ông nghe tin gia đình người chị đã đăng ký quyền sử dụng đất và tặng mảnh vườn cho con gái nên đã đòi gia đình người chị phải trả lại. Do vậy, ông đã khởi kiện ra TAND huyện Krông Năng (Dăk Lăk) yêu cầu gia đình người chị phải trả lại số tài sản trên, bao gồm quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất. Trong quyết định đưa vụ án ra xét xử, tòa án huyện xác định tranh chấp trên là “tranh chấp quyền sử dụng đất”. Tuy nhiên, khi xét xử sơ thẩm (lần một), tòa lại nhận định đây là “tranh chấp quyền sử dụng đất và tài sản trên đất”. Sau khi bị kháng cáo, cấp phúc thẩm nhận định trong quyết định đưa vụ án ra xét xử là “tranh chấp quyền sử dụng đất”. Thế nhưng khi ra bản án, tòa lại xác định là “tranh chấp tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất”. Bản án phúc thẩm này đã hủy án sơ thẩm để đưa về cấp sơ thẩm xét xử lại theo thủ tục chung. Án quay về tòa án huyện thì một lần nữa, Thẩm phán thụ lý cho rằng tranh chấp này là “tranh chấp hợp đồng gửi giữ tài sản” chứ không phải là tranh chấp về quyền sử dụng đất và tài sản trên đất. Còn trong một số văn bản gửi cho cơ quan chức năng về những vấn đề liên quan đến vụ án, tòa lại nhận định đây là tranh chấp “kiện đòi lại tài sản”. Tranh chấp giao toàn bộ tiền bồi thường Năm 1996, Tòa Phúc thẩm TAND Tối cao tại TP.HCM xử phúc thẩm vụ tranh chấp thừa kế giữa ông M. và sáu người em ruột. Tòa tuyên hai em út của ông M. mỗi người được hưởng một nửa căn nhà của cha mẹ để lại (ở tỉnh Hậu Giang). Ông M. và bốn người em khác sẽ được hai em út thối lại cho mỗi người hơn 35 triệu đồng, tương đương với phần nhà được thừa kế. Án tuyên xong nhưng từ đó đến nay không có ai trong số anh em ông M. đòi thi hành án cả. Trên thực tế, căn nhà này ông M. vẫn quản lý một nửa, nửa còn lại thì hai em út của ông quản lý. Nhà cũng chưa được chuyển tên sang hai em út của ông. Mọi chuyện bắt đầu trở nên rắc rối khi căn nhà bị nhà nước giải tỏa. UBND tỉnh Hậu Giang căn cứ vào bản án phúc thẩm đã giao hơn 1 tỉ đồng tiền bồi thường căn nhà trên cho hai em út và buộc ông M. phải ra khỏi nhà để bàn giao mặt bằng. Ngay lúc đó, ông M. làm đơn khiếu nại. Ông cho rằng khi bản án phúc thẩm có hiệu lực thì không ai làm đơn yêu cầu thi hành án. Căn nhà này cũng chưa sang tên cho hai người em. Ông là người đóng thuế nhà từ năm 1996 đến nay. Hai người em cũng chưa đưa tiền cho ông theo bản án phúc thẩm tuyên. UBND tỉnh giao toàn bộ số tiền bồi thường cho hai người em là gây thiệt thòi cho ông. UBND tỉnh Hậu Giang giao toàn bộ tiền bồi thường căn nhà cho hai người em ông M. theo bản án liệu có căn cứ hay không? GIẢI QUYẾT THẾ NÀO? Theo đơn khởi kiện của Thi Quan gửi TAND TP.HCM hồi tháng 3, đầu năm 2008, Thi Quan có mua bảo hiểm của Bảo Minh cho chiếc ôtô Mercedes năm chỗ của công ty trong thời gian một năm và đã