Biên giới Việt Nam- Campuchia

Dây là biên giới Việt Nam-Campuchia ở Đồng Tháp

Nguyễn văn Tiến

Đại học Luật Tp.HCM

Hình đi hội thảo ở Nha trang

Tôi đang ngồi giữa một bên là một bên là biển và một bên là trường đại học Nha trang

đồng tháp quê hương miền Tây

mời bạn cùng uống cà phê với chúng tôi

Hình kỷ niệm 15 năm thành lập ĐH Luật TPHCM

Mời bạn tham khảo một thoáng về gian hàng trưng bày của khoa Luật Dân sự

Thứ Ba, 31 tháng 8, 2010

Bài viết: sự im lặng đôi khi đáng sợ (ST)

Sự im lặng đôi khi rất đáng sợ!
Nếu ai đã từng xem qua bộ phim Sự im lặng của bầy cừu (phỏng theo tiểu thuyết cùng tên của tác giả Thomas Harris) chắc chắn sẽ đồng ý với tôi rằng sự im lặng đôi khi đáng sợ biết dường nào!
Người VN hiền hòa, nhã nhặn... điều đó không ai phủ nhận. Tuy nhiên, hình như rất nhiều người đã hiểu nhầm sự im lặng đồng nghĩa với những tính cách trên để rồi những câu chuyện “cười ra nước mắt” đã xảy ra.
Tôi làm quản lý tại một nhà hàng ở TP.HCM. Qua những lần phỏng vấn tuyển dụng nhân viên, tôi thấy các bạn trẻ VN thường có một điểm chung là luôn gật đầu đồng ý với những điều tôi nói và rất ít khi hỏi kỹ lại. Khi đề cập vấn đề lương bổng, họ cũng tránh không tranh luận nhiều mà thường nhường quyền quyết định lại cho tôi!
Tôi biết chuyện tiền nong là một việc khá nhạy cảm trong văn hóa VN nên thường hỏi rất tế nhị để có thể nghe được mức lương mà các ứng viên thật sự mong muốn nhằm tiện bề thỏa thuận, nhưng hầu như 90% trường hợp có câu trả lời là “sao cũng được” hoặc... im phăng phắc!
Hậu quả của việc im lặng nói trên là tôi từng “chết đứng” khi buổi đầu tiên tiếp nhận nhân viên đào tạo: danh sách có năm nhân viên được chọn nhưng chỉ một người tới! Lần đầu tiên bị rơi vào tình huống cực kỳ bất ngờ này tôi đã toát mồ hôi vì không biết đào đâu ra đủ người để phục vụ số lượng khách đông nghẹt!
Sau này tôi được biết những người bỏ việc chủ yếu do chê mức lương thấp, trong khi trước đó họ chính là người tự từ chối quyền đàm phán mức lương của mình. Và vấn đề đáng nói hơn nữa là khi bỏ việc họ cũng không hề điện thoại, nhắn tin trước cho chúng tôi.
Sự im lặng càng kinh khủng hơn khi xuất hiện trong các lớp học! Tôi đang dạy ngoại ngữ cho một vài trung tâm và thấy học viên ở các trung tâm này có một điểm chung là im lặng! Sau khi giảng bài, tôi thường hỏi có ai còn thắc mắc hoặc có vấn đề gì cần trao đổi và tôi luôn nhấn mạnh việc không hiểu bài là rất đỗi bình thường, không có gì phải ngại. Nhưng tất cả những gì tôi nhận lại chỉ là những nụ cười trừ và những cái lắc đầu nguầy nguậy.
Thú thật nhiều khi tôi và đồng nghiệp đi dạy mà cảm thấy thời gian trôi qua thật nặng nề khi cứ mãi một mình độc thoại. Nếu như giáo viên bên nước ngoài luôn thoải mái vì họ biết sức học của lớp tới đâu (do học sinh không bao giờ ngừng đặt câu hỏi, tranh luận sau mỗi bài giảng)... thì ở VN chúng tôi dạy mà cứ rơi vào trạng thái vô chừng vì không biết người học hiểu tới đâu, hiểu bao nhiêu!
Thậm chí có đồng nghiệp còn đùa rằng muốn thành công trong nghề dạy học tại VN giáo viên cần thiết phải có bằng thạc sĩ tâm lý cao cấp! Và tôi nghĩ các nhà quản lý cũng không ngoại lệ.
Một câu nói trong những lúc cần thiết nào phải là điều quá xa xỉ? Và nếu coi sự im lặng như vậy là thể hiện sự nhún nhường, lịch sự… thì có lẽ người Pháp chúng tôi (vốn nổi tiếng rất kỹ tính trong giao tiếp) cũng phải bó tay chịu thua!
CHRISTOPHE BOURGEONNIER
(người Pháp, quản lý nhà hàng Paris Saigon, TP.HCM)

Quy định về đào tạo vừa học vừa làm

BỘ GIÁO VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐH LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

QUY ĐỊNH
Đào tạo đại học hình thức vừa làm vừa học
(Ban hành kèm theo Quyết định số 197 /QĐ-ĐHL-KCQ ngày 29 tháng 02 năm 2008 của Hiệu trưởng Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh)

Chương I
NHỮNG QUY ĐỊNHCHUNG
Điều 1. Phạm vi điều chỉnh và đối tượng áp dụng
1. Bản quy định này quy định về đào tạo bậc đại học hệ vừa làm vừa học, bao gồm: tổ chức đào tạo; thi tốt nghiệp và công nhận tốt nghiệp; xử lý vi phạm.
2. Bản quy định này áp dụng cho các khoá đào tạo hệ vừa làm vừa học của Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh.
Điều 2. Chương trình giáo dục đại học
1. Chương trình giáo dục đại học ( sau đây gọi tắt là chương trình ) thể hiện mục tiêu giáo dục đại học; quy định chuẩn kiến thức, kỹ năng, phạm vi và cấu trúc nội dung đào tạo, phương pháp và hình thức đào tạo, cách thức đánh giá kết quả đào tạo đối với mỗi môn học, ngành học, trình độ đào tạo, bảo đảm yêu cầu liên thông với các chương trình giáo dục khác.
2. Chương trình đào tạo Cử nhân Luật hệ vừa làm vừa học được xây dựng trên cơ sở chương trình đào tạo Cử nhân Luật hệ chính quy.
3. Chương trình được cấu trúc từ các học phần thuộc hai khối kiến thức: giáo dục đại cương và giáo dục chuyên ngành.
Điều 3. Học phần và đơn vị học trình
1. Học phần là khối kiến thức tương đối trọn vẹn, thuận tiện cho người học tích luỹ trong quá trình học tập. Phần lớn học phần có khối lượng từ 2 đến 5 đơn vị học trình, được bố trí giảng dạy trọn vẹn trong một học kỳ. Kiến thức trong mỗi học phần phải gắn với một mức trình độ theo năm học thiết kế và được kết cấu riêng như một phần của môn học hoặc được kết cấu dưới dạng tổ hợp từ nhiều môn học. Từng học phần phải được ký hiệu bằng một mã riêng do trường quy định.
2. Có hai loại học phần: học phần bắt buộc và học phần tự chọn.
a) Học phần bắt buộc là học phần chứa đựng những nội dung kiến thức chính yếu của mỗi chương trình và bắt buộc học viên phải tích luỹ;
b) Học phần tự chọn là học phần chứa đựng những nôi dung kiến thức cần thiết, nhưng học viên được tự chọn theo hướng dẫn của trường nhằm đa dạng hoá hướng chuyên môn hoặc được tự chọn tuỳ ý để tích luỹ đủ số học phần quy định cho mỗi chương trình.
3. Đơn vị học trình được sử dụng để tính khối lượng học tập của học viên. Một đơn vị học trình được quy định bằng 15 tiết học lý thuyết; bằng 30-45 tiết thảo luận; bằng 45-90 giờ thực tập tại cơ sở; hoặc bằng 45-60 giờ làm tiểu luận, khoá luận tốt nghiệp.
4. Một tiết học được tính bằng 45 phút.


Chương II
TỔ CHỨC ĐÀO TẠO
Điều 4. Thời gian và kế hoạch đào tạo
1. Nhà trường tổ chức đào tạo theo khoá học, năm học. Khoá học là thời gian để học viên hoàn thành chương trình đào tạo Cử nhân Luật. Thời gian hoàn thành chương trình đào tạo Cử nhân Luật theo hình thức vừa làm vừa học là 4,5 năm (bốn năm rưỡi) đối với hệ văn bằng 1 và 3 năm (ba năm) đối với hệ văn bằng 2.
2. Căn cứ khối lượng kiến thức quy định cho chương trình đào tạo Cử nhân Luật, Hiệu trưởng phân bổ số học phần cho từng năm học, từng học kỳ. Tùy theo đặc thù của từng khóa học, Hiệu trưởng sẽ quyết định lịch học cả ngày hoặc học theo buổi (sáng, chiều, tối).
Đối với những lớp đào tạo theo hợp đồng đặt lớp tại cơ sở giáo dục địa phương, Hiệu trưởng căn cứ vào điều kiện tổ chức đào tạo cụ thể quyết định lịch trình học cho phù hợp.
3. Đầu khoá học, Phòng đào tạo không chính quy sẽ thông báo công khai về nội dung và kế hoạch học tập của chương trình đào tạo Cử nhân Luật; quy chế đào tạo; nghĩa vụ và quyền lợi của học viên, các hình thức đánh giá, thi, kiểm tra có thể áp dụng trong cả khoá học.
4. Phòng đào tạo không chính quy sẽ thông báo công khai lịch trình học của chương trình đào tạo Cử nhân Luật trong từng học kỳ, danh sách các học phần bắt buộc và tự chọn, đề cương chi tiết học phần và điều kiện để được đăng ký học cho từng học phần trước khi bắt đầu học kỳ 2 tuần; công bố lịch kiểm tra và thi, hình thức kiểm tra và thi các học phần chậm nhất là 3 tuần sau khi bắt đầu học môn đầu tiên của học kỳ.
5. Đầu mỗi môn học, giảng viên phụ trách học phần thông báo cho học viên về kế hoạch giảng dạy môn học, giáo trình, tài liệu có liên quan, phương pháp dạy và học, hình thức kiểm tra giữa học phần, cách thức làm tiểu luận và hình thức thi kết thúc học phần.
6. Thời gian tối đa được phép học để hoàn thành chương trình đào tạo Cử nhân luật bao gồm thời gian quy định cho chương trình quy định tại khoản 1 Điều này, cộng với thời gian tối đa học viên được phép tạm ngừng học quy định tại điểm a khoản 4 Điều 14 của Quy định này.
Điều 5. Đánh giá học phần
1. Điểm tổng hợp đánh giá học phần (gọi tắt là điểm học phần) bao gồm điểm đánh giá bộ phận và điểm thi kết thúc học phần. Điểm đánh giá bộ phận có trọng số bằng 20% của điểm học phần, điểm thi kết thúc học phần có trọng số bằng 80% của điểm học phần.
2. Điểm đánh giá bộ phận có thể là điểm kiểm tra giữa học phần hoặc điểm tiểu luận. Mỗi học phần sẽ tổ chức kiểm tra giữa học phần hoặc làm tiểu luận. Nếu tổ chức kiểm tra giữa học phần thì không tổ chức cho làm tiểu luận và ngược lại. Nếu tổ chức kiểm tra hoặc làm tiểu luận nhiều lần, thì điểm bộ phận là trung bình cộng của các lần kiểm tra hoặc làm tiểu luận (chỉ có một cột điểm bộ phận).
Đối với học phần có tổ chức thảo luận thì điểm đánh giá nhận thức và thái độ tham gia thảo luận được tính theo hai mức độ:
- Tích cực tham gia thảo luận và có kiến thức giỏi hoặc xuất sắc được cộng thêm tối đa là 2 điểm;
- Tích cực tham gia thảo luận và có kiến thức khá được cộng thêm tối đa là 1 điểm.
Điểm đánh giá nhận thức và thái độ tham gia thảo luận là điểm khuyến khích được cộng vào điểm đánh giá bộ phận nhưng tổng không quá 10 điểm.
Việc lựa chọn các hình thức đánh giá bộ phận và thi kết thúc học phần do giảng viên đề xuất, được Hiệu trưởng phê duyệt và phải được quy định trong đề cương chi tiết của học phần, đồng thời phải được công bố trên Website của Trường.
3. Điểm đánh giá bộ phận, điểm thi kết thúc học phần và điểm học phần được đánh giá theo thang điểm từ 0 đến 10, làm tròn đến phần nguyên thực hiện theo nguyên tắc: nếu có điểm lẻ dưới 0,5 thì quy tròn thành 0; có điểm lẻ từ 0,5 đến dưới 1,0 thì quy tròn thành 1,0.
4. Điểm học phần được phân loại như sau:
Loại đạt: điểm học phần từ 5 trở lên.
Loại không đạt: điểm học phần từ 4 trở xuống.
Điều 6. Tổ chức kiểm tra giữa học phần và viết tiểu luận.
1. Việc tổ chức kiểm tra giữa học phần được áp dụng đối với tất cả các học phần không tổ chức viết tiểu luận. Thời gian làm bài kiểm tra giữa học phần từ 15 đến 45 phút. Việc chấm bài kiểm tra giữa học phần do giảng viên phụ trách học phần thực hiện và phải công bố cho học viên biết trước khi kết thúc học phần.
2. Tổ trưởng bộ môn có trách nhiệm thống nhất trong bộ môn về danh mục vấn đề viết tiểu luận và hình thức của tiểu luận. Giảng viên phụ trách học phần sẽ chấm tiểu luận và công bố điểm tiểu luận cho học viên biết chậm nhất là sau hai tuần kể từ khi kết thúc học phần.
3. Học viên không có bài kiểm tra giữa học phần hoặc tiểu luận sẽ bị điểm 0 (không). Nếu có lý do chính đáng và được giảng viên phụ trách học phần đồng ý, học viên không có bài tiểu luận, không có bài kiểm tra giữa học phần được bố trí kiểm tra lại hoặc viết tiểu luận lại trước khi kết thúc học phần.
Trong trường hợp đặc biệt, nếu học viên vắng mặt trong lần kiểm tra lại thì làm đơn có xác nhận gửi cho Phòng đào tạo không chính quy xem xét giải quyết.
Học viên không có điểm đánh giá bộ phận vẫn được tham dự kỳ thi kết thúc học phần.
Điều 7. Dự thi kết thúc học phần
1. Học viên được dự thi kết thúc học phần nếu tham dự ít nhất 75% số tiết lên lớp thực tế quy định cho từng học phần và đã thực hiện đầy đủ nghĩa vụ về học phí và lệ phí khác (nếu có).
2. Học viên có đủ điều kiện dự thi kết thúc học phần phải dự thi theo đúng lịch do nhà trường quy định.
3. Học viên không đủ điều kiện dự thi hoặc bỏ thi không có lý do chính đáng bị nhận điểm 0 ở lần thi thứ nhất (kỳ thi chính).
4. Trong lần thi thứ nhất, nếu học viên có lý do chính đáng được đề nghị hoãn thi trong lần thi thứ nhất. Điểm thi lần thứ hai của những học viên này được tính là lần thi thứ nhất.
5. Học viên thi không đạt ở lần thi thứ nhất được dự thi lại lần thứ 2 ở kỳ thi phụ.
Điều 8: Điều kiện và thủ tục cho học viên xin hoãn thi kết thúc học phần
1. Học viên ốm đau, đi công tác đột xuất hoặc vì những lý do đặc biệt khác thì làm đơn gửi Phòng đào tạo không chính quy đề nghị hoãn thi (Các lớp tại đơn vị liên kết học viên gửi đơn cho bộ phận quản lý đào tạo của đơn vị liên kết) trước khi kết thúc học phần.
2. Học viên được hoãn thi muốn dự thi lần thi tiếp theo phải làm đơn đề nghị dự thi kèm giấy tờ chứng minh lý do hoãn thi gửi cho Phòng đào tạo không chính quy (nếu lớp mở tại địa phương thì học viên gửi đơn cho bộ phận quản lý đào tạo của đơn vị liên kết) trước thời gian thi ít nhất 15 ngày.
Điều 9. Đề thi kết thúc học phần
Việc làm đề thi, quản lý và in sao đề thi thực hiện theo “Quy định về làm đề thi, quản lý và in sao đề thi” được ban hành kèm theo Quyết định số 1844/QĐ-ĐHL ngày 12/12/2007 của Hiệu trưởng Trường đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh.
Điều 10. Quy trình xét điều kiện dự thi, hình thức thi, coi thi và chấm thi kết thúc học phần
1. Hình thức thi kết thúc học phần có thể là thi viết (trắc nghiệm hoặc tự luận), thi vấn đáp. Thời gian thi viết tối thiểu là 45 phút và tối đa là 120 phút.
2. Quy trình xét điều kiện dự thi, hình thức thi, coi thi và chấm thi kết thúc học phần do Hiệu trưởng quy định.
Điều 11. Công bố điểm học phần, khiếu nại việc nhập sai điểm, phúc khảo bài thi và lưu giữ bài thi.
1. Điểm học phần của học viên phải được ghi vào bảng điểm. Bảng điểm thi (hoặc Biên bản chấm thi) kết thúc học phần phải có đủ chữ ký của hai cán bộ chấm thi, trưởng bộ môn ký duyệt, được làm thành hai bản lưu giữ tại Phòng đào tạo không chính quy, văn phòng Khoa.
Các Khoa gửi điểm kiểm tra, điểm tiểu luận, điểm thi kết thúc học phần (bản chính) cho Phòng đào tạo không chính quy chậm nhất là 03 tuần kể từ ngày các Khoa nhận được bài thi. Phòng đào tạo không chính quy công bố điểm học phần cho học viên bằng hình thức thích hợp trong thời hạn 1 tuần kể từ khi nhận bảng điểm từ các Khoa.
2. Trong thời hạn 1 tuần kể từ ngày công bố điểm kiểm tra giữa kỳ, điểm tiểu luận, điểm thi học phần, nếu phát hiện có sai sót trong việc nhập điểm thì học viên có quyền đề nghị Phòng đào tạo không chính quy điều chỉnh điểm. Giảng viên phụ trách học phần và Phòng đào tạo không chính quy xem xét giải quyết việc điều chỉnh điểm bị sai sót trong thời hạn 1 tuần kể từ ngày nhận được đề nghị của học viên.
3. Trong thời hạn 1 tuần kể từ ngày công bố điểm thi học phần, học viên có quyền đề nghị phúc khảo bài thi kết thúc học phần tại Phòng đào tạo không chính quy (đối với các lớp mở tại địa phương thì học viên gửi đơn cho bộ phận quản lý đào tạo của đơn vị liên kết). Trong thời hạn 1 tuần kể từ ngày hết thời hạn nhận đơn phúc khảo, Phòng đào tạo không chính quy chuyển bài thi phúc khảo cho các Khoa; Trong thời hạn 1 tuần kể từ ngày nhận được bài thi phúc khảo, các Khoa chuyển kết quả phúc khảo bài thi cho Phòng đào tạo không chính quy để công bố cho học viên.
Trong thời hạn 3 ngày kể từ ngày công bố điểm thi tốt nghiệp, học viên có quyền đề nghị phúc khảo bài thi tại Phòng đào tạo không chính quy. Trong thời hạn 1 tuần kể từ thời điểm hết thời hạn phúc khảo, Phòng đào tạo không chính quy công bố kết quả phúc khảo.
Nhà trường không giải quyết yêu cầu xem lại bài thi.
4. Bài thi viết lưu giữ tại kho của Phòng đào tạo không chính quy. Bài kiểm tra giữa kỳ và tiểu luận lưu giữ tại Văn phòng Khoa. Thời gian lưu giữ các bài thi, bài kiểm tra giữa kỳ, tiểu luận là 02 năm kể từ ngày thi, ngày kiểm tra hoặc ngày nộp tiểu luận. Việc tiêu hủy bài thi, bài kiểm tra, tiểu luận phải thành lập hội đồng do Hiệu trưởng hoặc Phó Hiệu trưởng được Hiệu trưởng uỷ quyền làm Chủ tịch, Trưởng Phòng đào tạo không chính quy làm Uỷ viên thường trực và một số Uỷ viên khác.
Điều 12. Thi lại, thi trả nợ và bảo lưu kết quả học phần
1. Học viên thi không đạt hoặc bỏ thi không có lý do chính đáng ở lần thi thứ nhất, được dự thi lại lần thứ hai.
2. Học viên vắng mặt trên lớp quá mức quy định cho một học phần phải đăng ký học lại học phần đó.
3. Học viên thi lần hai vẫn không đạt, nếu được xét học tiếp lên năm học sau phải đăng ký học để thi trả nợ học phần cùng với lớp khác. Điều kiện dự thi và số lần được dự thi theo quy định tại khoản 1 Điều 7 và khoản 1 Điều này.
4. Trong thời hạn 15 ngày kể từ khi bắt đầu học kỳ, Phòng đào tạo không chính quy thông báo kế hoạch và thủ tục đăng ký học lại.
5. Học viên có quyền làm đơn (kèm bảng điểm) đề nghị Phòng đào tạo không chính quy bảo lưu kết quả một số học phần đã học có cùng trình độ, nội dung và thời lượng với học phần có trong chương trình đào tạo Cử nhân Luật.
Các học viên đã hoàn thành các khoá đào tạo ngắn hạn của trường, đã được cấp chứng chỉ các môn học có thể nộp đơn cho Phòng đào tạo không chính quy xem xét miễn các môn tương ứng trong chương trình học.
Đối với học phần tin học và ngoại ngữ, học viên khi tốt nghiệp phải đảm bảo khối lượng kiến thức do Trường quy định, nhà trường sẽ tổ chức kiểm tra trình độ cho mỗi khoá học 02 đợt (vào đầu và cuối khoá học) và xem xét tổ chức học tập hai học phần này khi học viên có yêu cầu.
Việc miễn học và miễn thi hoặc phải học bổ sung kiến thức các môn khoa học Mác – Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh được thực hiện theo Công văn số 4417/BGDĐT-ĐH&SĐH ngày 03 tháng 5 năm 2007 của Bộ Giáo dục và Đào tạo.
Học viên muốn bảo lưu kết quả, miễn học, miễn thi hoặc phải học bổ sung kiến thức của học phần nào thì phải làm đơn đề nghị gửi cho Phòng đào tạo không chính quy (đối với các lớp mở tại địa phương thì học viên gửi đơn cho bộ phận quản lý đào tạo của đơn vị liên kết) trước khi nhà trường tổ chức thi kết thúc học phần đó (thi lần 1).
Điều 13. Cách tính điểm trung bình chung học tập và xếp loại kết quả học tập
1. Điểm trung bình chung học tập của mỗi năm học, mỗi khoá học và điểm trung bình chung tất cả các học phần tính từ đầu khoá học được tính theo công thức sau và được tính đến hai chữ số thập phân:

Trong đó:
A là điểm trung bình chung học tập năm học, khoá học hoặc điểm trung bình chung các học phần tính từ đầu khóa học.
ai là điểm cao nhất trong các lần thi của học phần thứ i
ni là số đơn vị học trình của học phần thứ i
N là tổng số học phần.
2. Điểm trung bình chung học tập là căn cứ để xét học viên bị buộc thôi học, tạm ngừng học, được học tiếp và xét tốt nghiệp.
3. Xếp loại kết quả học tập:
a) Loại đạt: Từ 9 đến 10: Xuất sắc
Từ 8 đến cận 9: Giỏi
Từ 7 đến cận 8: Khá
Từ 6 đến cận 7: Trung bình khá
Từ 5 đến cận 6: Trung bình
b) Loại không đạt: Từ 4 đến cận 5: Yếu
Dưới 4: Kém
* Ghi chú: Điểm miễn không tính vào điểm trung bình chung của khóa học và năm học.
Điều 14. Điều kiện được học tiếp, bị buộc thôi học, tạm ngừng học và nghỉ học tạm thời
1. Trước khi vào năm học mới, nhà trường căn cứ vào số học phần đã học, điểm trung bình chung học tập của các năm học đã qua và điểm trung bình chung tất cả các học phần tính từ đầu khoá học để xét việc học tiếp, tạm ngừng học, nghỉ học tạm thời hoặc bị buộc thôi học của học viên.
2. Học viên được học tiếp lên năm học sau nếu có đủ các điều kiện sau đây:
a) Có điểm trung bình chung học tập của năm học từ 5,00 trở lên;
b) Có khối lượng các học phần bị điểm dưới 5 tính từ đầu khoá học không quá 25 đơn vị học trình.
Nếu còn những học phần có điểm dưới 5 học viên phải học lại và thi trả nợ ở các năm học tiếp theo.
3. Học viên bị buộc thôi học nếu rơi vào một trong các trường hợp sau:
a) Có điểm trung bình chung học tập của năm học dưới 3,50;
b) Có điểm trung bình chung tất cả các học phần tính từ đầu khoá học dưới 4,00 sau 2 năm học, dưới 4,50 sau 3 năm học và dưới 4,80 sau từ 4 năm học trở lên;
c) Đã hết thời gian tối đa được phép học tại Trường theo quy định tại khoản 6 Điều 4 của Quy định này;
d) Bị kỷ luật lần thứ hai vì lý do đi thi hộ hoặc nhờ người thi hộ theo quy định tại khoản 2 Điều 24 của Quy định này.
Chậm nhất là 1 tháng sau khi học viên có quyết định buộc thôi học, nhà trường sẽ thông báo trả về địa phương nơi học viên có hộ khẩu thường trú, hoặc về nơi công tác. Học viên không tốt nghiệp hoặc bị buộc thôi học vì lý do học tập thì được quyền xin xét chuyển qua hệ trung học pháp lý hình thức vừa làm vừa học của Trường và được bảo lưu một phần hoặc toàn bộ kết quả học tập.
4. Học viên không thuộc đối tượng quy định tại khoản 2 và 3 của Điều này phải tạm ngừng học để có thời gian củng cố kiến thức, cải thiện kết quả học tập. Thời gian tạm ngừng học được quy định như sau:
a) Học viên không thuộc đối tượng ưu tiên trong đào tạo được ngừng học tối đa không quá 4 năm cho toàn khoá học. Học viên hệ văn bằng 2 được ngừng học tối đa không quá 3 năm.
b) Trong thời gian tạm ngừng học, học viên phải đăng ký học lại các học phần chưa đạt.
5. Học viên được quyền gửi đơn đến Hiệu trưởng xin nghỉ học tạm thời và bảo lưu kết quả đã học trong các trường hợp sau đây:
a) Được động viên vào lực lượng vũ trang;
b) Bị ốm đau hoặc tai nạn buộc phải điều trị thời gian dài có giấy xác nhận của cơ quan y tế cấp huyện hoặc tương đương trở lên;
c) Được điều động công tác;
d) Nghỉ thai sản ;
e) Vì nhu cầu cá nhân. Trường hợp này, học viên phải học ít nhất được một học kỳ và phải đạt điểm trung bình chung các học phần tính từ đầu khóa học không dưới 5,00. Thời gian nghỉ học tạm thời vì nhu cầu cá nhân phải được tính vào thời gian tối đa được phép học quy định tại khoản 6 Điều 4 của Quy định này.
Học viên nghỉ học tạm thời khi muốn trở lại học tiếp tại trường phải nộp đơn gửi Phòng đào tạo không chính quy ít nhất hai tuần trước khi bắt đầu năm học mới hay học kỳ mới.
Điều 15. Ưu tiên trong đào tạo
Học viên thuộc đối tượng ưu tiên theo quy định tại Quy chế tuyển sinh hệ vừa làm vừa học hiện hành được cộng thêm thời gian tạm ngừng học để củng cố kiến thức, cải thiện kết quả học tập. Thời gian được tạm ngừng học tối đa không quá 5 năm cho toàn khoá học. Học viên hệ văn bằng 2 được ngừng học tối đa không quá 4 năm.
Điều 16. Chuyển trường
1. Học viên được xét chuyển trường nếu có các điều kiện sau đây:
a) Trong thời gian học tập nếu bản thân chuyển địa điểm làm việc hoặc có hoàn cảnh khó khăn cần thiết phải chuyển trường để có điều kiện học tập;
b) Trường xin chuyển đến và trường xin chuyển đi trong cùng một nhóm ngành đào tạo mà học viên đang học;
c) Được sự đồng ý của Hiệu trưởng trường xin chuyển đi và trường xin chuyển đến.
2. Học viên không được phép chuyển trường trong các trường hợp sau:
a) Học viên năm thứ nhất và năm cuối khoá;
b) Học viên đang chịu mức kỷ luật từ cảnh cáo trở lên;
c) Học viên ở ngoài vùng tuyển quy định của trường.
3. Học viên xin chuyển trường phải làm hồ sơ theo quy định của nhà trường.
4. Trên cơ sở so sánh chương trình đào tạo ở trường xin chuyển đi và trường xin chuyển đến, Hiệu trưởng trường có học viên xin chuyển đến quy định năm học và số học phần mà học viên phải học bổ sung.
Điều 17: Chuyển lớp trong phạm vi của trường
Trong thời gian học tập nếu bản thân chuyển địa điểm làm việc hoặc có hoàn cảnh khó khăn cần thiết phải chuyển lớp để có điều kiện học tập thì học viên có quyền đề nghị chuyển sang học ở lớp có tiến độ học tương ứng. Đơn đề nghị chuyển lớp phải kèm lý do chuyển lớp có sự chứng minh hợp lý. Phòng đào tạo không chính quy xem xét trình Hiệu trưởng quyết định việc chuyển lớp.



Chương III
THI TỐT NGHIỆP VÀ CÔNG NHẬN TỐT NGHIỆP
Điều 18. Hình thức và nội dung thi tốt nghiệp
1. Hình thức thi tốt nghiệp: có 02 hình thức
a) Làm và bảo vệ khóa luận tốt nghiệp;
b)Thi tốt nghiệp các môn chuyên nghành;
2. Điều kiện để làm khoá luận: học viên được làm khoá luận nếu thoả mãn 02 điều kiện sau đây:
Điểm Trung bình chung của các môn ở lần thi thứ nhất đạt từ 6,5 trở lên;
Số lượng học viên làm Khoá luận tốt nghiệp chiếm không quá 15%/tổng số học viên của lớp (khoá) học đó; Trong trường hợp số người có điểm trung bình chung đạt từ 6.5 trở lên lớn hơn 15%, nguyên tắc áp dụng là lấy điểm từ cao xuống thấp, cho đến đủ 15%. Trường hợp học viên bằng điểm nhau ở mức cuối cùng (=15%), thì sẽ lấy tất cả số học viên có điểm bằng nhau;
Học viên có quyền từ chối làm khoá luận tốt nghiệp để dự thi tốt nghiệp các môn thuộc khối kiến thức chuyên ngành; trong trường hợp này, học viên phải nộp đơn cho Phòng đào tạo không chính quy trong vòng 05 ngày kể từ ngày Phòng đào tạo không chính quy công bố danh sách được làm khoá luận tốt nghiệp.
3. Nội dung thi tốt nghiệp:
Nội dung thi tốt nghiệp thuộc khối kiến thức chuyên ngành bao gồm hai phần: phần kiến thức cơ sở ngành và phần kiến thức chuyên môn; các phần kiến thức này được tổng hợp từ một số học phần bắt buộc của chương trình đào tạo;
4. Khối lượng kiến thức của thi tốt nghiệp:
Khối lượng kiến thức của khóa luận tốt nghiệp hoặc thi tốt nghiệp không quá 20 đơn vị học trình;
Điều 19. Điều kiện dự thi tốt nghiệp
Học viên hội đủ các điều kiện sau đây thì được dự thi tốt nghiệp:
1. Về đạo đức:
a) Tính đến thời điểm dự thi tốt nghiệp không bị kỷ luật từ mức đình chỉ học tập;
b) Không đang trong thời gian bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
2. Về học tập: đã học đủ các học phần quy định cho chương trình và không có học phần nào bị điểm dưới 5.
3. Về bằng cấp: đã nộp bản sao các loại văn bằng tốt nghiệp phù hợp với văn bằng đã nộp khi dự thi tuyển sinh (hoặc xét tuyển) vào trường cho Phòng đào tạo không chính quy, gồm:
- Đối với các lớp văn bằng 1: nộp bản sao từ sổ gốc bằng Phổ thông trung học (hoặc tương đương), Cao đẳng, Đại học;
- Đối với các lớp văn bằng 2: nộp bản sao từ sổ gốc bằng đại học và bản sao bằng Phổ thông trung học (hoặc tương đương).
Điều 20. Hội đồng thi và xét tốt nghiệp của trường
1. Thành phần hội đồng thi và xét tốt nghiệp của trường bao gồm:
a) Chủ tịch là Hiệu trưởng hoặc Phó Hiệu trưởng được Hiệu trưởng ủy quyền làm chủ tịch;
b) Phó chủ tịch là Phó Hiệu trưởng;
c) Thường trực hội đồng là Trưởng Phòng đào tạo không chính quy;
d) Các ủy viên là các Lãnh đạo các phòng, khoa có liên quan.
2. Nhiệm vụ của Hội đồng thi và xét tốt nghiệp của trường:
a) Quyết định hình thức thi tốt nghiệp;
b) Duyệt danh sách học viên đủ điều kiện dự thi tốt nghiệp và danh sách học viên đủ điều kiện làm khóa luận tốt nghiệp;
c) Xét công nhận tốt nghiệp.
3. Hiệu trưởng ra quyết định thành lập Hội đồng thi và xét tốt nghiệp.
Điều 21. Chấm khóa luận tốt nghiệp và chấm thi tốt nghiệp
1. Hiệu trưởng quyết định thành lập các hội đồng chấm khóa luận tốt nghiệp, chấm thi tốt nghiệp. Số thành viên của hội đồng có thể là 3, hoặc 5, hoặc 7, trong đó có chủ tịch và thư ký. Thành viên của hội đồng là giảng viên của trường hoặc có thể mời thêm những người có chuyên môn phù hợp ở ngoài trường;
2. Đối với hình thức bảo vệ khóa luận tốt nghiệp, sau khi học viên bảo vệ và trả lời những câu hỏi, các thành viên của hội đồng cho điểm theo phiếu. Điểm đánh giá khóa luận tốt nghiệp là trung bình cộng các điểm của từng thành viên hội đồng, người phản biện và người hướng dẫn, được làm tròn điểm đến phần nguyên.
3. Thi tốt nghiệp khối kiến thức chuyên ngành có thể theo hình thức thi viết hoặc vấn đáp. Thời gian thi viết tối đa là 180 phút cho mỗi học phần. Việc ra đề thi, tổ chức thi, coi thi, chấm thi theo hình thức thi viết do Hiệu trưởng quy định.
4. Kết quả bảo vệ khóa luận khóa luận tốt nghiệp hoặc chấm thi tốt nghiệp khối kiến thức chuyên ngành theo hình thức vấn đáp phải được công bố sau mỗi buổi bảo vệ hoặc mỗi buổi thi. Kết quả thi viết được công bố chậm nhất là 10 ngày sau khi thi.
Điểm bảo vệ khóa luận tốt nghiệp hoặc điểm thi tốt nghiệp khối kiến thức chuyên ngành được tính vào điểm trung bình chung học tập toàn khóa để xếp loại tốt nghiệp.
Học viên bảo vệ khóa luận tốt nghiệp hoặc thi tốt nghiệp khối kiến thức chuyên ngành nếu có điểm dưới 5 (sau khi đã trung bình cộng điểm của từng thành viên hội đồng đối với bảo vệ khóa luận) được nhà trường tổ chức cho bảo vệ hoặc thi lại trong thời gian từ không quá 6 tháng sau khi trường công bố kết quả. Nội dung thi, hình thức thi, ra đề thi, tổ chức thi, chấm thi, tổ chức bảo vệ khóa luận tốt nghiệp, xét và đề nghị công nhận tốt nghiệp cho những học viên này được thực hiện như ở kỳ bảo vệ chính hoặc kỳ thi chính và do Hiệu trưởng quy định.
Điều 22. Điều kiện xét tốt nghiệp, công nhận tốt nghiệp
1. Những học viên có đủ điều kiện sau thì được xét tốt nghiệp:
a) Cho đến thời điểm xét tốt nghiệp, học viên không đang trong thời gian bị truy cứu trách nhiệm hình sự;
b) Điểm bảo vệ khóa luận tốt nghiệp hoặc điểm thi tốt nghiệp khối kiến thức chuyên ngành đạt từ 5 điểm trở lên.
Căn cứ đề nghị của Hội đồng thi và xét tốt nghiệp, Hiệu trưởng ký quyết định công nhận tốt nghiệp cho những học viên đủ điều kiện theo quy định.
Điều 23. Cấp bằng tốt nghiệp, xếp hạng tốt nghiệp
1. Việc cấp bằng và các vấn đề liên quan thực hiện theo Quy chế văn bằng chứng chỉ của hệ thống giáo dục quốc dân ban hành kèm theo quyết định số 33/2007/QĐ-BGD-ĐT ngày 20/6/2007 của Bộ giáo dục và đào tạo.
2. Xếp hạng tốt nghiệp được xác định theo điểm trung bình chung học tập của toàn khóa học theo quy định tại khoản 3 điều 13 của quy định này.
Hạng tốt nghiệp của những học viên có kết quả học tập toàn khóa loại xuất sắc và giỏi sẽ bị giảm đi một mức nếu rơi vào các trường hợp sau:
a) Có thời gian học chính thức tại trường vượt quá 4.5 năm;
b) Có khối lượng của các học phần phải thi lại vượt quá 5% so với tổng số đơn vị học trình quy định cho toàn khóa học;
c) Bị kỷ luật trong thời gian học tập từ mức cảnh cáo trở lên.
1. Kết quả học tập của học viên được ghi vào bảng điểm theo từng học phần;
2. Những học viên chưa hoàn thành khóa luận tốt nghiệp, các môn thi tốt nghiệp nhưng đã hết thời gian tối đa được phép học, trong thời hạn 3 năm tính từ ngày kết thúc thời gian tối đa được phép học, được trở về trường trả nợ để có đủ điều kiện xét tốt nghiệp cùng học viên khóa dưới.
3. Học viên không tốt nghiệp được cấp giấy chứng nhận các học phần đã học trong chương trình đào tạo của trường. Những học viên này nếu có nhu cầu được quyền làm đơn xin phép chuyển qua các chương trình đào tạo theo hình thức vừa làm vừa học ở trình độ thấp hơn.
Điều 24. Chế độ báo cáo và kiểm tra
1. Trước kỳ thi tốt nghiệp 10 ngày, Hiệu trưởng phải báo cáo với Bộ giáo dục và đào tạo về kế hoạch tổ chức thi tốt nghiệp để có kế hoạch chỉ đạo công tác giám sát, kiểm tra và thanh tra.
2. Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày kết thúc kỳ thi tốt nghiệp, Hiệu trưởng phải báo cáo với Bộ giáo dục và đào tạo về tình hình tổ chức đào tạo, tổ chức kỳ thi tốt nghiệp, quyết định công nhận tốt nghiệp, danh sách học viên được công nhận và không công nhận tốt nghiệp, những vấn đề đặc biệt khác có liên quan đến thi và công nhận tốt nghiệp của trường.

Chương IV
XỬ LÝ VI PHẠM
Điều 25. Xử lý kỷ luật đối với học viên vi phạm các quy định về thi và kiểm tra.
1. Học viên vi phạm Quy định trong khi thi giữa học phần, thi kết thúc học phần, thi tốt nghiệp, viết tiểu luận tốt nghiệp, viết khóa luận tốt nghiệp .v.v... sẽ bị xử lý kỷ luật đối với từng học phần vi phạm.
2. Học viên đi thi hộ hoặc nhờ người khác thi hộ trong khi thi giữa học phần, thi kết thúc học phần, thi tốt nghiệp, viết tiểu luận tốt nghiệp, viết khóa luận tốt nghiệp .v.v... đều bị xử lý kỷ luật ở mức đình chỉ học tập 01 (một) năm nếu vi phạm lần thứ 1 và buộc thôi học nếu vi phạm lần thứ 2.
3. Trừ trường hợp quy định tại khỏan 2 Điều này, mức độ sai phạm và khung xử lý kỷ luật đối với học viên vi phạm được thực hiện theo các quy định tại Điều 26 của Quy định này.
Điều 26. Các hình thức xử lý kỷ luật đối với học viên vi phạm quy định trong khi thi, kiểm tra.
Đối với những học viên vi phạm quy định đều phải lập biên bản và tùy mức độ nặng nhẹ xử lý kỷ luật theo các hình thức sau đây:
1. Khiển trách: Áp dụng đối với những học viên phạm lỗi một lần trong khi thi, kiểm tra: Nhìn bài, trao đổi với người khác (hình thức này do cán bộ coi thi quyết định). Học viên bị khiển trách trong khi thi, kiểm tra học phần nào sẽ bị trừ 25% số điểm thi, kiểm tra của học phần đó.
2. Cảnh cáo đối với các học viên vi phạm một trong các lỗi sau đây:
a. Đã bị khiển trách một lần trong giờ thi, kiểm tra học phần đó vẫn tiếp tục vi phạm Quy định.
b. Trao đổi bài làm hoặc giấy nháp cho người khác.
c. Chép bài của người khác; Những bài thi đã có kết luận là giống nhau thì xử lý như nhau. Nếu người bị xử lý có đủ bằng chứng chứng minh mình bị quay cóp thì cán bộ coi thi có thể xem xét giảm từ mức kỷ luật cảnh cáo xuống mức khiển trách.
Người bị kỷ luật cảnh cáo trong khi thi, kiểm tra học phần nào sẽ bị trừ 50% số điểm thi của học phần đó.
Hình thức kỷ luật cảnh cáo do cán bộ coi thi quyết định, lập biên bản, thu tang vật và ghi rõ hình thức kỷ luật trong biên bản.
Phòng đào tạo không chính quy căn cứ theo biên bản xử lý vi phạm để trừ điểm đối với bài thi của học viên vi phạm.
3. Đình chỉ thi đối với các học viên vi phạm một trong các lỗi sau đây:
a. Đã bị cảnh cáo một lần nhưng trong giờ thi, kiểm tra học phần đó vẫn tiếp tục vi phạm Quy định;
b. Mang tài liệu trái phép vào phòng thi; phương tiện kỹ thuật thu, phát, truyền tin, ghi âm, ghi hình, thiết bị chứa đựng thông tin có thể lợi dụng để làm bài thi; vũ khí, chất gây nổ, gây cháy, các vật dụng gây nguy hại khác;
c. Đưa đề thi ra ngoài khu vực thi hoặc nhận bài giải từ ngoài vào phòng thi;
d. Viết vẽ những nội dung không liên quan đến bài thi;
đ. Có hành động gây gổ, đe dọa, xúc phạm cán bộ có trách nhiệm trong kỳ thi hay đe dọa học viên khác;
Hình thức đình chỉ thi do hai cán bộ coi thi buổi thi quyết định.
Việc xử lý kỷ luật phải được công bố cho học viên biết. Nếu học viên không ký tên vào biên bản thì hai cán bộ coi thi ký và ghi rõ họ tên vào biên bản. Học viên bị kỷ luật đình chỉ thi trong khi thi, kiểm tra sẽ bị điểm 0 (không) học phần đó; phải nộp bài làm và phải ra khỏi phòng thi ngay sau khi có ý kiến của cán bộ coi thi.

Chương V
ĐIỀU KHOẢN THI HÀNH
Điều 27: Hiệu lực của quy định.
1. Quy định này có hiệu lực từ ngày Hiệu trưởng ký quyết định ban hành và được áp dụng cho các lớp, khóa từ năm tuyển sinh năm 2007.
2. Đối với các lớp, khoá từ năm 2005 về trước, vẫn áp dụng các quy định trước đây; Trong một số trường hợp cụ thể nếu việc áp dụng quy định này có lợi cho Học viên thì việc áp dụng đó sẽ do Hiệu trưởng quyết định.
3. Đối với các khoá năm 2006, áp dụng các quy định trước đây, riêng về điều kiện thi tốt nghiệp áp dụng quy định này.
4. Trong quá trình tổ chức thực hiện, nếu có vướng mắc, các đơn vị và cá nhân phản ánh kịp thời với Phòng đào tạo không chính quy để trình Hiệu trưởng xem xét, quyết định.

HIỆU TRƯỞNG
(đã ký)
PGS. TS. Mai Hồng Quỳ


Đóng cửa sổ

Đề thi thi hành án mẫu tham khảo

ĐỀ THI MÔN THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
Thời gian: 60 phút. Được sử dụng tài liệu
I. Lý thuyết (6 điểm)
Trả lời đúng hoặc sai và giải thích các nhận định sau:
1. Đương sự yêu cầu thi hành án phải là người có năng lực hành vi dân sự.
2. Cơ quan thi hành án chỉ ra quyết định thi hành án khi có đương sự yêu cầu.
3. Chỉ có Trung tâm dịch vụ bán đấu giá mới có thẩm quyền bán đấu giá tài sản bị kê biên để thi hành án.
4. Biện pháp trừ vào thu nhập của người phải thi hành án được áp dụng khi người phải thi hành án không tự nguyện thi hành án.
5. Nhiên liệu là tài sản không được kê biên
6. Tài sản sau khi kê biên và không bán được thì trả lại cho người phải thi hành án




II.Bài tập (4 điểm)
Theo Bản án số 01 ngày 01.05.2007, anh A có trách nhiệm giao cho anh B mảnh đất thửa số 02, diện tích 1000 m2, tọa lạc tại xã X, huyện Y, tỉnh K. Ngày 01.06.2007, anh B đã yêu cầu Cơ quan thi hành án ra quyết định thi hành. Do anh A không tự nguyện nên Cơ quan thi hành án ra quyết định cưỡng chế.
Tại thực địa, sau khi đo đạt thì diện tích đất chỉ còn 800 m2. Lý do của việc thiếu 200 m2 là mảnh đất này nằm sát bờ sông nên bị sạt lở theo dòng chảy của nước sông. Cơ quan thi hành án đã tiến hành bàn giao đất cho anh B nhưng anh không nhận vì không đúng với diện tích theo bản án tuyên.
Xét thấy việc thi hành án đã thực hiện xong, Cơ quan thi hành ra quyết định kết thúc việc thi hành án. Anh B đã khiếu nại quyết định trên.
Theo Anh, Chị Cơ quan thi hành ra quyết định kết thúc việc thi hành án như trên là đúng hay sai? Tại sao?