đóng đủ tiền bảo hiểm gần 15 triệu đồng. Tối 11-7-2008, giám đốc Thi Quan đến một nhà hàng trên đường Tân Phước, phường 6 (quận 10) ăn uống cùng bạn bè. Một lúc sau ông này được tài xế báo cho biết là chiếc xe đã bị mất cắp. Theo lời tài xế, sau khi giám đốc Thi Quan vào nhà hàng, tài xế cho xe cặp sát lề đường trước nhà hàng, xuống xe khóa cửa rồi đi bộ ra nơi khác ăn hủ tiếu, lúc về thì thấy xe đã biến mất. Công an phường 6 đến lập biên bản việc mất cắp xe, có nhân viên bảo vệ nhà hàng xác nhận trước đó có nhìn thấy chiếc xe trên. Hôm sau, Công an huyện Đức Hòa (Long An) phát hiện ra chiếc Mercedes này nằm trơ trọi giữa một cánh đồng mía nhưng đã bị cậy phá lấy cắp hàng loạt phụ tùng như đèn pha, đèn xi nhan, huy hiệu, kính chiếu hậu, đèn sau, vỏ lốp, đồ nghề mở vỏ, nắp nhớt xăng... Một tuần sau, Công an quận 10 đã lập biên bản trao trả xe cho Thi Quan. Sau đó, Thi Quan yêu cầu Bảo Minh chi trả bảo hiểm nhưng đơn vị bảo hiểm cho rằng trường hợp này không thuộc phạm vi bảo hiểm nên từ chối. Không đồng ý, Thi Quan đã khởi kiện yêu cầu Bảo Minh phải thanh toán khoảng 174 triệu đồng, bao gồm chi phí giám định thiệt hại, chi phí thay phụ tùng bị mất, phí lưu bãi, chi phí kéo xe từ Long An về Công an quận 10... Phía Bảo Minh xác nhận Thi Quan có mua bảo hiểm cho chiếc Mercedes năm chỗ, bao gồm các loại bảo hiểm trách nhiệm dân sự bắt buộc và bảo hiểm tự nguyện (trong đó có trường hợp bảo hiểm mất cắp toàn bộ do cướp có vũ trang, mất ở bãi giữ xe công cộng...). Bảo Minh cũng xác nhận có nhận được thông báo của giám đốc Thi Quan và chủ xe về việc xe bị mất cắp vào tối 11-7-2008. Tuy nhiên theo Bảo Minh, việc tổn thất mất cắp các bộ phận mà Thi Quan kiện đòi bảo hiểm không phải là trường hợp mất cắp toàn bộ xe do cướp có vũ trang hay mất ở bãi giữ xe công cộng nên không thuộc phạm vi bảo hiểm. Từ đó, Bảo Minh đã đề nghị tòa bác yêu cầu của nguyên đơn. Xử sơ thẩm hồi cuối tháng 7, TAND TP chỉ nhận định ngắn gọn là theo hợp đồng bảo hiểm xe cơ giới giữa hai bên thì việc mất cắp xe của phía Thi Quan không nằm trong phạm vi bảo hiểm. Từ đó, tòa cho rằng Thi Quan khởi kiện đòi bồi thường là không có căn cứ nên bác yêu cầu và buộc Thi Quan phải chịu toàn bộ án phí dân sự. Sau đó, phía Thi Quan đã kháng cáo, cho rằng trong trường hợp này phía đơn vị bảo hiểm phải thực thi nghĩa vụ chi trả bảo hiểm vì rõ ràng xe ôtô của công ty đã bị mất cắp và đã bị thiệt hại. Truy nhận người đã chết là cha Một cặp chị em song sinh hơn 27 tuổi kiện xin xác nhận cha. Tháng 4-2009, hai chị em song sinh N. và H. đã nộp đơn đến TAND tỉnh Tây Ninh xin xác định ông S. là cha. Theo nội dung đơn, năm 1980, mẹ họ cùng ông S. không làm lễ cưới hỏi nhưng sống công khai như vợ chồng. Khi người mẹ mang thai họ thì giữa bà với ông S. phát sinh mâu thuẫn nên hai bên sống riêng. Đến