Đề thi hngđ mẫu tham khảo

ĐỀ THI MÔN LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
Thời gian: 60 phút. Được sử dụng tài liệu

I. Lý thuyết (6đ)
Trả lời đúng hoặc sai và giải thích các nhận định sau:
1. Kết hôn vi phạm sự tự nguyện là kết hôn trái pháp luật
2. UBND cấp xã, phường, thị trấn chỉ có thẩm quyền đăng ký kết hôn giữa công dân Việt Nam với nhau
3. Vợ và chồng có thể có tài sản chung trước thời kỳ hôn nhân
4. Thu nhập của vợ hoặc chồng sau khi chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân là tài sản riêng của mỗi bên
5. Con dưới 9 tuổi khi định đoạt tài sản của mình phải có sự đồng ý của cha mẹ
6. Khi người được cấp dưỡng thành niên thì việc cấp dưỡng chấm dứt

II.Bài tập 4đ
Ông A và bà B có ba người con là bà C (sinh năm 1940) và ông D (sinh năm 1946), Ông X sinh năm 1950. Ông D có vợ là bà E chết năm 1960.
Bà C có một người con là anh K (sinh năm 1960). Anh K có một người con là cô H (sinh năm 1980). Ông D và cô H thương yêu nhau và muốn tiến đến hôn nhân.
Theo anh (chị) Ông D và cô H có kết hôn được với nhau không? Tại sao?

Bài viết: Hậu trăng mật có đắng

HẬU TRĂNG MẬT CÓ ĐẮNG?
1. Tôi sẽ ở nhà chồng. Buổi sáng đầu tiên làm vợ, tôi có phải xuống bếp làm điểm tâm và quét dọn nhà cửa để đúng phận làm dâu?
- Điều này tùy thuộc vào điều kiện gia đình, tính cách của mẹ chồng, thói quen của gia đình chồng, vào “giá trị” của cô dâu và còn tùy thuộc vào “quyền uy” của chồng mình nữa. Làm dâu không phải cứ nấu ăn, quét dọn nhà cửa. Nhưng nếu có thể, đó cũng là cách thức “lấy điểm” hay nhất rồi sau đó... quên cũng được.
2. Nếu có một xung đột giữa vợ và mẹ chồng, chồng phải làm sao để được lòng vợ mà cũng đẹp lòng mẹ?
- Thì phải cố gắng “nịnh” cả hai chứ sao! Việc nịnh như thế nào tùy thuộc tài năng của chồng và các đặc điểm chủ quan của mẹ cũng như vợ.
3. Những rắc rối thường gặp sau thời kỳ hậu trăng mật là gì? Có thể chỉ chúng tôi vài chiêu để đối phó hiệu quả với những rắc rối này?
- Thời kỳ hậu trăng mật có thể có một số rắc rối sau khi mật đã... cạn hoặc không còn ngọt như thuở mới cưới. Tính cách và các khiếm khuyết của hai người sẽ được bộc lộ hoàn toàn vì “đâu còn gì để giấu” nên có thể làm người kia thất vọng. Những rắc rối có thể xuất phát từ các thói quen của mỗi người, từ việc không thống nhất cách thức kiếm tiền và giữ tiền, từ các mối quan hệ với gia đình hai bên, từ chuyện ăn chuyện ngủ, từ... mọi thứ trên đời. Có thể khi bức màn nhung đã được gỡ xuống thì hai người phải đối diện với “sự thật phũ phàng” nên nếu không khéo sẽ có cảm giác chịu đựng lẫn nhau. Để đối phó với các rắc rối có thể xảy ra này, trước tiên cần tiếp tục... lãng mạn như thời trăng mật, nếu khó quá thì cố gắng thích ứng để... sống chung với lũ!
4. Hóa giải những sở thích trái ngược nhau trong cuộc sống chung như thế nào? Có phải một người phải chịu hi sinh thì mới mong không xảy ra mâu thuẫn gia đình?
- Nếu cứ mãi hi sinh để rồi chịu đựng thì sẽ có ngày vỡ bờ vì tức nước. Hãy nói ra điều mình muốn, bộc lộ cảm xúc để được chia sẻ và nhận được sự hợp tác bảo toàn hạnh phúc. Điều quan trọng là mỗi người phải có thiện chí với nhau và “chín bỏ làm mười”.
5. Chồng tương lai muốn có con ngay sau khi cưới nhưng tôi chưa muốn vì còn phải học thêm để thăng tiến. Điều này có sai không?
- Điều này không sai nhưng có thể gây căng thẳng. Cần thẳng thắn và tình cảm trao đổi với “người ta” về kế hoạch của hai người để được chia sẻ và thống nhất... lộ trình.
6. Tôi phải thực hiện việc “làm chủ gia đình” bằng những hành động cụ thể gì ngay sau ngày cưới?
- Làm chủ gia đình trước hết chính là làm chủ bản thân mình, làm chủ không gian mình sống... Hãy làm đúng vai trò của mình với một tình cảm chân thành, đó cũng là cách thức làm chủ hợp lý vì qua đó các thành viên khác cũng sẽ noi gương mình làm đúng vai trò của họ.


. Các chú rể Ấn làm việc ở nước ngoài không còn được ưa chuộng
Suy thoái kinh tế không tác động tiêu cực đến tình yêu của giới trẻ Ấn Độ, tuy nhiên lại tạo ra nhiều đổi thay đối với các cuộc hôn nhân sắp đặt.
Trước đây, các cô gái Ấn thích chọn ông chồng từng đi du học, có công việc thu nhập cao ở các nước phương Tây để có thể mang nhiều tiền về cho vợ hoặc bảo lãnh vợ sang định cư tại các nước đó.
Tuy nhiên, hiện giờ các chú rể như thế không còn hấp dẫn đối với phụ nữ Ấn. Theo khảo sát của Shaadi.com, một trang mai mối hôn nhân thu hút khoảng 14 triệu người trên toàn thế giới, nhu cầu tìm kiếm bạn đời với các tiêu chuẩn trên đã giảm khoảng 20-30% kể từ khi diễn ra suy thoái kinh tế.
Lý giải điều này, Gupta cho rằng do suy thoái kinh tế không tác động mạnh đến Ấn Độ bằng các quốc gia khác, một bộ phận không ít nam giới Ấn Độ đang làm việc ở nước ngoài muốn quay về nước làm việc.
Gupta thích chồng mình lập nghiệp ở quê nhà vì tin rằng công việc ở đây ổn định hơn nhiều. Mẹ cô, người hỗ trợ việc “tuyển phu” cho con gái, cũng đồng tình với ý kiến đó: "Giả sử con rể tôi không tìm được việc ở nước ngoài, phải quay về Ấn Độ làm lại từ đầu, thì thà hai đứa chúng nó cứ sống và làm việc ở đây. Vả lại có con gái kề cận dù sao cũng thích hơn”.
2. Hôn nhân mai mối vẫn tồn tại nhưng được hỗ trợ bằng công nghệ hiện đại
Hôn nhân mai mối vẫn còn phổ biến ở Ấn Độ và các bậc song thân vẫn giữ vai trò chủ động trong việc chọn lựa bạn đời cho con.
Theo truyền thống, cha mẹ sẽ “đánh tiếng” cho bạn bè biết rằng họ đang tìm người xứng đôi vừa lứa để dựng vợ gả chồng cho con mình. Tuy nhiên, một số phụ huynh lại nhờ đến các dịch vụ mai mối hôn nhân. Những người trung gian nắm trong tay hàng loạt bản tự giới thiệu đính kèm hình ảnh các cô cậu “đủ tiêu chuẩn” do gia đình đăng ký sử dụng dịch vụ này.
Công nghệ hiện đại dần len vào mọi ngóc ngách cuộc sống người dân Ấn Độ, do đó không ít các cô cậu trẻ tuổi tự mình dò kiếm đối tượng trên mạng. Các trang web mai mối hôn nhân rất được ưa chuộng vì có thể giới thiệu một số lượng lớn “ứng cử viên” tiềm năng.
3. Các cô dâu Ấn chọn chồng công chức
Shweta Gupta đang học cao học tại Mumbai. Cô rất tự tin mình sẽ tìm được một công việc ưng ý ở Ấn Độ, đó cũng là lý do khiến cô không muốn liều lĩnh lấy chồng và sang sống ở nước ngoài.
"Phụ nữ dần tìm được tiếng nói trong xã hội Ấn Độ. Xu hướng đó biểu hiện ở việc họ tự quyết định chỗ ở và làm việc, lựa chọn người bạn đời và cả hệ thống giá trị gia đình mà họ muốn gắn bó”, Rakshit cho biết.
Phụ nữ Ấn thấy thoải mái khi có nhiều cơ hội tại quê hương mình. Họ không có cảm giác cần phải ra nước ngoài mưu cầu hạnh phúc.
Hệ quả là các quý ông làm việc trong các cơ quan nhà nước trở nên “đắt giá”, vì theo nhiều người Ấn, các công việc này có vẻ ổn định hơn. Khảo sát của Shaadi.com cho thấy nhu cầu tìm kiếm các chàng rể công chức tăng khoảng 45% so với năm vừa qua.
4. Nam giới Ấn Độ thích vợ mình đi làm
Trước đây, theo truyền thống Ấn Độ, nam giới chỉ chọn vợ làm nội trợ. Tuy nhiên, hiện giờ các chàng lại có khuynh hướng tìm cho mình một cô dâu có việc làm hẳn hoi.
Anish Sapra, 27 tuổi, đã “lùng sục” một cô vợ như thế ròng rã mười tháng nay. Anh cho biết: “Có bà xã đi làm đỡ lắm chứ! Cô ấy vừa phụ tài chính cho gia đình, vừa có thể chia sẻ nhiều điểm chung với bạn”.
5. Mơ ước hôn lễ linh đình
Ở Ấn Độ, người dân vẫn thích tổ chức cưới hỏi rình rang và phô trương cho dù suy thoái kinh tế khiến không ít người phải dằn lại mong muốn đó.
Nhiều người đẹp xứ này vẫn mơ được một tấm chồng giàu có kèm với một hôn lễ nổi đình nổi đám, hát hò rôm rả, nhảy nhót rộn ràng, được mọi người tấm tắc khen và nhớ mãi.
Ghen tuông là chuyện không thể thiếu trong tình cảm lứa đôi cũng như đời sống vợ chồng. Nhưng ghen như thế nào cho có văn hóa, không gây ầm ĩ, mất mặt những người trong cuộc lại vẫn giữ được chồng, được vợ mà còn có thể “căt đuôi” đối tượng là cả một nghệ thuật. Vậy là có những trung tâm, công ty chuyên tư vấn, hỗ trợ... ghen ra đời.
Một phụ nữ đến trước cửa Công ty dịch vụ tư vấn, hỗ trợ ghen T&T trên đường Trần Đình Xu (Q.1, TP.HCM) ngập ngừng khá lâu mới bước vào. Ngồi trò chuyện thăm dò một lúc với các nhân viên của công ty, cảm thấy tin tưởng, bớt đi sự ngần ngại, e dè, chị mới bật khóc nức nở: “Tôi đang rất bối rối do vừa phát hiện chồng mình có một bóng hồng khác. Bằng chứng thì còn mơ hồ nên không biết xử trí như thế nào. Làm lớn chuyện chỉ xấu chàng hổ thiếp, tôi chỉ muốn làm thế nào để chồng tôi quay về với vợ con, xin các anh giúp đỡ...”.
Ghen... nghệ thuật
Theo lời người phụ nữ này thì chồng chị là tổng giám đốc một công ty tin học khá có tiếng tại TP.HCM, còn chị là kế toán trưởng một công ty dịch vụ du lịch. Hai người lấy nhau được hơn mười năm và có hai mặt con. Do công việc cả hai đều bận rộn nên thời gian qua chị ít quan tâm đến thời gian, công việc riêng của chồng. “Trước khi tiến tới hôn nhân, chúng tôi đã có một thời gian dài yêu nhau khá lãng mạn nên tôi luôn tin tưởng sự thủy chung của anh ấy. Tất cả mọi việc trong cơ quan, ngoài xã hội anh ấy đều chủ động kể với vợ. Mãi đến gần đây có người quen nói thỉnh thoảng thấy anh ấy chở một cô gái trẻ đi trên phố, tôi mới bắt đầu quan tâm...”.
Chẳng cần thuê thám tử tư theo dõi, chị T.H.M., tên người phụ nữ, bắt đầu chú ý những hành vi “bất thường” của chồng mình. Quả thật, đức ông chồng dạo này vẫn thường khư khư giữ máy điện thoại di động bên mình, có vẻ bối rối, e dè khi vợ cầm đến. Một vài lần chồng chị lơ là, vừa đi vào nhà tắm, điện thoại rung lên. Chị M. vội vàng mở tin nhắn thì thấy tên người gửi là Đứccơquan, còn nội dung tin nhắn gọn lỏn “392”. Tin nhắn của anh chàng Đức cơ quan này cứ lặp lại nhiều lần trong nhiều tối chỉ với nội dung ngắn ngủn như trên.
“392 là ba con số nằm trên bảng chữ cái của điện thoại, có ý nghĩa là em yêu anh, khá phổ biến hiện nay dành cho những cặp đang yêu nhau lén lút, không muốn người khác biết. Còn hiện nay các ông chồng có bạn gái vẫn thường ghi tên bạn gái bằng tên đồng nghiệp cơ quan để vợ khỏi nghi ngờ. Rõ ràng trong trường hợp này chồng chị đang có một người phụ nữ khác” - nhân viên Công ty T&T tư vấn.
Chuyên viên tâm lý Nguyễn Duy Hoàng, nhân viên Công ty T&T, sau khi nghe ngọn ngành câu chuyện đưa ra các phương án để chị M. chọn lựa.
Phương án A: được xem là đơn giản nhất, chị M. tự nhắn tin lại cho cô gái kia bằng những “điều hay, lẽ phải” rồi tự dàn xếp với nhau; phương án B: bố trí một cuộc nói chuyện riêng với cô gái kia mà không để chồng chị biết để anh ta khỏi khó xử và mất mặt. Cuộc nói chuyện kèm những lời lẽ thuyết phục để cô ta từ bỏ làm người thứ ba trong chuyện này (nếu cần, sẽ có nhân viên Công ty T&T đi kèm trong vai người thân để lời lẽ thêm thuyết phục).
Phương án C: nhân viên công ty sẽ xác minh nhân thân, nơi làm việc của “đối thủ” (thông qua số điện thoại chị M. cung cấp) và trong vài ngày chị M. sẽ có một bộ hồ sơ đầy đủ về “tình địch” của mình và cứ việc nhét vào cặp làm việc của chồng để mà cảnh tỉnh; Phương án D: nhân viên Công ty T&T sẽ đóng vai người nhà của cô gái kia hoặc người thân của anh chồng để trò chuyện với “đối tác” bằng nhiều tình huống bất ngờ để người trong cuộc phải tự “cắt đuôi”, bỏ cuộc...
Duy Hoàng, nhân viên Công ty T&T, kể anh từng giúp một bà vợ lập một nickname để chat với tình địch của mình trong vai một “đại gia” để cô nàng này sập bẫy tình. Sau đó, bà vợ này “copy” bằng chứng, tang chứng đưa chồng xem để anh chồng hiểu rõ cô nhân tình của mình mà “cải tà, quy chính”.
Cũng không ít lần từ việc giải mật mã các tin nhắn mà khách cung cấp, công ty đã dàn xếp cho ba người trong cuộc gặp nhau trong khung cảnh vô cùng lãng mạn và thân thiết đến độ “ăn làm sao, nói làm sao” cũng không ổn, nên cuối cùng đành chấp nhận kết cục “ai phải về nhà nấy”. “Đánh ghen bây giờ phải có nghệ thuật. Chúng tôi có rất nhiều tài liệu nghiên cứu của các chuyên gia chuyên nghiên cứu về “ghen học” ở nước ngoài để đáp ứng công việc. Trong tình huống nào thì có những chiêu thích hợp đó” - giám đốc Huy bật mí.
“Còn nước còn tát”
Công ty dịch vụ, tư vấn, hỗ trợ ghen T&T ra đời gần hai năm nay mà tiền thân của nó vốn là nơi chuyên tư vấn tình yêu, hôn nhân gia đình. Sau khi nhận thấy lĩnh vực ghen tuông cũng cần phải... chuyên sâu và lượng khách hàng nhờ tư vấn, hỗ trợ trong lĩnh vực này lại khá đông nên giám đốc Minh Huy chủ rộng rẽ hướng: chỉ chuyên tư vấn, hỗ trợ mọi vấn đề liên quan đến ghen tuông trong đời sống lứa đôi, vợ chồng...
Cũng từ nhu cầu có thật này và đang có xu hướng phát triển nên ngày càng có thêm một số trung tâm chuyên dịch vụ tư vấn... ghen như trên ra đời, như Trung tâm tư vấn ghen Niềm Tin trên đường Điện Biên Phủ, Trung tâm hỗ trợ ghen Văn Hóa trên đường Lý Thường Kiệt... (cùng với đó là hàng loạt trang web chuyên tư vấn ghen, hỗ trợ dịch vụ ghen cũng xuất hiện: tuvanghen.com, ghenhiendai.com, congtydieutra.com, vanphongdieutra.com...).
“Trong xã hội hiện nay, quan hệ của các ông chồng, bà vợ ngày càng mở rộng thì chuyện ghen tuông nghi ngờ lẫn nhau xảy ra ngày càng nhiều. Nhưng những kiểu đánh ghen đầy bạo lực, đậm tính xã hội đen không còn được chọn lựa vì hầu hết người trong cuộc đều là dân trí thức, có địa vị xã hội. Những lúc như vậy người ta rất cần những lời tư vấn, những nơi hỗ trợ giúp loại đối thủ nhưng vẫn giữ được chồng, vợ, mái ấm của mình bằng những phương pháp đánh ghen trong hòa bình, lịch sự” - ông Cao Minh Hiền, trưởng Trung tâm tư vấn ghen Niềm Tin, nhìn nhận.
Theo ông Hiền (cũng là chuyên viên tâm lý), ghen tuông dễ làm người ta hoang tưởng dẫn đến những suy nghĩ, hành vi, thái độ cư xử không hay và cuối cùng thì “mất cả chì lẫn chài”. Ghen là bệnh. Mỗi người, mỗi trường hợp lại ghen mỗi kiểu khác nhau, nhiệm vụ của các nhân viên tư vấn ghen là phải chẩn đoán đúng “bệnh” và hiện trạng của người trong cuộc để có phương pháp “điều trị” thích hợp. Giám đốc Huy nói phải hiểu rõ tâm lý người trong cuộc mà đưa ra những phương pháp “cắt đuôi” cho thân chủ hiệu quả, như giương đông kích tây, mưa dầm thấm lâu... Phương án mạo hiểm nhất mà công ty từng làm nhiều lần là giúp hai “tình địch” thành bạn của nhau và hóa giải mọi quan hệ phức tạp giữa ba người.
Bình quân giá một ca tư vấn đến các dịch vụ hỗ trợ ghen từ vài trăm ngàn đến vài triệu đồng. Nhưng theo nhân viên Công ty tư vấn ghen T&T thì số khách hàng nhiều khi quá tải, đăng ký trước vài ba ngày mà công ty cũng không xếp lịch kịp để tư vấn và hỗ trợ giải quyết các ca... “ghen”. Điều khá thú vị, theo ông Huy và ông Hiền, khách hàng nam giới đến nhờ “hỗ trợ ghen” cũng ngang bằng với cánh phụ nữ. “Nhiều khách hàng nam đến chỗ chúng tôi khóc lóc nỉ non, sướt mướt khi người yêu hay vợ ngoại tình và ghen rất dữ. Thế mới biết trái tim đàn ông cũng mong manh, dễ vỡ” - ông Hiền kể.
“Chẳng phải trường hợp nào mình tư vấn hay dàn xếp cũng thành công cả đâu. Một khi người ta đã muốn tìm bến mới hay có trăng quên đèn thì có cố gắng lắm cũng đành bó tay thôi. Nhưng còn nước thì còn tát...” - giám đốc Huy bảo vậy. Theo ông Huy, ông và nhân viên của mình cảm thấy rất vui và hạnh phúc như mình chính là người trong cuộc khi dàn xếp thành công cho những ca “ghen” để các cặp vợ chồng (đã, đang và sẽ ngoại tình) trở về đầm ấm cùng nhau.
1.001 kiểu đánh ghen hiện đại!
“Chúng tôi tuyệt đối không sa vào việc điều tra, theo dõi đối tượng như các thám tử tư hoặc đánh ghen mướn theo kiểu “truyền thống” cho khách hàng, mà chỉ đưa ra những phương án tư vấn cho khách tự chọn lựa. Trong những trường hợp cần thiết, phải có giấy cam kết đồng ý của thân chủ thì nhân viên công ty mới tham gia đóng vai người thân của khách để gặp gỡ hay điện thoại, dàn xếp giúp khách hàng cắt đuôi “đối thủ”. Nhưng “đánh ghen” theo dạng này phải tuân thủ các nguyên tắc: lịch sự, văn minh, văn hóa và không bạo lực cũng như không vi phạm pháp luật” - Minh Huy, giám đốc Công ty dịch vụ tư vấn, hỗ trợ ghen T&T, nói.
Theo lời giám đốc Huy, sau khi nghe khách hàng trút nỗi lòng thì trước tiên nhân viên công ty cũng phải xác định kỹ xem nghi ngờ của khách hàng đã chính xác chưa, những câu chuyện, tình huống... đưa ra có thuyết phục không vì không ít quý bà, quý ông cứ ghen vu vơ, vô cớ, căn cứ vào một vài tin nhắn, cú điện thoại không rõ ràng hoặc qua lời đồn thổi mà làm khổ chính mình và người hôn phối của mình.
“Với những trường hợp như vậy thì chúng tôi khuyên khách hàng nên cân nhắc và chín chắn. Ngay cả những trường hợp có dấu hiệu khả nghi nhưng vẫn chưa rõ ràng thì công ty cũng tư vấn khách hàng tự tìm hiểu thật kỹ để khỏi phải bé cái lầm”.
Còn một khi nhân viên công ty đã xác định được những tình huống ghen... chính đáng thì khách sẽ được nhân viên tư vấn 1.001 kiểu “đánh ghen... hiện đại”. Từ việc dùng lời mềm dịu mà khuyên chồng rồi “đánh ghen” bằng tin nhắn sao cho đối thủ phải giật mình, cảnh tỉnh đến cả việc giải quyết ghen bằng điện thoại bàn, điện thoại di động, thư tín rồi cả cách lập blog, lập nick name trên mạng để... đánh ghen. Cuối cùng mới là phương án dàn xếp gặp mặt bằng lời lẽ chân thành đến cứng rắn... và kèm theo đó là chứng cứ pháp lý để buộc “đối thủ” bỏ cuộc.
“Quan trọng nhất vẫn là giúp người trong cuộc nghiệm ra tại sao chồng (vợ) mình lại quay lưng với mình. Nếu còn thương thì đừng ra tối hậu thư mà hãy tìm cách lôi kéo chồng (vợ) mình về. Và phòng cháy hơn chữa cháy”.

Bài viết về hôn nhân

Chu Xuân Minh
Phó Chánh toà Dân sự TANDTC
I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG
Quan hệ hôn nhân là loại quan hệ tồn tại trong một thời gian dài. Nhà nước ta đã 3 lần ban hành Luật Hôn nhân và Gia đình (1959, 1986, 2000). Thời kì hôn nhân của một quan hệ hôn nhân có thể bắt đầu trước khi ban hành Luật HN-GĐ 1959 đang có hiệu lực và chấm dứt ở thời điểm Luật HN-GĐ 1986 đang có hiệu lực (kết hôn năm 1965 và ly hôn năm 1995, chẳng hạn). Vấn đề đặt ra là, áp dụng Luật HN-GĐ ở thời điểm nào (khi kết hôn hay khi ly hôn) để giải quyết tranh chấp về quan hệ HN và GĐ. Thực tiễn cho thấy trong quá trình xét xử còn có nhiều Thẩm phán hiểu chưa đúng hiệu lực áp dụng của Luật HN-GĐ và do vậy, đã không xác định đúng tính chất của quan hệ hôn nhân (hợp pháp hay không hợp pháp), tính chất pháp lý của tài sản (tài sản riêng hay tài sản chung) nên đã xác định không đúng về quyền, nghĩa vụ của các chủ thể. Trong nhiều đơn khiếu nại, kháng cáo, Tòa án thường gặp câu hỏi là: "Tại sao quan hệ hôn nhân của cha mẹ chúng tôi đã chấm dứt từ lâu mà lại mang pháp luật hiện nay ra để áp dụng, soi xét?". Và cũng có câu hỏi ngược lại: "Tại sao Luật Hôn nhân và Gia đình 1959 đã hết hiệu lực, Tòa án vẫn còn áp dụng để phán quyết tài sản riêng là tài sản chung?".
Đối với việc giải quyết chấm dứt quan hệ hôn nhân thì cần xác định tính chất quan hệ hôn nhân ở thời điểm thụ lý vụ án. Nhưng đối với những việc xin chia thừa kế thì cần xác định tính chất quan hệ hôn nhân ở thời điểm mở thừa kế. Từ việc xác định được tính chất của quan hệ hôn nhân mới xác định đúng được các quyền, nghĩa vụ cụ thể.
Ví dụ: Quan hệ giữa Ông A, và bà B được xác định là quan hệ hôn nhân hợp pháp thì khi ông A chết trước, bà B có quyền hưởng thừa kế của ông A, và việc chia tài sản chung của ông A và bà B tuân theo Luật Hôn nhân vàGia đình; nếu giữa hai ngưòi không được công nhận là hôn nhân hợp pháp thì bà B không được hưởng thừa kế của ông A và việc chia tài sản chung tuân theo quy định của Luật Dân sự.
Pháp luật dân sự thường là không có hiệu lực "hồi tố" vì pháp luật dân sự chủ yếu là xác định các quyền và nghĩa vụ của các chủ thể, hướng dẫn xử sự của các chủ thể. Để xác định một chủ thể có những quyền gì, phải thực hiện những nghĩa vụ gì, xử sự của họ có hợp pháp không là phải căn cứ vào pháp luật ở thời điểm giao dịch. Luật HN-GĐ tuy mang tính chất của luật dân sự nói chung nhưng, không phải là không có những quy định có tính chất "hồi tố" (sẽ nói ở phần sau).
Trong khoảng thời gian có hiệu lực của một luật cụ thể (có thể là Luật 1959, 1986, 2000) bao giờ cũng có hệ thống những văn bản pháp luật để giải thích, hướng dẫn áp dụng luật đó. Ví dụ: Để hướng dẫn thi hành Luật Hôn nhân và Gia đình 1959 (thời gian có hiệu lực từ 3/1/1987 đến 31/12/2000) có Nghị quyết từ 13/1/1960 đến 2/1/1987) có Thông tư 60 ngày 22/2/1978 của Tòa án nhân dân tối cao…
Tương tự như vậy, để hưỡng dẫn thi hành Luật Hôn nhân và Gia đình năm 1986 (thời gian có hiệu lực từ 3/1/1987 đến 31/12/2000) có Nghị quyết 01/NQ-HĐTP ngày 20-1-1988 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao…
Đáng lưu ý là, Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 (có hiệu lực từ ngày 1/1/2001) đã có nhiều văn bản hướng dẫn áp dụng và đặc biệt là có nhiều văn bản pháp luật hướng dẫn áp dụng của Chính phủ. Nhiều văn bản pháp luật của Chính phủ không chỉ bao gồm những quy phạm mang tính chất của luật dân sự, không phải chỉ để cơ quan hành chính thực thiện việc áp dụng luật mà còn để Tòa án phải áp dụng những quy định này khi giải quyết các án kiện về hôn nhân và gia đình (ví dụ Nghị định số 70/2001/NĐ-CP ngày 3/10/2001 quy định chi tiết thi hành Luật Hôn nhân và Gia đình).
Trong phạm vi thời gian có hiệu lực của một luật cụ thể, khi có văn bản hướng dẫn áp dụng (văn bản dưới luật) thì chúng ta phải tuân thủ các quy định cụ thể của văn bản hướng dẫn đó. Tuy nhiên, đối với những vấn đề chưa có hướng dẫn áp dụng thì phải căn cứ các quy định của Luật (tinh thần và lời văn của điều luật, các nguyên tắc chung, và cả ý thức pháp luật) để áp dụng giả quyết các vụ án chứ không thể cho rằng chưa có hướng dẫn thì chưa áp dụng.
Ví dụ: Đã có quy định về việc hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên (Điều 41 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000). Tuy đây là quy định mới, chưa có hướng dẫn nhưng Toà án không thể từ chối không thụ lý, xét xử vì chưa có hướng dẫn áp dụng.
Về phạm vi áp dụng những văn bản hướng dẫn của Luật cũ, nay có Luật mới thì có còn giá trị áp dụng hay không, chúng tôi có ý kiến như sau:
Những vấn đề trước đây đã hướng dẫn nhưng nay đã có hướng dẫn thay thế thì phải áp dụng hướng dẫn mới. Ví dụ: Trước đây đã có hướng dẫn xác định về tiêu chí hôn nhân thực tế. Nay nếu quan hệ hôn nhân thực tế vẫn tiếp tục tồn tại thì tiêu chí xác định lại theo hướng dẫn mới (NQ 35/2000 và TTLT 01/2001).
Nhưng nhiều vấn đề đã được hướng dẫn trước đây, nay chưa có hướng dẫn mới và hướng dẫn cũ không trái với các quy định của Luật mới thì chúng ta có quyền và cần thiết phải vận dụng những hướng dẫn trước đây. Ví dụ: Thông tư số 01 Tòa án nhân dân tối cao ngày 6/1/1964; NQ 01/NQ-HĐTP ngày 20/1/1988 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao…
Tuy nhiên cần lưu ý là: Những văn bản pháp luật trước đây vẫn có giá trị áp dụng là những hướng dẫn xét xử, giải quyết án kiện còn những văn bản pháp quy có tính hướng dẫn xử sự của các chủ thể (Ví dụ: Điều kiện kết hôn, thủ tục kết hôn) thì không thể còn giá trị để hướng dẫn sau khi Luật cũ hết hiệu lực.
Dưới góc độ nghiên cứu về hiệu lực áp dụng Luật Hôn nhân và Gia đình theo thời gian, trong phạm vi bài viết này, chúng tôi xin trao đổi về việc áp dụng hiệu lực theo thời gian để xác định quan hệ hôn nhân hợp pháp đối với trường hợp không tuân theo nguyên tắc một vợ một chồng, trường hợp không đăng ký kết hôn, và vấn đề xác định tài sản riêng của vợ, chồng.
II. XÁC ĐỊNH HÔN NHÂN HỢP PHÁP TRONG TRƯỜNG HỢP KHÔNG TUÂN THEO NGUYÊN TẮC MỘT VỢ MỘT CHỒNG
1. Trường hợp kết hôn trước khi Luật Hôn nhân Gia đình có hiệu lực:
Do đặc điểm lịch sử của nước ta, Luật Hôn nhân và Gia đình năm 1959 (có hiệu lực ngày 13/1/1960) sau khi ban hành, mới chỉ có hiệu lực ở miền Bắc. Theo quy định của Luật này thì kể từ 13/1/1960, những trường hợp kết hôn vi phạm nguyên tắc mộtt vợ một chồng là hôn nhân không hợp pháp. Các quan hệ hôn nhân xác lập trước thời điểm 13/1/1960 không bị điều chỉnh bởi nguyên tắc của Luật hôn nhân và Gia đình 1959 nên dù có quan hệ hôn nhân nhiều vợ, nhiều chồng vẫn được coi là hợp pháp (nói chính xác là không trái pháp luật). Những quan hệ hôn nhân này là hợp pháp nên các chủ thể (vợ hoặc chồng) có quyền và nghĩa vụ theo quan hệ hôn nhân hợp pháp. Cụ thể như, họ có quyền thừa kế tài sản của nhau nhưng nếu họ không được Tòa án cho ly hôn mà đã kết hôn với người khác (kể từ thời điểm 13/1/1960) là trái pháp luật, hôn nhân sau không được công nhận.
Cũng cần lưu ý là, quan hệ hôn nhân nhiều vợ, nhiều chồng trước Luật Hôn nhân và gia đình 1959 có thể có đăng ký giá thú, cũng có thể không có đăng ký. Do tồn tại lịch sử, chúng ta không chỉ thừa nhận những quan hệ hôn nhân có đăng kí là hợp pháp mà cả những quan hệ hôn nhân thực tế cũng được coi là hợp pháp.
Ở miền Nam, thời điểm áp dụng Luật Hôn nhân và gia đình 1959 là ngày 25/3/1977 (ngày ban hành Nghị quyết 76/CP công bố danh mục văn bản pháp luật áp dụng trong cả nước, trong đó có luật Hôn nhân và gia đình năm 1959). Tương tự như ở miền Bắc , những quan hệ hôn nhân xác lập trước ngày 25/3/1977 ở miền Nam không tuân theo nguyên tắc một vợ một chồng vẫn được công nhận hợp pháp.
2. Trường hợp công nhận hôn nhân hợp pháp theo TT60/TATC ngày 22/2/1978 của Tòa án nhân dân tối cao.
Đối tượng đề cập trong Thông tư 60 là bộ đội, cán bộ có vợ, có chồng ở miền Nam tập kết ra miền Bắc, lấy vợ, chồng khác. Thông tư 60 quy định: Nay nếu vợ hoặc chồng ở miền Nam vẫn không có quan hệ hôn nhân mới và vẫn muốn duy trì quan hệ hôn nhân trước đây thì công nhận cả hôn nhân trước đây và hôn nhân mới là hôn nhân hợp pháp.
Cần chú ý là Thông tư 60 quy định hướng giải quyết khá cụ thể cho từng loại quan hệ hôn nhân và chỉ với những quan hệ hôn nhân được xác lập trong thời gian từ sau ngày ký Hiệp định Giơnevơ đến ngày Luật Hôn nhân và gia đình áp dụng trong cả nước (từ ngày 20/7/1954 đến 25/3/1977).
Quy định của Thông tư 60 là trường hợp công nhận hôn nhân hợp pháp đặc biệt trên cơ sở xét đến hoàn cảnh đặc biệt của chiến tranh, yêu cầu ổn định quan hệ gia đình phù hợp đạo lý và giải quyết hậu quả đặc biệt của chiến tranh.
Vấn đề đặt ra là, trường hợp cán bộ, bộ đội đã có quan hệ hôn nhân ở miền Bắc, vào miền Nam chiến đấu, công tác lại có quan hệ hôn nhân mới ở miền Nam có được công nhận hôn nhân mới ở miền nam là hợp pháp theo quy định của Thông tư 60 hay không? Trước hết, phải xác định các đối tượng này không phải là các chủ thể thuộc phạm vi điều chỉnh của Thông tư 60. Tuy nhiên, trong một số trường hợp đặc biệt do hoàn cảnh đặc biệt của chiến tranh và yêu cầu nhiệm vụ công tác mà có cơ sở xem xét giống như quy định tại Thông tư 60 thì chúng tôi cho rằng cũng cần công nhận quan hệ hôn nhân mới của họ là hợp pháp (cùng với quan hệ hôn nhân đã có trước ở miền Bắc). Ví dụ: Do điều kiện công tác mà cơ quan, tổ chức của một người đồng ý cho họ kết hôn (mặc dù họ đang có quan hệ hôn nhân ở miền Bắc)…
Riêng với trường hợp đang có quan hệ hôn nhân ở miền Bắc lại kết hôn ở miền Nam trong khoảng thời gian từ 1/5/1975 đến trước 25/3/1977 (thời gian mà đất nước đã thống nhất nhưng Luật Hôn nhân và gia đình chưa áp dụng ở miền Nam) thì không thể công nhận quan hệ hôn nhân sau là hợp pháp. Người đang có quan hệ hôn nhân ở miền Bắc biết rõ quan hệ hôn nhân mà họ đang có là hợp pháp và việc họ chưa được ly hôn lại kết hôn với người khác là trái pháp luât; điều kiện đất nước đã giải phóng, đã thống nhất nên không còn cơ sở để chấp nhận việc họ không thực hiện Luật Hôn nhân và Gia đình 1959.
3. Có nên có chế định về ly hôn thực tế
Theo quy định của Luật Hôn nhân và Gia đình thì việc ly hôn phải được Tòa án công nhận. Một quan hệ hôn nhân không bị coi là bất hợp pháp mà chưa được Tòa án cho ly hôn thì nó vẫn tồn tại cho dù vợ, chồng đã sống ly thân nhiều năm. Nếu người vợ hoặc người chồng đi kết hôn với người khác thì quan hệ hôn nhân sau là bất hợp pháp. Tuy nhiên, nếu áp dụng nguyên tắc trên cho cả những quan hệ hôn nhân được xác lập trước khi Luật Hôn nhân và Gia đình có hiệu lực (trước 13/1/1960 ở miền Bắc và trước 25/3/1977 ở miền Nam) thì sẽ phát sinh những hậu quả pháp lý không ổn về mặt đạo lý.
Ví dụ 1: Ông A kết hôn với bà B năm 1955 tại Huế. Năm 1959, bà B vào Sài Gòn sinh sống và kết hôn với người khác. Ông A ở lại Huế và chung sống với người phụ nữ khác (có con chung). Năm 1995, bà B do vỡ nợ bị kê biên phát mại ngôi nhà mà bà đứng tên mua tại Sài Gòn năm 1960. Ông A khởi kiện cho rằng, ông vẫn là chồng hợp pháp của bà B và ngôi nhà bà B đứng tên mua năm 1960 chính là tài sản chung của ông và bà B, ông yêu cầu được chia 1/2 nhà.
Ví dụ 2: Ông X kết hôn với bà Y năm 1965 tại Mỹ Tho. Ông X tham gia kháng chiến và ở nhà bà Y đã có quan hệ hôn nhân với người khác. Sau ngày giải phóng, ông X có biết bà Y đã lấy chồng, và ông X thực tế không còn quan hệ vợ chồng với bà Y nữa. Năm 1978, ông X kết hôn với bà H (có đăng ký kết hôn). Năm 2000, ông X chết, năm 2001 và bà Y chết. Nay, các con chung của ông X và bà Y cho rằng quan hệ vợ chồng giữa ông X và bà Y là hợp pháp vì chưa có Tòa án nào cho ly hôn nên quan hệ vợ chồng giữa ông X và bà H là không hợp pháp; yêu cầu không cho bà H hưởng thừa kế của ông X.
Các yêu cầu khởi kiện của các đương sự ở hai ví dụ nêu trên (thực tế đã có những vụ kiện tương tự có cơ sở pháp lý nhưng lại gượng ép về mặt đạo lý. Trước khi Luật Hôn nhân và Gia đình có hiệu lực, ông A và bà B (trong ví dụ 1) cũng như ông X và bà Y (trong ví dụ 2) đều xác định họ đã thực tế chấm dứt quan hệ vợ chồng, (họ hàng và xã hội đã xác định như vậy) và họ không phải kiện ra Tòa xin ly hôn (đối với quan hệ hôn nhân cũ) thì quan hệ mới mà họ đang có vẫn được thừa nhận. Nay, dựa vào 2 quy dịnh phải được Tòa án cho ly hôn mới là ly hôn hợp pháp để nhằm trốn tránh nghĩa vụ (như ví dụ 1) hay tước bỏ quyền lợi chính đáng của người khác (như ví dụ 2) có thoả đáng không? Chúng tôi cho rằng, nên có quy định về việc ly hôn thực tế, không công nhận họ còn tồn tại quan hệ vợi chồng trong trường hợp quan hệ hôn nhân thực tế đã chấm dứt trước khi Luật hôn nhân và Gia đình có hiệu lực (trước 13/1/1960 ở miền Bắc và trước 25/3/1977 ở miền Nam).
Thực tế cũng đã từng có quy đình về ly hôn thực tế. Đó là quy định trong Thông tư 60: "Nếu người vợ ở trong miền Nam đã thực sự lấy chồng khác, nay lại đòi trở về với người chồng tập kết và người này đã có gia đình khác rồi, thì Tòa án giải thích chính sách khuyên họ rút đơn nếu họ không rút đơn thì sẽ bác đơn".
III. CÔNG NHẬN HÔN NHÂN HỢP PHÁP ĐỐI VỚI TRƯỜNG HỢP KHÔNG ĐĂNG KÝ KẾT HÔN.
1. Nghị quyết số 35/2000 NQ-QH10 ngày 9/6/2000 của Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về thực hiện Luật Hôn nhân và Gia đình
Nghị quyết số 35/2000) là văn bản hướng dẫn thi hành Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 mà nội dung chủ yếu là xử lý đối với hôn nhân không có đăng ký kết hôn. Các văn bản pháp luật hướng dẫn theo NQ 35/2000 là:
- Nghị định số 77/2001/NĐ-CP ngày 22/10/2001 của Chính phủ (Nghị định 77/2001)
- Nghị quyết số 02/2000 NQ-HĐTP ngày 23/12/2000 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (NQ số 02/2000).
- Thông tư liên tịch số 01/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày 3-1-2001 (Thông tư liên tịch số 01/2001).
- Công văn số 112/2001 -KHXX ngày 14/9/2001 của Toà án nhân dân tối cao (Công văn số 112/2001).
- Kết luận số 84a/UBTVQH 11 ngày 29/4/2003 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội (kết luận số 84a).
Từ Nghị quyết số 35/2000, có một số thuật ngữ, khái niệm cần lưu ý là:
- "Quan hệ vợ chồng được xác lập" chỉ thời điểm bắt đầu chung sống với nhau như vợ chồng hay đó là ngày kết hôn thực tế.
- "Nam và nữ chung sống với nhau như vợ chồng" là tình trạng mà trước đây gọi là "hôn nhân thực tế".
- "Áp dụng các quy định về ly hôn" có nghĩa công nhận quan hệ hôn nhân đó cũng là hôn nhân hợp pháp, giải quyết cho ly hôn như các trường hợp hôn nhân hợp pháp khác.
- "Không công nhận quan hệ vợ chồng" thay thế cho thuật ngữ "tiêu hôn" trước đây. Cũng cần lưu ý cùng với loại quan hệ hôn nhân bị tuyên bố "không công nhận quan hệ vợ chồng" thì còn có loại quan hệ hôn nhân bị tuyên bố "huỷ việc kết hôn trái pháp luật" (là việc xác lập quan hệ vợ chồng có đăng ký kết hôn nhưng vi phạm điều kiện kết hôn do pháp luật quy định - khoản 3 Điều 8 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000).
Cũng là quan hệ chung sống với nhau như vợ chồng không đăng ký kết hôn, NQ 35/2000 chia các quan hệ trên thành 3 loại để có quy định giải quyết khác nhau căn cứ vào thời điểm xác lập quan hệ:
- Loại xác lập trước khi Luật Hôn nhân và Gia đình năm 1986 có hiệu lực:
- Loại xác lập trong thời kì Luật Hôn nhân và Gia dình năm 1986 có hiệu lực;
- Loại xác lập sau khi Luật Hôn nhân và Gia đình năm 1986 hết hiệu lực (thay thế bằng luật Hôn nhân và gia đình năm 2000).
Đối với quan hệ vợ chồng được xác lập trước khi Luật Hôn nhân và gia đình 1986 có hiệu lực (trước ngày 03/01/1987) được quy định ở điểu a khoản 3. Loại quan hệ này không bắt buộc phải đăng ký kết hôn mà chỉ khuyến khích đăng ký kết hôn. Nếu họ đăng kí kết hôn thì việc tham gia các giao dịch có căn cứ pháp lý và thuận lợi hơn, Nhà nước tạo điều kiện để họ đăng kí kết hôn được dễ dàng. Nhưng dù họ có đăng kí kết hôn hay không đăng kí kết hôn thì quan hệ vợ chồng vẫn được công nhận là hợp pháp và thời kì hôn nhân hợp pháp bắt đầu kể từ ngày xác lập.
Trường hợp quan hệ vợ chồng xác lập kể từ ngày Luật Hôn nhân và Gia đình có hiệu lực (01/01/2001) trở đi được quy định ở điểm c khoản 3. Loại quan hệ này không được công nhận là vợ chồng hợp pháp; khi họ đi đăng kí kết hôn thì thời kì hôn nhân hợp pháp cũng chỉ được tính kể từ ngày đăng kí.
Trường hợp quan hệ vợ chồng xác lập trong thời gian có hiệu lực của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 1986 (từ 03/01/1987 đến ngày 01/01/2001) được quy định trong điểm b khoản 3. Đây là trường hợp có quy dịnh cụ thể phức tạp hơn hai loại nêu trên, cần phải lưu ý khi áp dụng.
Quy định của điểm b khoản 3 của NQ 35/2000 được hướng dẫn chi tiết tại "Thông tư liên tịch 01/2001 là:
- Ngày họ tổ chức lễ cưới.
- (hoặc) ngày họ về chung sống với nhau được gia đình (một hoặc hai bên) chấp nhận.
- (hoặc) ngày họ thực sự bắt đầu chung sống với nhau được người khác hay tổ chức chứng kiến.
- (hoặc) ngày họ thực sự bắt đầu chung sống với nhau, chăm sóc giúp đỡ nhau, cùng nhau xây dựng gia đình.
Xác định thời điểm bắt đầu hôn nhân như trên là tương ứng điều kiện để "Được coi nam và nữ chung sống với nhau là vợ chồng"- (điểm d khoản 1 TTLT 01/2001). Đáng lưu ý là các tiêu chí xác định ở đây mở rộng hơn nhiều so với các hướng dẫn trước đó về "hôn nhân thực tế". Không đòi hỏi họ phải "có con chung, có tài sản chung", "sống chung công khai được họ hàng, xã hội thừa nhận" như hướng dẫn trước đây. Điều kiện cụ thể nêu tại điểm b khoản 3 NQ 35/2000 chỉ đòi hỏi thuộc một trong những trường hợp sau đây:
- Có tổ chức lễ cưới khi về chung sống với nhau:
- Việc họ về chung sống với nhau được gia đình (một hoặc cả hai bên) chấp nhận;
- Việc họ về chung sống với nhau được người khác hay tổ chức chứng kiến;
- Họ thực sự có chung sống với nhau, chăm sóc, giúp đỡ nhau, cùng nhau xây dựng gia đình.
Đặc trưng quy định cho trường hợp tại điểm b khoản 3 NQ 35/2000 khác với trường hợp quan hệ vợ chồng xác lập trước Luật Hôn nhân và Gia đình năm 1986 (trước 3/1/1987) và sau Luật Hôn nhân và gia đình 1986 (từ 01/01/2001) là quy định một thời hạn để họ đi đăng kí kết hôn. Thời hạn "đăng kí chậm" 2 năm này để giành quyền cho họ hợp pháp hoá quan hệ vợ chồng. Và như vậy, có thể có các khả năng như sau:
-Trường hợp 1: Họ xin ly hôn trong thời gian "đăng kí chậm". Trong thời hạn này, họ không đăng kí kết hôn mà yêu cầu xin ly hôn thì "Toà án áp dụng các quy định của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 để giải quyết". Có nghĩa là hôn nhân đã có của họ được công nhận là hợp pháp từ thời điểm xác lập đến thời điểm cho ly hôn: các quyền và nghĩa vụ pháp lý xuất hiện trong thời kì hôn nhân này giống như các quan hệ hôn nhân hợp pháp khác.
Ví dụ 3: Ông A và và B chung sống với nhau như vợ chồng từ 01/01/1988 không có đăng kí kết hôn. Năm 1995, ông A mua được một ngôi nhà (không có công sức của bà B). Năm 1999, ông A bán nhà cho ông C (bà B không đồng ý bán nhà). Ngày 2/1/2001, ông A xin ly hôn bà B. Tòa án có cơ sở xác định cho ly hôn và xác định ngôi nhà mua năm 1995 là tài sản chung để phân chia cho ông A và bà B: hợp đồng mua bán nhà giữa ông A với ông C là vô hiệu.
- Trường hợp 2: Họ đăng kí kết hôn trong thời gian "đăng kí chậm". Quan hệ hôn nhân của họ được công nhận hợp pháp kể từ thời điểm xác lập. Trong ví dụ 3 nêu trên, nếu ông A và bà B lại đi đăng kí kết hôn vào ngày này, sau đó mới xin ly hôn và đến ngày 1/1/2001 mới được xét cho ly hôn thì thời kỳ hôn nhân hợp pháp của ông A và B là từ 1/1/1988 đến 1/1/2004 chứ không phải chỉ từ 2/1/2001 (ngày đăng kí kết hôn) đến ngày cho ly hôn. Và như vậy, ngôi nhà tạo lập năm 1995 là tài sản chung của vợ chồng.
- Trường hợp 3: Đến 15/1/2003, ông A và bà B mới đăng kí kết hôn. Trường hợp này, quan hệ hôn nhân hợp pháp của ông A và bà B chỉ được tính kể từ thời điểm kết hôn (15/1/2003). Và như vậy, ngôi nhà tạo lập năm 1995 là tài sản có trước hôn nhân, nó đương nhiên là tài sản riêng của ông A. Bởi vì, qua ngày 1/1/2003 họ không đăng kí kết hôn là họ đã tự xoá khả năng công nhận thời kỳ hôn nhân hợp pháp của toàn bộ quá trình chung sống trước đó.
-Trường hợp 4: Sau ngày 1/1/2003, ông A và bà B không đăng kí kết hôn và một trong hai người xin ly hôn thì phải xử không công nhận họ là vợ chồng. Thậm chí, họ không được Toà án xử cho ly hôn mà tự đi kết hôn với người khác thì hôn nhân mới không bị coi là vi phạm chế độ một vợ một chồng (vì sau ngày 1/1/2003 quan hệ chung sống trước đó giữa ông A và bà B đương nhiên bị coi là không hợp pháp).
2. Một số lưu ý liên quan đến Nghị quyết 35/2000
a. Kết luận số 84a UBTVQH 11 ngày 29/4/2003
Do việc tổ chức đăng kí kết hôn cho các đối tượng thuộc điểm b khoản 3 NQ 35/2000 ở nhiều địa phương còn chậm trễ nên Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định đối với các trường hợp đã đến đăng kí làm thủ tục kết hôn từ ngày 1/1/2003 trở về trước mà vẫn chưa được hoàn thiện thủ tục kết hôn thì "Các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền phải tiếp tục hoàn tất thủ tục đăng kí kết hôn công nhận họ là vợ chồng kể từ khi họ chung sống với nhau như vợ chồng trên thực tế".
Như vậy, có một số trường hợp đăng kí kết hôn sau ngày 1/1/2003 (đã quá thời kì "đăng kí chậm") sẽ vẫn được công nhận thời kì hôn nhân hợp pháp từ ngày xác lập chứ không phải chỉ từ ngày đăng kí.
Tuy nhiên, chúng tôi cho rằng, thực tế phải đã được đăng kí kết hôn đúng thủ tục theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 thì những trường hợp nêu trên mới được hưởng "ưu đãi' theo Kết luận 84a; còn mặc dù họ đã xin đăng kí kết hôn mà sau đó họ từ bỏ ý định kết hôn (hoặc một bên từ bỏ) hoặc cơ quan có thẩm quyền đăng kí kết hôn xác định có sự vi phạm điều kiện kết hôn khác nên không cấp đăng kí kết hôn thì họ vẫn không được công nhận là vợ chồng.
b. Trường hợp còn có vi phạm điều kiện kết hôn khác
Có trường hợp chung sống như vợ chồng không những không đăng kí kết hôn mà còn vi phạm các điều kiện kết hôn khác.
Ví dụ 4: Anh A chung sống như vợ chồng với chị B từ 1/1/1995. Khi ấy anh A mới 18 tuổi. Ngày 15/1/2001, anh A và chị B đăng kí kết hôn. Vậy thì thời kì hôn nhân hợp pháp của họ được tính từ ngày xác lập (1/1/1995) hay từ khi anh A đủ tuổi kết hôn (2/1/1996). NQ35/2000 quy định hợp pháp hoá cho những quan hệ hôn nhân chưa đăng kí nếu như không vi phạm các điều kiện kết hôn khác nên thời kì hôn nhân hợp pháp phải được tính từ khi họ không còn vi phạm nào khác ngoài vi phạm không đăng kí kết hôn. Trong trường hợp này, ngày được tính bắt đầu thời kỳ hôn nhân hợp pháp là từ 2/1/1996.
Ví dụ 5: Anh X và chị Y chung sống như vợ chồng từ năm 1998. Khi ấy, anh X còn có vợ là chị T. Đến 15/1/2001, anh X mới được Toà án cho ly hôn chị T và bản án có hiệu lực pháp luật. Anh X và chi Y đi đăng kí kết hôn ngày 15/2/2001. Vậy thời kì hôn nhân hợp pháp của anh X và chị Y có được tính từ ngày xác lập (1998) hay không?
Thời điểm bắt đầu chung sống của anh X và chị Y nằm trong thời kỳ từ 3/1/1987 đến 1/1/2001 như các trường hợp quy định tại điểm b khoản 3 NQ35/2000. Thời điểm đăng kí kết hôn của anh X và chị Y cũng là trong thời gian "đăng kí chậm" từ 1/1/2001 đến 1/1/2003. Tuy nhiên, ở thời điểm bắt đầu chung sống họ còn có vi phạm vào chế độ một vợ một chồng. Thời điểm họ khắc phục được vi phạm này (15/1/2001) là nằm ngoài thời gian NQ35/2000 quy định từ (3/1/1987 đến 1/1/2001). Vì vậy, quan hệ hôn nhân anh X chị Y không thuộc loại quy định ở điểm b khoản 3 NQ35/2000. Anh X và chị Y chỉ được công nhận có quan hệ hôn nhân hợp pháp kể từ ngày đăng kí kết hôn là ngày 15/02/2001.
3. Hiệu lực "hồi tố" của NQ 35/2000
NQ 35/2000 được thông qua ngày 9/6/2000, nhưng là Nghị quyết hướng dẫn thi hành Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 nên cũng chỉ có hiệu lực thi hành kể từ khi Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 có hiệu lực (từ ngày 1/1/2001). Trong NQ 35/2000 có một số nội dung có tính chất "hồi tố" nhưng không phải tất cả các giao dịch liên quan đến hôn nhân và gia đình trước 1/1/2001 đều được áp dụng NQ 35/2000. Những quan hệ hôn nhân còn tồn tại đến thời điểm NQ 35/2000 cho hiệu lực mới là những quan hệ hôn nhân thuộc phạm vi quy định tại khoản 3 NQ 35/2000.
Ví dụ 6: Ông A và bà B chung sống từ 1988. Đến 1995, ông A chết. Để xác định có công nhận ông A và bà B có quan hệ hôn nhân hợp pháp (hôn nhân thực tế) hay không, phải căn cứ vào các quy định của pháp luật ở thời điểm mở thừa kế của ông A (1995). Không thể áp dụng các tiêu chí xác định hôn nhân quy định ở NQ 35/2000 và các văn bản hướng dẫn áp dụng Nghị quyết này để xác định tính chất quan hệ hôn nhân giữa ông A và bà B.
Trong trường hợp ông A chết vào thời điểm sau khi NQ 35/2000 có hiệu lực (ví dụ: 15/1/2001) thì phải áp dụng NQ 35/2000 và các văn bản hướng dẫn áp dụng nghị quyết này. Nếu như việc xác lập quan hệ vợ chồng của ông A và bà B thuộc một trong các trường hợp quy định ở Thông tư liên tịch 01/2001 thì phải công nhận quan hệ hôn nhân giữa ông A và bà B là hợp pháp và thời kì hôn nhân hợp pháp là từ khi xác lập (1988) đến khi ông A chết (15/01/2001). Mặc dù họ chưa đăng kí kết hôn và cũng không thể thực hiện việc đăng kí kết hôn trong thời hạn quy định được nữa (vì một bên đã chết) nhưng NQ 35/2000 đã quy định "trong thời hạn này (1/1/2001 đến 1/1/2003) mà họ không đăng kí kết hôn, nhưng có yêu cầu ly hôn thì Tòa án áp dụng các quy định về ly hôn của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 để giải quyết" cũng có nghĩa là xác định họ có quan hệ hôn nhân hợp pháp ở thời điểm mở thừa kế của ông A (15/1/2001). Vấn đề này cũng đã được giải thích tại khoản 1 của Kết luận 84a.