năm 1983, họ chào đời, sống với mẹ và hoàn toàn không biết đến mặt cha. Người mẹ giận ông S. nên không chịu đi làm giấy khai sinh. Đến lúc phải khai sinh cho con để đi học, khai sinh của anh H. thì bà để trống tên cha, còn khai sinh của chị N. thì bà lấy họ ngoại và tên người khác ghép lại. Khoảng năm 2001-2002, bà mới nói cho hai chị em N. và H. biết ông S. là cha ruột của họ. Biết chuyện, chị em họ vẫn thường qua thăm nom cha và ông S. cũng không hề ngăn cản. Ông còn thường cho tiền, hỏi thăm đời sống của hai chị em. Đến cuối năm 2007, ông S. bệnh chết, hai chị em N. và H. đến xin chịu tang thì bị các cô chú ngăn cản. Vì thế, hai chị em họ đã nộp đơn ra tòa, yêu cầu xác định ông S. là cha của họ với chứng cứ là lời khai của người mẹ cùng một số nhân chứng đang sống tại địa phương. Quá trình giải quyết án, hai chị em N. và H. đã yêu cầu xin quật mộ ông S. thu thập mẫu ADN để giám định huyết thống. Nhưng phía bị đơn đồng loạt phản đối. Họ nói chưa từng nghe hay biết gì về mối quan hệ giữa mẹ của hai chị em N. và H. với ông S. Lúc còn sống, ông S. chưa từng lần nào thừa nhận hai chị em N. và H. là con ruột; ngược lại, hai chị em N. và H. cũng chưa lần nào yêu cầu xác định ông S. là cha, nay ông S. đã mất mới yêu cầu là không thể chấp nhận. Xử sơ thẩm hồi tháng 5, TAND tỉnh Tây Ninh phân tích: Nhà ông S. và nhà người mẹ của hai chị em N. và H. chỉ cách nhau khoảng 2 km. Suốt nhiều năm ông S. không có con, chỉ ở chung với một người vợ chính thức (đã mất từ năm 2005). Tuy nhiên, giữa ông S. và hai chị em N. và H. không có sự qua lại, chăm sóc nhau. Cạnh đó, ông S. khi còn sống không chính thức thừa nhận hai chị em N. và H. là con ruột. Khi mất, ông cũng không để lại di chúc hay thừa nhận miệng rằng họ là con ông. Mặt khác, giấy khai sinh của hai chị em N. và H. không thể hiện ông S. là cha của họ. Dù các nhân chứng đều khẳng định họ là con ruột của ông S. nhưng chỉ là sự suy đoán không có căn cứ, không phải là chứng cứ pháp lý để xem xét. Ngoài ra, suốt 24 năm (từ 1983 đến khi ông S. mất năm 2007), phía nguyên đơn sinh sống cùng địa phương nhưng không yêu cầu xác định ông S. là cha, nay lại yêu cầu khai quật mộ để giám định ADN là không thể chấp nhận bởi không phù hợp, trái quy luật xã hội, không được bên bị đơn đồng tình. Từ đó, TAND tỉnh Tây Ninh đã bác yêu cầu của hai chị em N. và H. Hai chị em N. và H. kháng cáo. Theo họ, nếu cơ quan tố tụng không cho khai quật mộ ông S. để lấy ADN giám định thì họ xin được xác định huyết thống thông qua ADN của các anh em ông S. Có mặt tại phiên phúc thẩm, mẹ của hai chị em N. và H. trình bày rằng chỉ vì ngày đó bà hận một câu nói của ông S. mà không cho các con biết ông S. là cha ruột. Khi hai chị em N. và H. lớn lên, mọi người nói ra nói vào, bà mới cho con biết để cha con còn nhìn nhận nhau. Giờ đây, ông mất rồi, các con chỉ muốn thờ phụng cha mà bên bị đơn không thừa nhận nên bà quyết làm rõ trắng đen. Ủy ban huyện không trả lời Năm 2006, ông Cương (huyện Đức Hòa, tỉnh Long An) được mẹ ủy quyền khởi kiện ông Cửa ra tòa tranh chấp về quyền sử dụng đất. Theo đơn ông Cương, hơn chục năm trước, cha mẹ ông đã cho ông Cửa mượn một phần đất của gia đình để cất nhà ở tạm do gia đình ông Cửa khó khăn. Năm 2004, ông Cửa được cấp nhà tình thương và được phép xây dựng trên đất của gia đình ông Cương. Gia đình ông Cương không đồng ý nên khởi kiện. Tuy nhiên, quá trình hòa giải, ông Cửa cho rằng phần đất này ông đã được bố ông Cương cho hẳn chứ không phải cho ở nhờ hay cho mượn gì cả nên ông không trả. Xử sơ thẩm, TAND huyện Đức Hòa đã bác yêu cầu của ông Cương, đồng ý cho ông Cửa sử dụng phần đất trên để làm nhà. Tuy nhiên, cấp phúc thẩm đã tuyên ngược lại buộc ông Cửa phải trả phần đất trên cho gia đình ông Cương. Nhận bản án, ông Cửa làm đơn khiếu nại... Tháng 6-2009, hai bản án sơ và phúc thẩm bị giám đốc thẩm, bị tuyên hủy để điều tra, xác minh làm rõ việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho gia đình ông Cương (gồm cả phần đất tranh chấp). Mặt khác, quyết định giám đốc thẩm nhận định phần đất tranh chấp lại nằm trên phần đất của ông Cương chứ không phải trên đất của cha mẹ ông nên cần phải làm rõ để các cấp tòa ra phán quyết phù hợp. Sau khi nhận được quyết định giám đốc thẩm, TAND huyện Đức Hòa xử sơ thẩm lại, đã gửi văn bản yêu cầu UBND huyện này phúc đáp một số vấn đề liên quan đến vụ án như việc UBND huyện ra quyết định cho ông Cửa làm nhà trên phần đất bố ông Cương là đúng hay sai; phải xác định chính xác vị trí đất đang tranh chấp để tòa làm cơ sở giải quyết… Tuy nhiên, tòa đã chờ mãi mà vẫn không thấy ủy ban huyện phúc đáp. Đầu năm, tòa đành phải ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án trên chờ đến khi nào UBND huyện trả lời mới đưa vụ việc ra xét xử lại. XÁC ĐỊNH THẨM QUYỀN Đêm 22-9-1987, Bùi Văn Mãnh bị Công an tỉnh Tiền Giang bắt, giam giữ và điều tra về hành vi giết bà Phạm Thị Ngà để cướp của. Vụ án xảy ra hơn một năm trước đó, bà Ngà chính là người mẹ kế đã nuôi dưỡng và dựng vợ gả chồng cho ông Mãnh. Ngày 1-12-1988, phiên tòa sơ thẩm của Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang xử Bùi Văn Mãnh 16 năm tù về hai tội giết người và cướp tài sản công dân. Phiên phúc thẩm hoãn đi hoãn lại tới bảy lần, ngày 10-12-1991 TAND tối cao tại TP.HCM tuyên Bùi Văn Mãnh không phạm tội, trả tự do ngay tại tòa. Ông Bùi Văn Mãnh đã nộp đơn tới TAND huyện Gò Công Tây, Tiền Giang, kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm tại phiên xử ông Mãnh kiện TAND tỉnh. Theo luật định TAND Tiền Giang sẽ xét xử phúc thẩm vụ án mà họ chính là bị đơn. Bùi Văn Mãnh cho biết, vẫn giữ nguyên yêu cầu đòi