Tủ thuốc gia đình

Thủ thuật word

106 thủ thuật với Microsoft Office - Phần 1 - 19/7/2005 17h:11
Microsoft đã rất cố gắng nhằm hoàn thiện và bổ sung thêm nhiều tính năng mới tiện dụng hơn cho bộ phần mềm Microsoft Office. Nhưng phần lớn “sức mạnh tiềm ẩn” của MS Office - những lựa chọn ẩn, những tính năng chưa hề được biết đến hay những shortcuts - đều gần như không được biết đến hay không được sử dụng.
Thông qua bài viết này chúng tôi mong muốn được giới thiệu đến bạn những thủ thuật đơn giản và hiệu quả cho Word, Excel, Outlook, và PowerPoint. Có thể nói những thủ thuật này sẽ giúp bạn sử dụng hiệu quả hơn bộ phần mềm văn phòng này, khai thác những khả năng tiềm tàng hoặc tuỳ biến theo phong cách riêng của mình.

Tuy nhiên chúng tôi cũng xin chú ý bạn là hầu hết những thủ thuật sau đây sẽ vận hành rất tốt đối với phiên bản Microsoft Office XP và 2003.

Thủ thuật chung

Phóng to hay thu nhỏ

Nếu bạn đang sở hữu một mouse (con chuột máy tính) có thanh cuộn ở giữa (scroll button) thì bạn hoàn toàn có thể phóng to hay thu nhỏ văn bản của mình trong cửa sổ MS Office cực kì nhanh chóng bằng cách giữ phím Ctrl và xoay thanh cuộn – xoay lên phía trước là phóng to và về phía sau là thu nhỏ lại.

Định dạng nhanh chóng


Một trong những “viên ngọc ẩn” trong MS Office chính là Format Painter – có hình dáng như chiếc chổi sơn trên thanh công cụ chuẩn (Standard toolbar). Nếu chưa có bạn có thể vào Tool | Commands, tìm đến mục Format và kéo biểu tượng của công cụ thả vào thanh công cụ chuẩn.

Khi bạn nhắp chuột vào biểu tượng chiếc chổi sơn, công cụ sẽ copy lại định dạng văn bản tại nơi con trỏ chuột xuất hiện. Nếu bạn lựa chọn cả một đoạn (paragraph) hay một ô (cell) rồi mới nhắp chuột vào biểu tượng công cụ thì định dạng của đoạn hay ô đó sẽ được sao chép lại. Sau đó bạn chỉ cần kéo chuột lựa chọn đoạn văn bản bạn muốn “dán” định dạng giống như đoạn nguồn là xong.

Bằng cách nhắp đúp chuột lên biểu tượng của Format Painter, bạn có thể áp dụng định dạng đã được sao chép liên tục cho đến khi bạn ấn phím Esc.

Thêm nhiều lựa chọn hơn


Nếu bạn giữ nguyên phím Shift sau đó chọn File trong ứng dụng Word hoặc trong cửa sổ soạn e-mail mới của Outlook, bạn sẽ thấy sự thay đổi trong menu File. Với Word và Outlook bạn sẽ thấy có thêm lựa chọn Save All và Close All còn trong Excel bạn sẽ chỉ thấy có Close All.

Xuống dòng không tạo chỉ mục

Trong một đoạn có chỉ mục nếu bạn muốn xuống dòng mà không muốn dòng đó có chỉ mục thì bạn chỉ cần ấn tổ hợp phím Shift-Enter. Lần tới bạn ấn Enter để xuống dòng và tiếp tục theo danh sách chỉ mục.

Riêng trong Excel để xuống dòng trong một ô bạn hãy ấn Alt-Enter.

Các Smart Tags

Smart Tags - bắt đầu xuất hiện trong phiên bản Microsoft Office XP – chính là những biểu tượng ứng dụng công nghệ XML nên có thể xuất hiện ngay lập tức ở trên hoặc ở dưới các dữ liệu phù hợp với tính năng của Smart Tags. Để kích hoạt các Smart Tags bạn hãy vào Tools | AutoCorrect Options rồi chuyển sang mục Smart Tags và lựa chọn những loại tags mà bạn muốn kích hoạt.

Lấy ví dụ về Paste Options Smart Tags:

Paste options: Sau khi bạn dán (paste) dữ liệu trong bất kì ứng dụng Office nào bạn có thể chọn Smart Tag (xuất hiện ngay bên cạnh đoạn dữ liệu vừa dán có hình giống như một clipboard) với những lựa chọn định dạng phong phú - Match Destination Formatting (chuyển định dạng dữ liệu vừa dán giống với định dạng của cả văn bản) và Keep Source Formatting (giữ nguyên định dạng của đoạn dữ liệu vừa dán).
106 thủ thuật với Microsoft Office - Phần 2 - 20/7/2005 15h:45
Microsoft Word

Truy cập nhanh đến các văn bản thường sử dụng

Cách nhanh nhất và thông dụng nhất để truy cập đến các tệp tin văn bản thường sử dụng trong Microsoft Word hiện nay là vào File rồi tìm đến văn bản cần mở ra. Điểm bất lợi của cách này là số lượng tệp tin lưu trong danh sách này tương đối hạn chế, cho dù người sử dụng đã vào Tools | Options | General để chỉnh thông số “Recent used file list” lên một con số lớn hơn.

Nhưng MS Word lại có một tính năng ẩn khác cực kì hữu dụng trong việc nhanh chóng tìm đến các văn bản thường sử dụng. Bạn hãy sử dụng cách sau đây.


Bạn vào View | Toolbars | Customize hoặc bạn có thể nhắp chuột phải vào bất kì đâu trên các thanh công cụ toolbars rồi chọn Customize. Khi cửa sổ Customize mở ra bạn chuyển sang tab Commands.


Trong cửa sổ Customize | Commands, bên mục Categories bạn kéo xuống và chọn Built-in Menus và trong danh sách hiện ra bên tay phải (commands) chọn Work. Nhắp và giữ nguyên chuột trái và kéo Works ra thả vào bất cứ thanh công cụ nào thuận tiện với bạn. Vậy là bạn đã tạo ra được thanh công cụ riêng cho mình với tên là Work. Để đổi tên menu này bạn hãy mở cửa sổ Customize ra rồi nhắp chuột phải vào tên của menu Work, trong ô Name bạn gõ tên vào đó.



Bây giờ bạn có thể sử dụng menu mới này để lưu tên và đường dẫn đến những tệp tin văn bản bạn thường sử dụng bằng cách sau đây. Bạn mở những văn bản thường sử dụng sau đó chọn Work | Add to work menu. Thế là tên văn bản đã có trong đó sẵn sàng cho bạn truy cập đến bất cứ lúc nào.

Để gỡ bỏ tên của văn bản nào đó trong danh sách trên menu Work bạn hãy ấn và giữ Ctrl-Alt-Minus (phím Minus là phím dấu trừ (-) ở ngay cạnh phím số 0). Lúc này con trỏ sẽ biến thành dấu trừ, bạn hãy click vào menu Work rồi tìm đến tên văn bản cần bỏ đi và nhắp chuột trái một lần vào đó.

Mở văn bản được sử dụng lần cuối cùng



Để yêu cầu MS Word mỗi lần khởi động đều mở tệp tin văn bản mà bạn sử dụng lần cuối cùng trước khi tắt Word bạn hãy thử dùng cách sau đây.

Bạn hãy tìm đến tệp tin Winword.exe – thông thường tệp tin này có đường dẫn như sau C:\Program Files\Microsoft Office và nằm trong thư mục Office 10 đối với phiên bản XP và Office 11 với phiên bản 2003. Tìm được bạn hãy nhắp chuột phải vào tệp tin chọn Send to | Desktop (create shortcut).

Hoặc bạn có thể nhắp chuột phải lên desktop chọn New | Shortcut rồi tìm đến tệp tin Winword.exe theo đường dẫn như trên.

Sau đó bạn ra desktop và nhắp chuột phải vào shortcut vừa tạo ra và chọn Properties. Trong cửa sổ Properties bạn chuyển đến mục Target và gõ vào “/mFile1” vào cuối cùng đường dẫn trong trường này, click OK.

Sử dụng lệnh Paste Special


Khi bạn copy văn bản trên web hoặc từ các tệp tin Word khác và dán trực tiếp vào Word thì ứng dụng sẽ vẫn giữ nguyên định dạng gốc - từ font chữ, màu sắc, bảng biểu… gây phiền phức rất nhiều trong việc chỉnh sửa lại những văn bản đó. Để tránh những điều này bạn hãy sử dụng lệnh Paste Special. Cách sử dụng như sau:

Sau khi đã copy văn bản từ nguồn, bạn chuyển vào Word và chọn Edit | Paste Special. Trong cửa sổ Paste Special bạn hãy chọn Unformatted Text hoặc Unformatted Unicode Text.

Sắp xếp lại các đoạn nhanh chóng

Bạn đang muốn sắp xếp lại vị trí các đoạn trong văn bản của mình? Để tránh mất thời gian kéo thả hay copy-paste bạn hãy sử dụng cách sau đây.

Lựa chọn đoạn văn bản mà bạn muốn thay đổi vị trí lên hoặc xuống, ấn và giữ phím Shift-Alt rồi dùng phím mũi tên lên hoặc xuống để điều chỉnh lại vị trí của đoạn văn bản.

Xoá thông tin cá nhân

Các tệp tin văn bản của MS Word có chứa những thông tin ẩn có thể tiết lộ thông tin về bạn. Microsoft cũng đã cho ra công cụ xoá bỏ những thông tin ẩn này Remove Hidden Data trên trang web của mình. Tuy nhiên công cụ này hơi khó sử dụng. Vậy để xoá bỏ những thông tin ẩn này bạn hãy làm theo cách sau đây.

Trước khi phổ biến tệp tin văn bản, bạn hãy dùng ứng dụng WordPad (Start | All Programs | Accessories) mở văn bản đó ra trước và lưu lại văn bản đó dưới dạng Rich Text Format (.rtf). Cuối cùng bạn chỉ việc đổi phần mở rộng của tệp tin văn bản trở lại dạng Word. Lấy ví dụ bạn lưu tệp tin đó thành “test.rtf”, để đổi lại sang dạng Word bạn dùng lệnh rename chuyển lại thành “test.doc”.
106 thủ thuật với Microsoft Office - Phần 3 - 22/7/2005 8h:15

Microsoft Word

Vẽ một đường thẳng
Bạn hoàn toàn có thể dễ dàng kẻ một đường thẳng ngang văn bản của mình một cách rất đơn giản như sau
- Bạn gõ liên tiếp 3 dấu gạch ngang (-) rồi ấn Enter bạn sẽ có một đường kẻ đơn.
- Bạn gõ liên tiếp 3 dấu gạch dưới (_) rồi ấn Enter bạn sẽ có một đường kẻ đậm
- Bạn gõ liên tiếp 3 dấu bằng (=) rồi ấn Enter bạn sẽ có một đường kẻ đôi.

Máy tính có sẵn trong Word
Bạn có biết là bạn hoàn toàn có thể bổ sung thêm một máy tính vào trong Word không? Đúng hoàn toàn có thể và sẽ giúp bạn thêm phần thuận lợi trong công việc hơn rất nhiều.

Trong MS Word vào View | Toolbars | Customize hoặc bạn có thể nhắp chuột phải lên bất kì thanh công cụ (toolbar) nào rồi chọn Customize. Trong cửa sổ Customize - bạn đã có cơ hội làm quen với cửa sổ này trong phần trước của bài viết - bạn hãy chọn Tools ở bên khung Categories bên tay trái và chọn biểu tượng Tool Calculate trong khung Commands bên tay phải. Bạn nhắp và giữ chuột trái lên biểu tượng của Tools Calculate rồi kéo và thả lên bất kì thanh công cụ nào mà bạn thích.

Bây giờ bạn có dễ dàng thực hiện các phép tính trong Word bằng cách gõ vào phép tính của rồi lựa chọn toàn bộ phép tính, nhắp chuột vào Tools Calculate rồi ấn Ctrl-V để dán kết quả vào.

Tuần hoá Smart Tags và Spelling, Track changes
Bạn đã bao giờ bị các dòng gạch chân loằng ngoằng màu xanh màu đỏ làm phiền chưa? Bạn chưa biết là nó từ đâu xuất hiện? Nó chính là tính năng kiểm tra lỗi chính tả và kiểm tra lỗi ngữ pháp trong MS Word. Tính năng này chỉ có hiệu quả đối với các văn bản tiếng Anh còn đối với các văn bản tiếng Việt thì thật là một điều vô cùng phiền phức. Để loại bỏ phiền phức này bạn hãy vào Tools | Options rồi chuyển sang mục Spelling & Gammar. Trong mục này bạn bỏ dấu kiểm trước Check spelling as you type và Check grammar as you type, sau đó là Ok là xong.

Smart Tags có thể nói là một trong những tính năng mới tương đối hiệu quả trong các phiên bản Word mới đây. Tuy nhiên nhiều lúc người sử dụng cũng thấy khó chịu về các tag ngày, số điện thoại, copy-paste… liên tục hiện ra. Nếu bạn không ưa Smart Tags hãy vào Tools | AutoCorrect Options và chuyển sang mục Smart Tags trong cửa sổ AutoCorrect Options và bỏ dấu kiểm trong những loại Smart Tag bạn không muốn hiện ra.

Còn một tính năng nữa trong Word cũng có những dòng kẻ màu đỏ loằng ngoằng gây khó chịu rất nhiều đó là Track changes. Tính năng này thực sự có hiệu quả khi bạn để người khác sửa văn bản của bạn. Những thay đổi đó sẽ được Track changes ghi nhận và liệt kê ngay trong văn bản. Để bỏ đi bạn hãy vào View rồi bỏ đánh dấu trước Markup là xong.

Status Bar có gì cho bạn?
Bạn đã bao giờ để ý đến thanh trạng thái (Status bar) trong Word chưa? Nó cũng có khá nhiều điều thú vị đó. Nhưng nếu Word của bạn chưa hề có Status bar thì bạn hãy vào Tools | Options chuyển sang mục View. Trong mục này bạn để ý đến phần Show và đánh dấu kiểm vào Status bar là xong.

Thanh trạng thái đúng như tên gọi của nó cho bạn thấy thông tin về văn bản của bạn, thứ tự trang hiện thời của bạn, phần, dòng, toạ độ con trỏ chuột …. Nhắp đúp chuột lên Số thứ tự của trang bạn sẽ gọi được menu Go to.

Bên cạnh đó, trên thanh trạng thấy bạn còn thấy có REC – TRK – EXT – OVR. Nhắp đúp chuột lên bất cứ mục nào bạn sẽ bật tính năng đó lên. Nhắp đúp chuột lên REC bạn sẽ bật tính năng ghi macro – hay còn gọi là thao tác tự động, TRK sẽ giúp bạn theo dõi ghi nhận mọi thay đổi mà bạn đã sửa lên văn bản gốc, EXT cho phép bạn có thể lựa chọn văn bản mà chỉ cần dùng phím mũi tên lên xuống sang phải sang trái và OVR sẽ bật tính năng ghi đè – tức là mỗi kí tự bạn gõ vào sẽ thay thế cho kí tự liền kề nó thay vì xuất hiện ngay bên cạnh.

Tuỳ biến AutoText
Chắc hẳn là bạn đã để ý thấy nhiều khi Word tự động thay thế và gợi ý giúp bạn những cụm từ kiểu như "Best Wishes", “Best regards”…Đây chính là tính năng AutoText của Word. Bạn hoàn toàn có thể tự mình tuỳ biến danh sách các từ MS Word tự động thay thế giúp bạn. Bạn hãy vào Tools | AutoCorrect Options rồi chuyển sang mục AutoText. Trong cửa sổ AutoText bạn hãy gõ cụm từ mà bạn muốn Word tự động giúp bạn chèn vào mục Enter autotext entries here rồi nhắp chuột vào Add. Muốn gỡ bỏ bất cứ autotext nào bạn hãy chọn nó rồi nhắp chuột vào Delete.
106 thủ thuật với Microsoft Office - Phần 4 - 25/7/2005 16h:57
(Bài này được cập nhật cách đây 2 giờ )
Microsoft Word

Track changes - So sánh các văn bản

Bạn có 2 văn bản giống hệt nhau và bạn muốn so sánh xem chúng giống và khác nhau ở điểm nào? Thay vì phải ngồi so sánh từng dòng một, thủ thuật sau đây có thể sẽ giúp bạn thực hiện công việc này một cách nhanh chóng.

Nếu bạn đã biết sử dụng tính năng Track changes trong Word thì thật là tiện dụng. Tính năng này sẽ giúp bạn theo dõi và ghi lại rõ ràng mọi sự thay đổi trong văn bản của bạn. Để bật tính năng Track changes bạn hãy vào Tool | Track Changes hoặc sử dụng phím tắt Ctrl-Shift-E.

Còn nếu bạn đã không bật Track changes từ trước thì làm thế nào để có thể tìm ra mọi thay đổi khác biệt trong 2 văn bản đây. Vẫn có cách, vẫn là Trach changes giúp bạn giải quyết mọi việc.

Trong Word 2000, bạn hãy vào Tools | Track changes | Compare documents. Khi hộp thoại bật ra bạn hãy lựa chọn văn bản bạn cần đem ra so sánh với văn bản hiện thời của bạn. Word sẽ giúp bạn bổ sung những gì đã được thay đổi vào trong văn bản của bạn.

Trong Word XP và 2003 thì có khác hơn một chút, bạn vào Tools | Compare and Merge Documents. Trong hộp thoại bật ra bạn hãy đánh dấu vào Legal blackline (ngay cạnh trường File name) để kích hoạt tính năng so sánh văn bản; nếu không Word sẽ giúp bạn hợp nhất 2 văn bản. Quá trình còn lại là giống với Word 2000.

Split – So sánh nhiều phần của văn bản

Văn bản của bạn dài hàng chục hàng trăm trang mà bạn lại muốn so sánh nhiều phần của trong văn bản đó với nhau - chẳng hạn phần mở đầu với phần kết luận? Split sẽ giúp bạn giải quyết khó khăn này.

Bạn vào Windows | Split. Ngay lập tức con trỏ sẽ biến thành một đường kẻ ngang cho phép bạn chỉ định khoảng cách chia đôi màn hình trong Word. Hãy đặt sao cho thật dễ nhìn rồi nhắp chuột trái 1 lần. Word đã bị chia làm 2 cửa sổ riêng biệt và bạn có thể duyệt văn bản dễ dàng hơn. Để bỏ tính năng này bạn lại vào Windows và chọn Remove Split.

Bảo vệ văn bản của bạn

Có nhiều cách để bảo vệ văn bản của bạn – ngăn chặn người khác mở văn bản của bạn hoặc ngăn chặn người khác sửa đổi văn bản của bạn.

Có những cách sau đây để bảo vệ văn bản của bạn.

Bạn vào Tools | Options rồi chuyển sang mục Security - Bạn nhập mật khẩu vào mục Password to open để đặt mật khẩu ngăn chặn người khác mở văn bản của bạn. Nhập mật khẩu vào mục Password to modify để ngăn chặn người khác sửa đổi văn bản của bạn.

Bạn vào Tools | Protect Document để có thêm tính năng bảo mật văn bản. Trong cửa sổ Protect Document bạn sẽ thấy 3 lựa chọn Track changes (chống mọi thay đổi với Track changes, người khác vẫn có thể đọc và sửa văn bản của bạn nhưng mọi thay đổi đó sẽ được ghi lại và menu Tools | Track Changes sẽ bị vô hiệu hoá), Comment (chỉ cho phép người khác được đọc văn bản của bạn và bổ sung thêm những nhận xét gọi ý – comment – vào chứ không được thay đổi văn bản) và Form (ngăn chặn mọi thay đổi trong văn bản chỉ cho phép thay đổi trong những phần văn bản không được bảo vệ hoặc trong các form hoặc trường)

Đặt đường dẫn mặc định để lưu và mở văn bản

Thông thường Word luôn chọn thư mục My Documents là thư mục mặc định để lưu và mở các văn bản của người sử dụng. Tuy nhiên, Word cũng cho phép người sử dụng có thể thay đổi mặc định.

Bạn vào Tools | Options rồi chuyển sang mục File locations. Trong cửa sổ này bạn nhắp chuột vào mục cần thay đổi. Ví dụ ở đây là thay đổi đường dẫn mở và lưu văn bản mặc định thì bạn nhắp chuột vào mục Documents sau đó nhắp chuột vào Modify và chỏ đến thư mục riêng của bạn. Nhắp ok là xong.

Đặt font chữ mặc định

Bạn quen sử dụng một loại font chữ nhất định và muốn lần nào mở Word ra thì đã sẵn sàng font chữ đó cho bạn rồi. Rất đơn giản, bạn hãy thử thủ thuật sau đây.

Bạn mở bất kì một văn bản nào cũng được, vào Format | Font. Trong cửa sổ Font hiện ra bạn hãy chọn lựa đúng kiểu font chữ bạn quen dùng rồi nhắp chuột vào Default ở góc cuối bên tay trái của cửa sổ font, Word hỏi bạn có muốn đặt font chữ mặc định không, chọn Yes là xong.
Gán phím tắt cho các biểu tượng trong Microsoft Word để thao tác nhanh hơn - 25/7/2005 8h:52
(Bài này được cập nhật cách đây 10 giờ )
Khi soạn thảo văn bản với Microsoft Word, nhiều khi bạn phải cần thêm vào văn bản các biểu tượng (symbol) hoặc những ký tự đặc biệt (special character) để trang trí thêm cho văn bản. Với các ký tự đặc biệt thì đã được gán sẵn các phím tắt và bạn có thể dùng những phím tắt để chèn các ký tự đặc biệt vào văn bản.
Còn với các biểu tượng thì chưa được gán sẵn các phím tắt. Do đó, bạn có thể tạo các phím tắt cho các biểu tượng mà bạn thường sử dụng để có thể nhanh chóng chèn các biểu tượng cần thiết vào văn bản.
Cách tạo các tổ hợp phím tắt cho các biểu tượng như sau:
- Trong cửa sổ làm việc của Microsoft Word, bạn bấm vào menu “Insert” rồi chọn “Symbol...”.
- Hộp thoại “Symbol” được mở ra, trong tab “Symbols”, bạn bấm chọn biểu tượng cần thiết để gán phím tắt.
- Bạn bấm vào nút “Shortcut Key...” để mở ra hộp thoại “Customize Keyboard”.
- Trong hộp thoại “Customize Keyboard”, bạn bấm chọn vào ô “Press new shortcut key”. Sau đó, bạn bấm tổ hợp phím mà bạn muốn dùng làm phím tắt cho biểu tượng này.
- Tiếp theo, bạn bấm nút “Assign”. Bấm nút “Close”.
- Với cách làm tương tự, bạn có thể gán các phím tắt cho các biểu tượng khác.
Sau này, nếu bạn không muốn sử dụng phím tắt cho biểu tượng nào đó nữa thì bạn làm như sau:
- Trong cửa sổ làm việc của Microsoft Word, bạn bấm chọn vào menu “Insert” > “Symbol...” để mở ra cửa sổ “Symbol”.
- Tiếp theo, bạn bấm chọn biểu tượng mà bạn muốn loại bỏ phím tắt ở tab “Symbols”.
- Sau đó, bạn bấm nút “Shortcut Key...” để mở ra hộp thoại “Customize Keyboard”.
- Trong hộp thoại “Customize Keyboard”, bạn bấm chọn tổ hợp phím tắt trong ô “Current keys”. Sau cùng, bạn bấm nút “Remove”. Tổ hợp phím tắt mà bạn đã chọn cho biểu tượng này đã không còn tác dụng nữa.
- Bạn làm tương tự để xoá các phím tắt cho các biểu tượng khác.

DSL Speed v2.10
name: www.bestserials.com
code: PDQ3J4T84OVD

Tiểu luận mẫu tham khảo

LỜI NÓI ĐẦU
Gia đình - hạt nhân cốt lõi của xã hội, là cái nôi nuôi dưỡng con người, là môi trường quan trọng để hình thành và giáo dục nhân cách, góp phần vào việc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Gia đình tốt thì xã hội mới tốt, xã hội tốt thì gia đình lại càng tốt hơn. Sự tác động và chi phối lẫn nhau giữa gia đình và xã hội được khẳng định rõ nét trong hôn nhân. Bởi lẽ, nền tảng vững chắc để xây dựng gia đình chủ yếu là xuất phát từ quan hệ hôn nhân.
Ngày nay, trong xu thế hội nhập - quốc tế hoá ngày càng được mở rộng thì hòa vào sự phát triển của nền kinh tế, quan hệ hôn nhân cũng được hình thành dưới nhiều góc độ khác nhau của xã hội, dựa trên những nguyên tắc nhất định. Hôn nhân giữa công dân Việt Nam thuộc các dân tộc tôn giáo, giữa người theo tôn giáo và người không theo tôn giáo, giữa công dân Việt Nam và người nước ngoài, được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ trên cơ sở nguyên tắc tiến bộ, một vợ , một chồng bình đẳng.
Cơ sở thiết lập quan hệ hôn nhân hiện nay đã vượt ra khỏi phạm vi lãnh thổ quốc gia, chịu tác động và chi phối bởi các yếu tố nước ngoài. Do tính chất phức tạp vốn có của quan hệ này, nhà nước đã kịp thời thừa nhận và bảo vệ bằng cách thông qua hình thức ban hành các văn bản quy phạm pháp luật để điều chỉnh và có những sửa đổi bổ sung để hoàn thiện nội dung của chế định trên thực tế. Cụ thể, những văn bản ra đời trước như Luật Hôn nhân và Gia đình năm 1986, Pháp lệnh Hôn nhân và gia đình giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài, và hiện nay là Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000, Nghị định số 68/2002/NĐ-CP ngày 10/7/2002 của Chính Phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 về quan hệ Hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài, Nghị định số 69/2006/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 68/2002. Đây là cơ sở pháp lý vững chắc hướng các chủ thể trong quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài phát huy tối đa quyền tự do kết hôn và đảm bảo trật tự cũng như sự ổn định xã hội. Tuy nhiên, trong quá trình áp dụng pháp luật đã bộc lộ không ít những thiếu sót và bất cập, ảnh hưởng lớn đến cuộc sống của chủ thể kết hôn và những giá trị đạo đức truyền thống của xã hội xưa nay, kết hôn có yếu tố nước ngoài một mặt thể hiện ý nghĩa tích cực, thúc đẩy giao lưu hợp tác quốc tế trong nhiều lĩnh vực nhưng vẫn không thể phủ nhận những hạn chế đang tồn tại trong đó.
Trong phạm vi tiểu luận này tôi xin phân tích một số quy định của pháp luật hiện hành để cho thấy được những khó khăn và vướng mắc trong việc áp dụng và thực trạng của hiện tượng đăng ký kết hôn có yếu tố nước ngoài hiện nay tại một số khu vực. Trên những cơ sở đó sẽ tổng kết và rút ra những tồn tại và giải pháp để từ đó tiến tới khắc phục vấn đề.





