TAND tỉnh Tiền Giang bồi thường hơn 1,2 tỷ đồng vì tuyên ông 16 năm tù oan. Tại phiên sơ thẩm, TAND huyện Gò Công Tây tuyên nguyên đơn thua kiện, chỉ chấp nhận tiền bồi thường hơn 146 triệu đồng cho ông Mãnh - đúng bằng mức TAND tỉnh đưa ra. Theo ông Mãnh, ông sẽ không chấp nhận bất kỳ thẩm phán nào của TAND tỉnh Tiền Giang ngồi ghế xét xử trong phiên phúc thẩm vì không đảm bảo yêu cầu. Một thẩm phán cho biết, nếu yêu cầu của ông Mãnh được chấp nhận, TAND Tối cao sẽ biệt phái một số thẩm phán đến TAND tỉnh Tiền Giang để xét xử. vụ kiện đòi số tiền kỷ lục - 1.200 tỷ đồng Theo đơn khởi kiện, ngày 25/10/2009, ông Ly Sam (60 tuổi, Việt kiều Mỹ) tham gia trò chơi có thưởng tại máy số 13 của Câu lạc bộ Palazzo, Công ty Liên doanh Đại Dương (Khách sạn Sheraton Sài Gòn). Sau một lúc chơi, máy báo kết quả ông Ly Sam trúng thưởng số tiền hơn 55,5 triệu USD. Lúc này, vị khách liền yêu cầu quản lý của Câu lạc bộ ký vào biên bản ghi nhận kết quả nhưng ông này không ký mà hứa trả thưởng trong vòng 3 ngày. Thấy vậy, ông Ly Sam liền thu lại hình ảnh của máy trò chơi và lập biên bản ghi nhận việc trúng thưởng với nhiều người ký tên làm chứng. Qua thương lượng không thành, ngày 30/10/2009, ông Ly Sam gửi yêu cầu trả thưởng nhưng không có kết quả. Gần 1 tháng sau, ông này tiếp tục gửi thư thông báo cho Tổng giám đốc Công ty Liên doanh Đại Dương phải có trách nhiệm với kết quả trúng thưởng trên. Sau đó, đại diện Công ty TNHH tư vấn Ewarton (thuộc Công ty Liên doanh Đại Dương) thừa nhận kết quả trúng thưởng hơn 55,5 triệu USD nhưng không trả thưởng cho khách vì cho rằng “nguyên nhân dẫn đến sự việc là do máy trò chơi có sự cố nên kết quả vô hiệu”. Không chấp nhận cách giải quyết trên, ông Ly Sam đã khởi kiện tại TAND quận 1, yêu cầu phía Công ty Liên doanh Đại Dương phải trả thưởng cho mình số tiền “khủng” này. Bị truy nã có được xác định mất tích? bà M. đã gửi đơn ra TAND quận X (TP.HCM) yêu cầu tuyên bố người chồng của bà mất tích. Theo bà, trước đây chồng bà cùng một số người khác thực hiện nhiều vụ cướp giật tài sản, bị công an truy bắt. Sợ phải vào tù, chồng bà đã gom sạch tài sản quý giá trong nhà rồi bỏ đi biệt tăm. Gần năm năm nay, chồng bà không hề liên lạc gì với gia đình. Hiện chồng bà vẫn đang bị truy nã. XỬ LÝ VỀ TIỀN GIẢI QUYẾT THẾ NÀO? Theo hồ sơ, Tuấn là lái xe của công ty có nhiệm vụ chở hàng giao cho các đại lý và lấy tiền hàng về nộp công ty. Chi là thủ quỹ nhận tiền từ Tuấn. Lợi dụng mối quan hệ quen biết nên nhiều lần sau khi nhận tiền thanh toán, Tuấn ôm luôn để đánh đề, tiêu xài cá nhân... Mỗi lần như thế, Tuấn nhắn tin cho Chi biết để nhờ Chi cất giấu các liên bản kê thu tiền (bản này lái xe và Chi mỗi người giữ một bản để đối chiếu). Vì tin tưởng Tuấn nên dù không được hưởng lợi gì cả Chi vẫn nghe theo. Tổng cộng lái xe này đã cùng