CHƯƠNG 1
NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH
VỀ KẾT HÔN CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI.
1.1.Một số khái niệm có liên quan đến kết hôn có yếu tố nước ngoài.
Gia đình là tế bào của xã hội là khởi nguồn nền tảng của mọi mối quan hệ xã hội phát sinh giữa con người với con người. Trong suốt quá trình tồn tại và phát triển của xã hội, chức năng quan trọng của gia đình đã được khẳng định, đó là tái tạo ra những con người mới thông qua việc xác lập mối quan hệ hôn nhân giữa nam và nữ.
Trong từng giai đoạn lịch sử, hôn nhân được nhà nước và pháp luật nhìn nhận dưới nhiều góc độ khác nhau. Về phương diện tổng quan, hôn nhân và gia đình là hiện tượng phát sinh trong quá trình phát triển của xã hội loài người, đồng thời cũng chịu sự tác động trực tiếp từ những điều kiện kinh tế xã hội của một quốc gia.
Hôn nhân được hiểu một cách cụ thể và đơn giản đó là mối quan hệ hình thành trên cơ sở liên kết giữa nam và nữ, cùng nhau chung sống và được pháp luật thừa nhận. Quan hệ hôn nhân luôn gắn với từng con người cụ thể, với những giá trị nhân thân nhất định, không thể chia sẻ hay chuyển giao. Bằng những hình thức khác nhau mà chủ yếu là thông qua hình thức kết hôn, con người đã tạo ra sự liên kết đó và duy trì sự tồn tại của hôn nhân.
1.1.1. Khái niệm kết hôn.
Theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, “ Kết hôn là việc nam và nữ xác lập quan hệ vợ chồng theo quy định của pháp luật về điều kiện kết hôn và đăng ký kết hôn” ( khoản 2 điều 8 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000), Hay nói cách khác đây là hình thức để Nhà nước thừa nhận đối với hôn nhân hợp pháp. Việc nam, nữ chung sống với nhau mà không đăng ký kết hôn thì dưới góc độ pháp lý, họ không được coi là vợ chồng.
1.1.2. Khái niệm kết hôn có yếu tố nước ngoài.
Trên cơ sở vận dụng quy định tại điều 826 Bộ Luật Dân Sự năm 1995 về quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 đã đưa ra khái niệm quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài. Theo đó, “Quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài là quan hệ hôn nhân và gia đình:
 Giữa công dân Việt Nam và người nước ngoài.
 Giữa người nước ngoài với nhau thường trú tại Việt Nam.
 Giữa công dân Việt Nam với nhau mà căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ đó theo pháp luật nước ngoài hoặc tài sản liên quan đến quan hệ đó ở nước ngoài.
( Khoản 14 điều 8 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000).
Như vậy, chủ thể tham gia vào quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài rất đa dạng bao gồm một trong những đối tượng sau:
- Người nước ngoài là người không có quốc tịch Việt Nam bao gồm: Công dân nước ngoài là người không quốc tịch. Trên cơ sở kế thừa những quy định của pháp luật trước đó, Nghị định số 68/2002/NĐ- CP ngày 10/7/2002 của Chính Phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 về quan hệ một cách cụ thể bằng cách liệt kê rõ ràng. Trong đó:
+ Công dân nước ngoài được hiểu là người có quốc tịch nước ngoài, không phải là người có quốc tịch nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam.
+ Người không quốc tịch là người không có quốc tịch của bất kỳ quốc gia nào.
Cả hai đối tượng nêu trên đều được Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam điều chỉnh trong quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài, không có sự phân biệt khi xác lập quyền và nghĩa vụ giữa họ với nhau.
- Người nước ngoài thường trú tại Việt Nam là công dân nước ngoài và người không quốc tịch cư trú, làm ăn, sinh sống lâu dài ở Việt Nam (khoản 2 điều 9 Nghị định 68). Do điều kiện cuộc sống hay tính chất công việc họ đang làm mà những người này đã đến và sinh sống lâu dài tại Việt Nam. Và theo đó một nhu cầu hoàn toàn có khả năng phát sinh đó chính là việc đăng ký kết hôn. Những đối tượng đó sẽ trở thành chủ thể trong quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài khi họ có nguyện vọng kết hôn tại cơ quan có thẩm quyền tại Việt Nam.
- Ngoài ra, những công dân Việt Nam ra nước ngoài sinh sống một cách hợp pháp và kết hôn tại cơ quan có thẩm quyền của nước sở tại cũng được đặt ra và xem đây là một trong những trường hợp kết hôn có yếu tố nước ngoài. Căn cứ để xác lập mối quan hệ hôn nhân ở đây là theo pháp luật nước ngoài mặc dù chủ thể tham gia là người Việt Nam.
Xuất phát từ những ảnh hưởng của tình hình kinh tế xã hội, xu thế phát triển hội nhập quốc tế, những quan hệ xã hội mới nảy sinh đòi hỏi pháp luật phải quy định mở rộng. Do tính chất của hôn nhân có yếu tố nước ngoài luôn có khả năng dẫn đến hiện tượng xung đột pháp luật nên việc xác định chủ thể hay căn cứ làm phát sinh quan hệ có ý nghĩa rất quan trọng. Tạo điều kiện để những người áp dụng pháp luật giải quyết sự việc phù hợp và đúng theo quy định.
Trong một số trường hợp, quan hệ hôn nhân tuy có liên quan đến yếu tố nước ngoài nhưng khi nhìn nhận dưới góc độ Tư pháp quốc tế thì điều này không dẫn đến hiện tượng xung đột pháp luật, chẳng hạn như: “Công dân Việt Nam định cư ở nước ngoài về nước kết hôn với công dân ở trong nước hay hai công dân Việt Nam kết hôn với nhau tại cơ quan đại diện ngoại giao, lãnh sự Việt Nam ở nước ngoài”(1). Các bên chủ thể này khi kết hôn với nhau sẽ tuân theo pháp luật Việt Nam.
Tóm lại, kết hôn có yếu tố nước ngoài được hiểu là là việc xác lập quan hệ vợ chồng theo quy định của pháp luật về điều kiện kết hôn và đăng ký kết hôn giữa công dân Việt Nam và người nước ngoài, giữa người nước ngoài với nhau thường trú tại Việt Nam, và công dân Việt Nam với nhau tại cơ quan có thẩm quyền nước ngoài.
Quan hệ này được quy định cụ thể trong pháp luật hiện hành, cụ thể là Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 và hướng dẫn cụ thể tại Nghị định số 68 và Nghị định số 69 của Chính phủ. Tạo cơ sở pháp lý để điều chỉnh các quan hệ mới phát sinh, đảm bảo sự ổn định và trật tự xã hội.
1.2 Nguyên tắc trong kết hôn có yếu tố nước ngoài.
Kết hôn có yếu tố nước ngoài về thực chất cũng mang những yếu tố tương tự như kết hôn trong nước. Đó là những quy định về điều kiện kết hôn và những vấn đề liên quan đến việc hình thành mối quan hệ hôn nhân. Với bản chất một quan hệ dân sự theo nghĩa rộng có yếu tố nước ngoài, hôn nhân ở đây cũng mang nét đặc trưng riêng và cần có những quy phạm pháp luật trực tiếp điều chỉnh cho phù hợp.
Trích bình luận khoa học Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, trang 505
Tình hình thực tế của việc kết hôn có yếu tố nước ngoài trong những năm gần đây đã có sự thay đổi rất lớn về cả nội dung lẫn hình thức. Tuy nhiên một thực tế mà chúng ta không thể phủ nhận đó là số lượng các cặp nam nữ kết hôn trong trường hợp này đã tăng lên một cách rõ nét, không kể đến những trường hợp nam nữ sống chung với nhau mà không tiến đến đăng ký kết hôn. Do tính chất phức tạp của quan hệ mà khi đưa ra những biện pháp giải quyết đòi hỏi những nhà làm luật cũng như những cơ quan có thẩm quyền xem xét dưới nhiều góc độ khác nhau trên những nguyên tắc nhất định. Qua nghiên cứu và đúc kết từ thực tiễn, việc xây dựng và áp dung pháp luật về quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài cần đáp ứng những nguyên tắc chung sau đây:
1.2.1. Tôn trọng và bảo vệ các quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài trên cơ sở pháp luật Việt Nam, Điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia và những nguyên tắc chung của pháp luật quốc tế.
Đây là một nguyên tắc đóng vai trò quan trọng và xuyên suốt trong toàn bộ quá trình xây dựng pháp luật cũng như đề xuât những giải pháp. Ở Việt Nam quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài được thừa nhận không những trong thực tế mà còn được cụ thể hóa bằng những quy định của pháp luật. Điều này đã tạo một cơ sở pháp lý để nhà nước quản lý và nắm bắt được tình hình kết hôn trên thực tế, đảm bảo quyền lợi cho các chủ thể trực tiếp tham gia vào quan hệ.
Bất kì một quốc gia yêu chuộng hòa bình nào cũng phải tôn trọng và chịu sự chi phối từ những quy định của luật quốc tế trên nguyên tắc tôn trọng các cam kết quốc tế. Hiện nay, các nước trên thế giới trong đó có Việt Nam đã tham gia ký kết các Hiệp định, Hiệp định khu vực, cũng như gia nhập vào các tổ chức quốc tế nhằm mục đích là có được sự hỗ trợ, giúp đỡ về nhiều phương diện từ quốc tế. Phương hướng để giải quyết những tồn tại đối với hoạt động kết hôn có yếu tố nước ngoài liên quan trực tiếp đến nhiều vấn đề pháp lý quốc tế.
1.2.2. Quyền và nghĩa vụ của các chủ thể là người Việt Nam hay người nước ngoài đều bình đẳng và được tôn trọng.
Nhìn chung, chế định kết hôn có yếu tố nước ngoài được Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định và hướng dẫn tại Nghị định số 68 và Nghị định số 69 của Chính phủ đã thể hiện rõ nét tinh thần của nguyên tắc này, xuất phát từ chính sách chung của Nhà nước nhằm nâng cao vai trò của yếu tố con người trong việc xây dựng chiến lược phát triển kinh tế xã hội. Trong những năm gần đây, sự qua lại giữa công dân Việt Nam và nguời nước ngoài ngày càng trở nên phổ biến đòi hỏi quốc gia phải có những định hướng, chính sách phù hợp.
Cụ thể trong chế định hôn nhân có yếu tố nước ngoài, pháp luật Việt Nam đã quy định điều kiện kết hôn cơ bản giống nhau giữa công dân Việt Nam và người nước ngoài. Trên thực tế vấn đề bất bình đẳng trong mối quan hệ này vẫn còn nảy sinh và chưa được giải quyết triệt để. Đây là một nguyên nhân dẫn đến tình trạng lợi dụng việc kết hôn để thực hiện hành vi trái pháp luật và đạo đức xã hội, giá trị của con người bị hạ thấp đặc biệt là người phụ nữ.
Đây là hai nguyên tắc cơ bản trong xây dựng và áp dụng pháp luật về quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài.
1.3. Điều kiện kết hôn
Điều kiện kết hôn là những quy định mang tính pháp lý bắt buộc mà nhà nước đặt ra cho các bên nam nữ khi kết hôn phải tuân thủ. Muốn xác lập một quan hệ hôn nhân hợp pháp thì đòi hỏi phải có sự thừa nhận của nhà nước tức là phải đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Điều kiện kết hôn là tiền đề để các chủ thể kết hôn tiến tới xây dựng gia đình hạnh phúc,
“Trong việc kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài, mỗi bên phải tuân theo pháp luật nước mình về điều kiện kết hôn, nếu việc kết hôn được tiến hành tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam thì người nước ngoài phải tuân thủ theo quy định của luật này về điều kiện kết hôn. Việc kết hôn giữa những người nước ngoài với nhau tại Việt Nam trước cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam phải tuân theo các qui định của luật này về điều kiện kết hôn”.
( Điều 103 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000)
Đây là một điểm mới của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 so với luật năm 1986, quy định rõ ràng về việc áp dụng pháp luật, hạn chế và góp phần giải quyết những xung đột pháp luật nảy sinh.
Cơ sở xây dựng điều kiện kết hôn là những nghiên cứu về tâm lý, sức khỏe, và khả năng ảnh hưởng đến cuộc sống con người. Nghĩa là, khi tiến đến hôn nhân các bên nam nữ phải đáp ứng đầy đủ sự phát triển cả về thể chất lẫn tinh thần, đảm bảo việc thực hiện các chức năng quan trọng của gia đình và vai trò trách nhiệm của từng thành viên trong đó.
Ngoài ra điều kiện kinh tế xã hội cũng như truyền thống đạo đức, các chính sách lớn của nhà nước liên quan đến lĩnh vực hôn nhân và gia đình cũng là những yếu tố ảnh hưởng đến tình hình kết hôn hiện nay.
Xuất phát từ những lý luận khoa học và thực tiễn, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 đã quy định điều kiện kết hôn gồm 3 nội dung như sau:
1.3.1. Điều kiện về độ tuổi.
“ Nam từ 20 tuổi trở lên, nữ từ 18 tuổi trở lên”
( Khoản 1 điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000)
Khi các chủ thể kết hôn với nhau tức là có sự gắn bó về mặt nhân thân, tạo lập một gia đình mới trong xã hội. Các nhà làm luật đã xây dựng quy phạm về độ tuổi kết hôn nhằm đảm bảo mục đích của hôn nhân trên thực tế. Căn cứ vào sự phát triển thể chất và mức độ nhận thức của từng cá nhân để tổng hợp thành quy định chung về độ tuổi áp dụng cho mọi đối tượng kết hôn.
Phạm vi đối tượng kết hôn theo điều kiện về độ tuổi cũng được mở rộng phản ánh được sự phát triển về mặt sinh lý, tâm lý con người. Theo đó, bất kỳ các bên nam nữ khi đạt độ tuổi mà pháp luật quy định thì có quyền kết hôn phù hợp với nguyện vọng của bản thân.
Quy định của pháp luật về độ tuổi kết hôn chỉ đưa ra mức giới hạn tối thiểu mà các chủ thể kết hôn phải đáp ứng, không yêu cầu về độ chênh lệch tuổi giữa hai bên nam và nữ. Do đó khi áp dụng pháp luật trên thực tế, tình trạng kết hôn mà nam nữ cách nhau đến vài chục tuổi đang trở nên phổ biến hiện nay. Điều này một phần đã ảnh hưởng đến sự phát triển của thế hệ tương lai cũng như những giá trị đạo đức truyền thống trong xã hội.
1.3.2. Điều kiện về sự tự nguyện.
“Việc kết hôn do nam nữ tự nguyện quyết định, không bên nào được ép buộc, lừa dối bên nào, không ai được cưỡng ép hoặc cản trở”
(Khoản 2 điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000)
Tự nguyện là sự thống nhất ý chí của các bên lẫn trong cách thể hiện ra bên ngoài. Hai bên nam nữ tự mình quyết định việc kết hôn, tỏ rõ thái độ ưng thuận lấy nhau và trở thành vợ chồng, không chịu sự tác động hay chi phối từ bên ngoài.
Theo đó, công dân Việt Nam được tự do quyết định việc kết hôn của mình và pháp luật cũng tôn trọng quyền này đối với người nước ngoài. Đây là một quy định hoàn toàn phù hợp với pháp luật quốc gia cũng như pháp luật quốc tế.
Hôn nhân được hình thành trên cơ sở tình yêu chân chính giữa hai bên nam nữ, được biểu hiện thông qua sự tự nguyện kết hôn. Do đó, trong một số trường hợp, kết hôn được coi là vi phạm yếu tố tự nguyện, tức là các chủ thể xác lập mối quan hệ hôn nhân không xuất phát từ ý chí và nguyện vọng của chính bản thân mình mà là do sự tác động, thúc đẩy từ bên ngoài. Cụ thể:
Một bên ép buộc (ví dụ: đe dọa dùng vũ lực hoặc uy hiếp tinh thần hoặc dùng vật chất…) nên buộc bên bị ép buộc đồng ý kết hôn;
Một bên lừa dối (ví dụ: lừa dối là nếu kết hôn sẽ xin việc làm phù hợp hoặc nếu kết hôn sẽ bảo lãnh ra nước ngoài; không có khả năng sinh lý nhưng cố tình giấu; biết mình bị nhiễm HIV nhưng cố tình giấu…) nên bên bị lừa dối đã đồng ý kết hôn.
Một bên hoặc cả hai bên nam và nữ bị người khác cưỡng ép (ví dụ: bố mẹ của người nữ do nợ người nam một khoản tiền nên cưỡng ép người nữ phải kết hôn với người nam để trừ nợ; do bố mẹ của hai bên có hứa hẹn với nhau nên cưỡng ép con của họ phải kết hôn với nhau…) buộc người bị cưỡng ép phải kết hôn trái với nguyện vọng của họ.
Cản trở kết hôn là hành vi gây trở ngại cho việc kết hôn của hai bên nam nữ khi họ đủ điều kiện kết hôn theo quy định của pháp luật.
(Hướng dẫn tại các tiểu mục b.1; b.2; b.3 mục b phần 1-Nghị quyết số 02 năm 2000 của Hội đồng Thẩm Phán).
Do đó để đảm bảo cho việc kết hôn giữa hai bên nam nữ là trên cơ sở tự nguyện, pháp luật đã có những quy định và bắt buộc tiến hành khi các đối tượng này có nguyện vọng tiến tới hôn nhân. Chẳng hạn như khi đăng ký kết hôn phải có mặt của hai bên nam nữ, không cho phép kết hôn vắng mặt. Còn về khả năng nhận thức, pháp luật nghiêm cấm người mất năng lực hành vi dân sự kết hôn. Những trường hợp này đòi hỏi phải có sự thể hiện ý chí của chính các chủ thể, đặc biệt là khi kết hôn có liên quan đến yếu tố nước ngoài.
1.3.3. Việc kết hôn giữa hai bên nam nữ không thuộc một trong các trường hợp cấm kết hôn
Cũng như các trường hợp kết hôn thông thường, việc kết hôn có yếu tố nước ngoài đòi hỏi các chủ thể kể cả công dân Việt Nam và người nước ngoài phải tuân thủ một cách tuyệt đối các điều kiện kết hôn. Các bên nam nữ cần đáp ứng đầy đủ yêu cầu về độ tuổi cũng như sự tự nguyện khi kết hôn.
Đồng thời việc kết hôn này phải không thuộc một trong những trường hợp pháp luật cấm kết hôn. Cụ thể, đây là điều kiện cần và đủ để xem xét tính hợp pháp của một quan hệ hôn nhân.
- Cấm người đang có vợ hoặc đang có chồng kết hôn với người khác.
- Cấm người mất năng lực hành vi dân sự kết hôn.
- Cấm kết hôn giữa những người cùng dòng máu về trực hệ, giữa những người có họ trong phạm vi ba đời.
- Cấm kết hôn giữa cha mẹ nuôi với con nuôi, giữa những người đã từng là cha mẹ nuôi với con nuôi, bố chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, bố dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng.
- Cấm kết hôn giữa những người cùng giới tính.
1.3.3.1. Người đang có vợ hoặc có chồng là:
 Người đã kết hôn với người khác theo đúng quy định của pháp luật về hôn nhân và đình nhưng chưa ly hôn;
 Người sống chung với người khác như vợ chồng từ trước ngày 03/1/1987 và đang chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn;
 Người sống chung với người khác như vợ chồng từ trước ngày 03/1/1987 đến trước ngày 01/01/2001 và đang chung sống với nhau như vợ chồng mà có đủ điều kiện kết hôn nhưng không đăng ký kết hôn (trường hợp này chỉ áp dụng từ ngày Nghị quyết 02/2002 của Hội đồng Thẩm phán có hiệu lực cho đến trước ngày 01/01/2003).
1.3.3.2. Người mất năng lực hành vi dân sự là:
Người mất khả năng bằng hành vi của mình xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự.
1.3.3.3. Giữa những người cùng dòng máu về trực hệ là:
Giữa cha, mẹ với con; giữa ông, bà với cháu nội, cháu ngoại. Giữa những người có họ trong phạm vi ba đời là giữa những người có cùng một gốc sinh ra: cha mẹ là đời thứ nhất; anh chị em cùng cha mẹ, cùng cha khác mẹ, cùng mẹ khác cha là đời thứ hai; anh chị em con chú, con bác, con cô,con cậu, con dì là đời thứ ba.
(Hướng dẫn tại các tiểu mục c.1; c.2; c.3 mục c phần 1 Nghị quyết số 02/2000 của Hội đồng Thẩm phán)
Quan điểm của nhà nước Việt Nam đối với những trường hợp này là dứt khoát và không có những ngoại lệ, đây là một nội dung mà khi công dân Việt Nam kết hôn với người nước ngoài hay người nước ngoài kết hôn với nhau tại Việt Nam đã dẫn đến rất nhiều những xung đột pháp luật. Tuy nhiên, về mặt khách quan những trường hợp bị cấm kết hôn được đặt ra trên cơ sở nghiên cứu khoa học xã hội về tâm lý con người nhưng đây không phải là những yếu tố bất biến. Khi xã hội phát triển đến một mức độ nhất định cũng như trong nhận thức con người có những chuyển biến thay đổi thì pháp luật cũng sẽ có qui định phù hợp.






CHƯƠNG 2
NHỮNG KHÓ NHĂN, VƯỚNG MẮC TRONG VIỆC ÁP DỤNG ĐIỀU CẤM ( ĐIỀU 9 VÀ ĐIỀU 10 ) CỦA LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH TRONG VIỆC ĐĂNG KÝ KẾT HÔN CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI

2.1 Tình hình kết hôn có yếu tố nước ngoài trong những năm gần đây.
2.1.1. Tình hình chung của việc đăng ký kết hôn có yếu tố nước ngoài.
Trong khoảng thời gian từ 10 năm trở lại đây bắt đầu khoảng từ năm 2000, hoạt động đăng ký kết hôn có yếu tố nước ngoài tại các cơ quan có thẩm quyền tại một số tỉnh đã có dấu hiệu xuất hiện và tăng lên đáng kể ngoài đối tượng của một bên trong quan hệ là người Việt Nam, bên còn lại là người nước ngoài đến đăng ký kết hôn có quốc tịch của nhiều quốc gia trên thế giới. Điều này cho thấy tính chất phức tạp cần phải giải quyết về phía các đối tượng là cán bộ hộ tịch tư pháp.
Tại các tỉnh Miền Đông Nam Bộ là khu vực có những thuận lợi về mặt địa lý cũng như tình hình kinh tế xã hội ổn định trong cả nước. Mức sống người dân cơ bản được đảm bảo thông qua các chính sách được hỗ trợ từ phía nhà nước cũng như bằng chính sự nỗ lực của cá nhân. Và do những ảnh hưởng từ quá trình đô thị hóa mà hiện nay số lượng người đến đăng ký kết hôn có liên quan đến yếu tố nước ngoài đã có thay đổi đáng kể.
Theo báo của các Sở Tư pháp:
ăm 2007 tại thành phố Hồ Chí Minh có 3690 trường hợp, tỉnh Bình Dương có 180 trường hợp kết hôn có yếu tố nước ngoài;
Năm 2008 tại thành phố Hồ Chí Minh có 3780 trường hợp, tại tỉnh Bình Dương có 144 trường hợp kết hôn có yếu tố nước ngoài.
Cùng với Miền đông Nam Bộ, Đồng bằng Sông Cửu Long đã và đang trở thành điểm nóng của hoạt động kết hôn có yếu tố nước ngoài trong cả nước. Tại Đồng Tháp năm 2003 là 1926 trường hợp và 6 tháng đầu năm 2004 là 1006 trường hợp. Ở Cần Thơ, theo thống kê của Sở Tư Pháp tỉnh, từ đầu năm 2003 đến tháng 10 năm 2004 có 3260 trường hợp.
Tại Long An trung bình mỗi năm có trên 300 cuộc hôn nhân có yếu tố nước ngoài được xác lập. Người nước ngoài và Việt kiều kết hôn có quốc tịch và nơi cư trú phân bố ở nhiều quốc gia, khu vực như Mỹ, Úc, Pháp, Canada, các nước Bắc Âu và Đông Nam Á. Phụ nữ lấy chồng nước ngoài cư trú ở nhiều huyện, thị trong tỉnh. Nói chung, hôn nhân có đăng ký, bảo đảm các điều kiện theo luật định. Tuy nhiên, gần đây tình hình phụ nữ kết hôn với người nước ngoài tăng mạnh và có diễn biến phức tạp, khó kiểm soát. từ năm 2005, tình hình phụ nữ lấy chồng nước ngoài ở Long An tăng nhanh về số lượng, chiếm tỷ lệ cao hơn so với Việt kiều. Có đến 90/284 trường hợp kết hôn với người Đài Loan, chiếm tỷ lệ gần 30% số kết hôn có yếu tố nước ngoài. Phụ nữ trong tỉnh lấy chồng Đài Loan trong năm 2005 tập trung nhiều ở các huyện Đức Hòa, Cần Đước, Cần Giuộc,Bến Lức và thành phố Tân An. Năm 2006, tình hình phụ nữ kết hôn với người nước ngoài diễn biến phức tạp hơn, số lượng kết hôn tăng nhanh. Đặc biệt, từ khi Nghị định 158/2005/NĐ-CP ngày 27 tháng 12 năm 2005 của Chính phủ về đăng ký và quản lý hộ tịch được ban hành thì kết hôn nước ngoài còn hình thành dưới hình thức khác thông qua thủ tục ghi chú kết hôn (không đăng ký kết hôn tại Việt Nam mà thực hiện việc đăng ký kết hôn tại cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài, rồi đem giấy chứng nhận kết hôn đến Sở Tư pháp thực hiện việc ghi chú vào sổ hộ tịch). Thủ tục này rất đơn giản và thực hiện nhanh chóng. Địa bàn cư trú của phụ nữ lấy chồng Đài Loan, Hàn Quốc cũng có sự chuyển hướng, tập trung nhiều về các huyện vùng sâu, vùng biên giới có điều kiện kinh tế khó khăn, trong đó nhiều nhất là hai huyện Đức Hoà và Đức Huệ. Trong năm 2006, riêng hai huyện Đức Hoà, Đức Huệ có 122/339 trường hợp kết hôn với nước ngoài, chiếm hơn 30% cả tỉnh, trong đó 65 trường hợp ghi chú kết hôn với Hàn Quốc. Năm 2007, số lựơng các vụ kết hôn nước ngoài ở hai huyện trên là 146/325, chiếm gần 50% cả tỉnh, trong đó Hàn Quốc là 101 trường hợp.
Như vậy thông qua quá trình tìm hiểu các số liệu, một thực tế không thể phủ nhận đó là các hoạt động đăng ký kế hôn có yếu tố nước ngoài đã không dừng lại ở con số vài chục mà đã tăng lên vài trăm, vài ngàn trường hợp trong một năm. Hiện nay, Thành phố Hồ Chí Minh vẫn là nơi mà tỉ lệ kết hôn chiếm vị trí đáng kể trong cả nước. Theo bà Nguyễn Thị Thu Hà, Thành phố Hồ Chí Minh là địa phương có tỷ lệ người kết hôn có yếu tố nước ngoài cao nhất nước, với trên 60 quốc gia có công dân là chủ thể tham gia vào mối quan hệ hôn nhân với công dân Việt Nam. Năm 2007, đã có 2.358 phụ nữ của thành phố kết hôn với người nước ngoài. Tuy nhiên, tình trạng lấy chồng nước ngoài của một bộ phận phụ nữ chủ yếu vì nhu cầu kinh tế, thông qua các hình thức môi giới hôn nhân, không xuất phát từ tình cảm, tình yêu để xác lập mối quan hệ hôn nhân hợp pháp, bình đẳng, hạnh phúc.
2.1.2 Tình hình phụ nữ Việt Nam kết hôn với người nước ngoài đặc biệt là người Đài Loan, và một số tồn tại hiện nay.
Luật hôn nhân và gia đình năm 1986 ghi nhận đầu tiên và hướng dẫn cụ thể tại Nghị Định 184/CP ngày 30/11/1994 của Chính Phủ về thủ tục đăng ký kết hôn, nhận nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài. Trong giai đoạn đầu, hoạt động này diễn ra với mức độ trung bình, số trường hợp đăng ký kết hôn mà các cơ quan giải quyết chỉ là trường hợp nhỏ, vài chục mỗi năm. Trong nhận thức của người dân tại thời điểm này thì đây là một vấn đề xa lạ, trái với truyền thống xưa và nay.
Dưới tác động của dư luận xã hội đã làm cho tình hình kết hôn có yếu tố nước ngoài không phải là vấn đề xã hội đáng quan tâm. Hơn nữa mức độ ảnh hưởng từ những hoạt động môi giới gần như không có mà chủ yếu là xuất phát từ những mối quan hệ trong gia đình có người thân, bạn bè đi nước ngoài.
Từ năm 2000, đặc biệt là sau khi Chính phủ ban hành Nghị Định số 68/2002/NĐ-CP ngày 10/07/2002, tình hình kết hôn có yếu tố nước ngoài nói chung và phụ nữ Việt Nam kết hôn với người Đài Loan đã trở nên sôi động. Do có những chuyển biến thay đổi trong đời sống kinh tế cũng như xã hội, những nhu cầu mới phát sinh và pháp luật cần có những quy định để giải quyết.
Tổng hợp các số liệu những trường hợp phụ nữ Việt Nam kết hôn với người Đài Loan được ghi nhận theo thống kê của Sở Tư Pháp tại một số tỉnh thành như sau:
Tại Long An theo số liệu thống kê tình hình phụ nữ Việt Nam kết hôn với người Đài Loan từ năm 2001 đến 2009 là:

Năm 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009
Số trường hợp 61 83 90 115 150 173 185 199 190
Vấn đề phụ nữ Việt Nam kết hôn với người Đài Loan đã trở thành mối quan tâm không những của chính nhân dân trong tỉnh mà còn là của cả nước. Số lượng người nước ngoài nhất là người Đài Loan có nhu cầu đến Việt Nam kết hôn ngày càng tăng. Cùng với đó là xu hướng gả con cho người nước ngoài vì mục đích kinh tế trước mắt đang tăng lên một cách đáng kể.
Tại tỉnh Cần Thơ: từ 01/20003-10/2004 có 2871 trường hợp kết hôn với người Đài Loan chiếm 88% trong tổng số(1).
Tại tỉnh Vĩnh Long:
Năm 2001: 862 trường hợp.
Năm 2002: 716 trường hợp.
Năm 2003: 467 trường hợp(2).
Qua phân tích số liệu: các trường hợp phụ nữ Việt Nam Kết hôn với người nước ngoài nói chung và người Đài Loan nói riêng tại một số tỉnh thành cho thấy tình hình kết hôn có yếu tố nước ngoài đang là một vấn đề nóng bỏng trong xã hội và tỉ lệ phụ nữ kết hôn với người Đài Loan luôn chiếm một tỉ lệ cao trong tổng số trường hợp. Xuất phát từ nhiều nguyên nhân khách quan, chủ quan nhưng không thể phủ nhận những tồn tại đang diễn ra hiện nay.