Chi thụt két hơn một tỷ đồng của công ty. Ngoài ra, hơn 3,6 tỷ đồng mà các lái xe khác nhờ Tuấn về nộp giúp cũng bị Tuấn dùng chiêu trên cuỗm mất. Khi vụ thất thoát bị phát hiện, Chi đã đứng ra nhận là mình lấy rồi dùng tiền của gia đình trám vào. Sau đó, Tuấn buộc phải ký một giấy nhận là vay của gia đình Chi số tiền trên (khoảng 4,8 tỷ đồng) vì gia đình biết là do Tuấn chiếm đoạt. Tuy nhiên, đến thời hạn Tuấn không trả được nên gia đình Chi báo công an. Ban đầu khi phát hiện vụ án, cơ quan điều tra, VKSND TP Hà Nội xác định Tuấn và Chi phạm tội tham ô, trong đó Tuấn là chủ mưu, Chi đồng phạm do giúp sức tích cực. Tuy nhiên, sau đó hai cơ quan này đã thay đổi tội danh, tách Chi ra khởi tố, truy tố về tội cố ý làm trái quy định nhà nước gây hậu quả nghiêm trọng do không làm đúng các quy trình thủ tục gây thất thoát tài sản công ty. Xử sơ thẩm lần một vào cuối năm 2006, TAND TP Hà Nội đã nghiêng theo quan điểm này và phạt Chi năm năm tù tội cố ý làm trái. Giữa năm 2007, Tòa phúc thẩm TAND tối cao tại Hà Nội thấy vụ án còn nhiều mâu thuẫn cần xem xét lại để có cơ sở xử đúng người, đúng tội, tránh oan sai nên đã hủy án sơ thẩm. Điều tra lại vụ án, Công an TP Hà Nội thấy rằng khởi tố Chi tội tham ô mới chuẩn xác nên quay lại y như lần đầu tiên, chuyển tội danh của Chi từ cố ý làm trái thành tội tham ô tài sản. Xong hồ sơ, phía điều tra chuyển sang VKS để truy tố. Lần này, cáo trạng và luận tội của kiểm sát viên kiên quyết bảo vệ chuyện Chi phạm tội tham ô do đồng phạm với Tuấn. Chi đã giúp sức tích cực và nhờ có sự giúp sức này thì Tuấn mới có thể “ẵm” được tiền của công ty. Ngày 29-12-2008, xử sơ thẩm lần hai, TAND TP Hà Nội bác quy kết của VKS về tội tham ô. Một lần nữa tòa giữ lập trường cho rằng Chi chỉ phạm tội cố ý làm trái và chỉ phạt Chi ba năm tù so với phạt năm năm tù ở lần xử trước. Vụ án có vấn đề dân sự khá lý thú trong việc hoàn trả lại tiền cho gia đình Chi. Trước đó, Chi nhận mình lấy tiền của công ty nên đã cùng gia đình gom tiền trả lại công ty khoảng 4,8 tỷ đồng. Khi tòa xử, gia đình đề nghị phía công ty trả lại cho họ hơn 4,1 tỷ đồng sau khi đã trừ phần tiền của Chi ở trong đó. Xử sơ thẩm lần một, TAND TP Hà Nội cho rằng số tiền gia đình Chi nộp chỉ là vật chứng vụ án, không phải là tiền của Chi nên phía Vinamilk Hà Nội phải trả lại cho chủ. Ở phiên xử sơ thẩm lần hai, tòa cũng nhận định Chi và gia đình lo sợ Chi bị mất việc làm, ảnh hưởng danh dự nên gia đình mới nộp tiền khắc phục hậu quả cho Chi. Do vậy nhất thiết phía công ty phải trả lại cho gia đình Chi số tiền đang chiếm giữ. Về chuyện này, phía Vinamilk cực lực phản đối bởi theo họ đây là tiền mà Chi tự nguyện khắc phục hậu quả. Việc công ty phải trả lại cho gia đình Chi là trái với khoa học pháp lý và thực tiễn xét xử. Ý KIẾN CỦA BẠN?

0 nhận xét:

Đăng nhận xét