(1)Báo nhân dân ngày 23/3/2005 về quản lý Nhà Nước đối với quan hệ hôn nhân gia đình có yêu cầu nước ngoài
(2)Tham luận tình hình ly hôn với người nước ngoài tại tỉnh Vĩnh Long – TAND tỉnh Vĩnh Long ngày 10/9/2009
2.2. Nguyên nhân của hiện tượng kết hôn có yếu tố nước ngoài
Kết hôn có yếu tố nước ngoài là một vấn đề đã và đang diễn ra phổ biến trong xã hội. Sự gia tăng đáng kể các trường hợp kết hôn hiện nay cũng như những tồn tại trong quá trình thiết lập mối quan hệ này làm ảnh hưởng sâu sắc đến tình hình thực tế của xã hội Việt Nam. Do tính chất mối quan hệ không những liên quan đến pháp luật Việt Nam mà còn ảnh hưởng đến pháp luật của nhiều quốc gia trên thế giới.
Do đó, ngay từ khi xuất hiện và được các quy phạm pháp luật điều chỉnh quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài đã phát sinh nhiều hạn chế trong thực tiễn đăng ký kết hôn nói riêng và áp dụng pháp luật nói chung. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến thực trạng này nhưng chủ yếu và cốt lõi là xuất phát từ những thay đổi trong tình hình kinh tế và xã hội của đất nước.
2.2.1. Thứ nhất về mặt xã hội
Ngày nay khi cuộc sống của người dân có những thay đổi đáng kể trong nhiều lĩnh vực, đòi hỏi phải có sự vận động không ngừng của từng cá nhân cụ thể để thích ứng với môi trường thực tế đó. Xu hướng quốc tế hóa được mở rộng, đưa Việt Nam hòa nhập với cộng đồng thế giới, tạo ra sự giao lưu liên kết giữa những cá nhân, công dân trong nước với người nước ngoài. Biểu hiện rõ nét là các quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài được hình thành và ngày càng trở nên phổ biến tại Việt Nam.
Nguyên nhân đầu tiên và dễ dàng nhận thấy đó là: số lượng người nước ngoài đến Việt Nam sinh sống và làm việc gia tăng đáng kể.
Hàng năm Việt Nam thu hút hàng ngàn lượt người đến hoạt động kinh doanh, giao lưu kinh tế văn hóa, du lịch, thăm thân nhân… do chính sách mở cửa của Nhà nước ngày càng cải thiện theo chiều hướng thông thoáng hơn, mở cửa hợp tác với nhiều quốc gia trên thế giới. Trong khi đó một số người có khả năng trong nước lại ra nước ngoài sinh sống, học tập và làm việc dẫn đến tình trạng kết cấu dân số có những biến động rõ rệt. Chính sự ảnh hưởng trực tiếp về tình hình này mà việc kết hôn đã mở rộng đối tượng chủ thể và ngày càng trở nên sôi động để đáp ứng những mục đích nhu cầu của cá nhân tham gia.
2.2.2. Thứ hai, xuất phát từ nhận thức của các chủ thể kết hôn
Do nhu cầu của cuộc sống ngày càng cao, trình độ nhận thức tương đối được mở rộng, người dân không chỉ quan tâm đến các vấn đề thiết yếu của cuộc sống mà bên cạnh đó còn là những đòi hỏi về vật chất lẫn tinh thần mang tính hiện đại hơn. Để đáp ứng được điều này, có nhiều cách thức được các chủ thể áp dụng và một trong số đó là hình thành các quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài.
Bên cạnh đó, kết quả này cũng nảy sinh trong một tình trạng ngược lại. Nếu những đối tượng trên chủ yếu là sinh sống tại các đô thị lớn trong cả nước, thì phần đông còn lại là một bộ phận dân cư sống tại vùng nông thôn, miền núi. Những người này có cuộc sống khó khăn và trình độ nhận thức còn hạn chế. Tuy nhiên, hiện nay đây lại là đối tượng kết hôn với người nước ngoài phổ biến trên thực tế.
Cả hai nhóm chủ thể trên tuy ở những hoàn cảnh điều kiện sinh sống khác nhau, nhưng khi kết hôn với người nước ngoài thì phần lớn đều nhằm một mục đích đó là đáp ứng nhu cầu cá nhân. Ví dụ: kết hôn là để được đi ra nước ngoài; kết hôn theo sự áp đặt của cha mẹ, gia đình; kết hôn theo phong trào để tránh bị coi thường bởi những người xung quanh; thậm chí kết hôn chỉ vì muốn một lần được đi máy bay…. Điều này đã dẫn đến thực trạng là hôn nhân hiện nay bị chi phối bởi nhiều yếu tố khác nhau của cuộc sống và không được xây dựng trên cơ sở tình yêu chân chính.
2.2.3. Thứ ba, kết hôn và mục đích kinh tế.
Đa số các trường hợp kết hôn có yếu tố nước ngoài hiện nay các bên nam nữ đều nhằm vào lợi ích kinh tế nhất định, đặc biệt là người phụ nữ Việt Nam. Khi đất nước bước sang cơ chế thị trường, xóa bỏ bao cấp, hàng loạt những thay đổi trong chính sách của nhà nước. Trong đó, tạo mọi điều kiện thuận lợi để thu hút các nhà đầu tư nước ngoài, hợp tác giao lưu với nhiều quốc gia trên thế giới trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa… tuy nhiên mặt trái của nền kinh tế thị trường đã có những ảnh hưởng nhất định đến lối sống của người dân Việt Nam, đua đòi chạy theo những mục tiêu thực dụng, xem thường những giá trị đạo đức truyền thống. Cụ thể các tình trạng này được minh họa rõ nét trong hôn nhân. Hôn nhân ngày nay được thương mại hóa chính các chủ thể trong quan hệ đó. Được hình thành trên cơ sở tình yêu hầu như chiếm một tỷ lệ rất ít, thay vào đó là kết hôn để đạt được lợi ích kinh tế trước mắt. Hạnh phúc gia đình được đem ra mua bán trao đổi bằng những khoản tiền. Phổ biến là người phụ nữ do hoàn cảnh gia đình quá khó khăn, muốn thay đổi cuộc sống bằng việc kết hôn với người nước ngoài, họ sẵn sàng chấp nhận các cuộc hon nhân này dù không có tình yêu hay chênh lệch tuổi tác, người chồng bị dị tật….
2.2.4. Thứ tư, kết hôn dưới tác động của hoạt động môi giới.
Thực trạng đang tồn tại của hoạt động môi giới bất hợp pháp là một trong những nguyên nhân làm ảnh hưởng tiêu cực đến đến kết hôn có yếu tố nước ngoài hiện nay. Trước hết môi giới xuất hiện do nhu cầu khách quan của chính các chủ thể đăng ký kết hôn. Về bản chất hoạt động này đã tạo ra những điều kiện thuận lợi để các bên nam nữ trong và ngoài nước tìm hiểu tiếp xúc lẫn nhau. Chỉ riêng hoạt động của hình thức này đã làm tăng đáng kể các trường hợp kết hôn có yếu tố nước ngoài trên thực tế.
Một số cá nhân là tổ chức đã lợi dụng việc môi giới để kiếm lợi nhuận bằng chính thủ đoạn gian dối nhưng về hình thức lại là hợp pháp. Điều này đã đưa đến hậu quả sau hôn nhân đã làm ảnh hưởng đến các bên trong quan hệ đặc biệt là người phụ nữ.
Nhìn theo một hướng khác, môi giới có thể dẫn đến hạnh phúc gia đình nếu các bên đến với nhau bằng tình yêu chân chính và vì mục đích tốt đẹp của hôn nhân. Nhưng ngược lại, phần đông các cuộc hôn nhân hiện nay chịu ảnh hưởng từ các yếu tố khách quan, chủ quan từ bên ngoài mà trong đó có việc giới thiệu về lợi ích tốt đẹp khi kết hôn với người nước ngoài của các đối tượng môi giới. Đây cũng là nguyên nhân của tình trạng các cặp vợ chồng chung sống với nhau chỉ trong một thời gian ngắn và sau đó là ly hôn, nền tảng của gia đình không được đảm bảo.
2.2.5. Thứ năm, về mặt pháp lý.
Pháp luật điều chỉnh quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài trên cơ sở những phát sinh thay đổi từ thực tế cuộc sống. Đây không chỉ đơn thuần mang tính chất nội bộ của vùng miền mà có liên quan đến vấn đề quốc gia dân tộc , mối quan hệ giữa Việt Nam và các nước trên thế giới nhà nước đã xây dựng một hành lang pháp lý cụ thể cũng là nguyên nhân thúc đẩy và làm phát sinh tình trạng kết hôn có tính chất nước ngoài. Bởi pháp luật được đặt ra không chỉ là công cụ để Nhà nước quản lý xã hội mà còn là một trong những biện pháp hữu hiệu để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân tại quốc gia đó.
Tại thời điểm này cơ sở pháp lý của hôn nhân có yếu tố nước ngoài được ghi nhận cụ thể trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 cũng như tại Nghị định số 68 và 69 của Chính phủ. Về mặt nội dung các văn bản này đã được nhà làm Luật xây dựng trên cơ sở lý luận cũng như thực tiễn. Ghi nhận những thay đổi của tình hình xã hội để điều chỉnh phù hợp đối với quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài. Tuy nhiên trong quá trình áp dụng pháp luật lại nảy sinh nhiều vấn đề gây ảnh hưởng đến cuộc sống của người dân cũng như các chính sách của nhà nước, do tính chất biến đổi không ngừng của các hiện tượng trong xã hội.
Một số cá nhân đã không tuân thủ quy định của pháp luật về kết hôn, đi ngược lại với tinh thần chung của pháp luật hôn nhân và gia đình hiện nay.
Tóm lại, tình hình kết hôn có yếu tố nước ngoài là một hiện tượng xã hội phát sinh từ nguyên nhân khách quan lẫn chủ quan. Chính sự tác động của nguyên nhân này vào quan hệ hôn nhân và gia đình đã làm nảy sinh những hạn chế, phức tạp trong hoạt động kết hôn cần phải được khắc phục và giải quyết kịp thời.
2.3. Thực trạng việc đăng ký kết hôn có yếu tố nước ngoài theo Nghị định số 68/2002/NĐ-CP và Nghị định số 69/NĐ-CP.
Theo đánh giá của Ông Trần Thất- Vụ trưởng Vụ Hành chính Tư pháp trong Báo cáo chuyên đề công tác hành chính tư pháp tại Hội nghị giao ban công tác tư pháp 6 tháng đầu năm 2008, 2 Nghị định điều chỉnh lĩnh vực hộ tịch có yếu tố nước ngoài là Nghi định 68/2002/NĐ-CP và Nghị định 69/2007/NĐ-CP đã đưa công tác hộ tịch có yếu tố nước ngoài nói chung và việc đăng ký kết hôn có yếu tố nước ngoài nói riêng đi vào quỹ đạo ổn định, cơ bản đáp ứng được yêu cầu quản lý Nhà nước, cũng như giải quyết thấu đáo được các vấn đề phát sinh trong lĩnh vực này. Tuy nhiên, bên cạnh đó, cũng không tránh khỏi những tồn tại có nguyên nhân từ vấn đề cơ bản nhất, vấn đề nhân sự.
Theo tổng kết của Vụ Hành chính Tư pháp, khi giải quyết việc kết hôn có yếu tố nước ngoài, cán bộ Hộ tịch của các Sở Tư pháp có rất nhiều cách hiểu khác nhau, dẫn đến việc áp dụng các quy định về thủ tục không thống nhất. Cùng một việc, nhưng địa phương này giải quyết dễ dàng, địa phương khác lại gây khó khăn, thậm chí không giải quyết, dẫn đến bức xúc trong dư luận. Chính vì vậy, đã có trường hợp, đương sự phải làm động tác chuyển hộ khẩu từ địa phương này sang địa phương khác mới được công nhận việc kết hôn.
Một số cán bộ hộ tịch lại không cập nhật kịp thời những quy định mới, thậm chí không nghiên cứu kỹ những quy định hiện hành nên đã dẫn đến việc gây phiền hà cho các bên kết hôn. Nhiều khi, chính người đi làm thủ tục đăng ký kết hôn lại hiểu luật hơn cán bộ giải quyết việc đăng ký kết hôn. Nhưng vì tâm lý “tránh voi chẳng xấu mặt nào”, nên họ vẫn phải đáp ứng đủ các giấy tờ mà cán bộ yêu cầu, dù biết rõ mười mươi rằng pháp luật không có quy định nào yêu cầu như vậy.
Những năm gần đây, cùng với sự phát triển của nền kinh tế, nước ta mở rộng giao lưu về nhiều mặt với các nước, người nước ngoài đến làm ăn, sinh sống lâu dài ngày càng nhiều, bà con Việt kiều về nước thăm thân nhân, họ hàng, đầu tư kinh doanh đông hơn, két theo số lượng kết hôn có yếu tố nước ngoài cũng ngày càng tăng. Trong khi đó, pháp luật về hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài còn nhiều sơ hở. Quy định về công nhận và ghi chú việc kết hôn đã tiến hành ở nước ngoài còn lỏng lẻo, chưa cụ thể, thủ tục ghi chú khá đơn giản. Đương sự chỉ cần xuất trình giấy tờ hộ tịch đã đăng ký hợp lệ tại cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài thì được công nhận và ghi chú vào sổ hộ tịch (tức là công nhận giá trị pháp lý giấy tờ hộ tịch đó tại Việt Nam). Trong khi đó, pháp luật về hôn nhân gia đình của phía Hàn Quốc quy định rất “thoáng”: Khi người đàn ông Hàn Quốc muốn kết hôn với phụ nữ Việt Nam, họ yêu cầu phía nữ gửi giấy xác nhận độc thân, bản sao khai sinh, chứng minh nhân dân để kê khai việc kết hôn và được nhập tên vào sổ hộ khẩu gia đình người chồng tại Hàn Quốc. Sau đó, họ tiếp tục đến lãnh sự quan Hàn Quốc tại TP. Hồ Chí Minh để được cấp giấy chứng nhận không cản trở việc kết hôn theo luật pháp Hàn Quốc và đến Sở Tư pháp làm thủ tục ghi chú. Điều đáng nói là suốt quá trình đó người phụ nữ Việt Nam vẫn chưa từng đến Hàn Quốc, mọi thủ tục tại Hàn Quốc do bên nam thực hiện.
Phần lớn các cô gái lấy chồng Đài Loan, Hàn Quốc hiện nay đều xuất thân từ những gia đình nghèo ở vùng sâu, vùng xa, không có việc làm và thu nhập ổn định. Hầu hết có trình độ học vấn thấp, không có điều kiện tiếp cận thông tin, càng không am hiểu pháp luật. Lợi dụng tình hình đó, nhiều tổ chức, cá nhân hoạt động môi giới kết hôn nhằm trục lợi đã ráo riết khai thác, đối tượng chính mà bọn chúng nhằm vào là phụ nữ nghèo ở vùng sâu. Một số trường hợp phụ nữ lấy chồng Đài Loan, Hàn Quốc, đã theo chồng định cư ở nước ngoài và may mắn có được cuộc sống ổn định, có việc làm, sau đó lại đưa người nước ngoài về nước để giới thiệu, mai mối cho chị em, họ hàng và cứ thế ngày càng nhân rộng…Một bộ phận phụ nữ nông thôn ảnh hưởng lối sống thực dụng, đua đòi chạy theo xu hướng lấy chồng nước ngoài với hy vọng “đổi đời” đã dễ dàng chấp nhận sự mai mối để lấy chồng ngoại quốc.
Trước thực trạng kết hôn có yếu tố nước ngoài diễn biến phức tạp, những năm gần đây Chính phủ đã chỉ đạo chấn chỉnh công tác quản lý và đăng ký kết hôn có yếu tố nước ngoài. Tại Long An, năm 2006 UBND tỉnh ban hành Quyết định số 52 quy định về thủ tục, trình tự và thời hạn giải quyết việc hộ tịch, lý lịch tư pháp tại Sở Tư pháp; chỉ đạo Sở Tư pháp tăng cường thực hiện quy định về phỏng vấn các bên kết hôn trong thủ tục đăng ký kết hôn và thủ tục ghi chú. Trên cơ sở đó, Sở Tư pháp đã thành lập đội ngũ cán bộ phỏng vấn độc lập với Phòng nghiệp vụ đăng ký hộ tịch, nên đã hạn chế tiêu cực, lạm quyền trong quá trình giải quyết và nâng chất lượng phỏng vấn. Tỉnh cũng chỉ đạo ngành Công an tăng cường thực hiện biện pháp xác minh để làm rõ các trường hợp kết hôn có nghi vấn. Công an xác minh, phỏng vấn đã giúp cho việc giải quyết đúng pháp luật, loại trừ các trường hợp kết hôn giả tạo thông qua môi giới kết hôn bất hợp pháp hoặc kết hôn nhằm mục đích khác. Đầu tháng 12/2007, UBND tỉnh tiếp tục ban hành Chỉ thị về tăng cường quản lý quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài, trong đó áp dụng nhiều biện pháp như tuyên truyền, giáo dục pháp luật cho phụ nữ, ngăn chặn, triệt phá các đường dây môi giới kết hôn; Tăng cường công tác phỏng vấn, xác minh, mạnh dạn từ chối giải quyết với những trường hợp kết hôn qua môi giới, kết hôn vội vã hoặc hai bên chưa giao tiếp được với nhau. Tuy nhiên, mọi cố gắng của địa phương cũng chỉ là tạm thời, bởi hiện nay Nghị định số 68/2002/NĐ-CP và Nghị định số 69/2006/NĐ-CP đã bộc lộ nhiều hạn chế, không theo kịp diễn biến thực tế của quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài.
2.4. Những khó khăn, vướng mắc trong việc áp dụng điều cấm (Điều 9 và Điều 10) của Luật Hôn nhân và Gia đình trong việc đăng ký kết hôn có yếu tố nước ngoài.
Theo quy đinh của Luật Hôn Nhân Và Gia Đình năm 2000, thì điều kiện kết hôn (Điều 9 và Điều 10) chính là các quy định mang tính pháp lý bắt buộc mà Nhà nước đặt ra cho các bên nam, nữ khi kết hôn phải tuân thủ. Muốn xác lập một hôn nhân hợp pháp thì đòi hỏi phải có sự thừa nhận của Nhà nước tức là phải đăng ký kết hôn tại cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.
Tuy nhiên trên thực tế khi áp dụng điều kiện kết hôn, ta gặp không ít những khó khăn và vướng mắt khi áp dụng chúng.
Thực tế công tác tư pháp ở các Sở Tư Pháp cho thấy khi giải quyết đăng ký kết hôn có yếu tố nước ngoài thì: nếu trường hợp pháp luật của hai bên kết hôn có sự tương đồng về điều kiện kết hôn thì khi giải quyết cho hai bên đăng ký kết hôn Sở Tư Pháp không gặp bất kỳ sự khó khăn và vướng mắc nào khi giải quyết cho đăng ký kết hôn. Sau khi nhận hồ sơ thì lúc đó Sở Tư Pháp mới xem xét đến phần các bên có điều kiện đăng ký kết hôn hay không. Thông thường khi các bên đến nộp hồ sơ thì họ hầu như đã chuẩn bị đầy đủ và phù hợp với các điều kiện kết hôn theo quy định của pháp luật Việt Nam.
Điều đáng nói ở đây chính là trường hợp khi Sở Tư Pháp nhận hồ sơ của các bên kết hôn mà phát hiện pháp luật hai nước của hai bên kết hôn có sự khác nhau về điều kiện kết hôn, tức là pháp luật hai nước có sự xung đột về điều kiện kết hôn. Đối với trường hợp này Sở Tư Pháp sẽ tiến hành trả hồ sơ đăng ký kết hôn của các bên và không chấp nhận cho đăng ký kết hôn.Vì đối với trường hợp này rõ ràng pháp luật hai nước của hai bên kết hôn có sự khác biệt về điều kiện kết hôn thì làm sao có thể tiến hành cho đăng ký kết hôn được. Điều này được xem là khó khăn và vướng mắc khi áp dụng điều kiện kết hôn khi tiến hành cho hai bên đăng kí kết hôn nên hầu như mọi Sở Tư Pháp đều từ chối cho đăng kí kết hôn.
Sau đây sẽ là một vài phân tích để làm rõ những điều đã được nêu ở trên.
2.4.1 Thứ nhất, đối với trường hợp pháp luật hai nước của hai bên đăng ký kết hôn có sự tương đồng về điều kiện kết hôn.
Sau khi nhận đầy đủ hồ sơ giấy tờ hợp lệ của các bên kết hôn, Sở Tư Pháp sẽ xem xét và trải qua giai đoạn phỏng vấn nếu thấy hai bên kết hôn không vi phạm điều kiện kết hôn thì Sở Tư Pháp sẽ chấp nhận cho hai bên đăng ký kết hôn. Tuy nhiên, thực tế của việc kết hôn này dù phù hợp với các điều kiện kết hôn do hai nước đặt ra nhưng không phải trường hợp kết hôn nào cũng dựa trên tình yêu chân chính và với mục đích xây dựng gia đình hạnh phúc.
Những năm gần đây những phương tiện truyền thông đại chúng liên tục phản ánh không ít trường hợp các cô gái Việt Nam lấy chồng ngoại nhưng cuộc sống hôn nhân không hạnh phúc. Họ bị đối xử bất công, bị đánh đập, thậm chí có nhiều người đã chết, có thể do tự tử hoặc trước sự đánh đập tàn nhẫn của người chồng. Điển hình gần đây nhất là trường hợp cô dâu Huỳnh Mai đã chết thảm khốc tại đất Hàn trong tầng hầm căn nhà của người chồng sau tám ngày bị giết với 18 chiếc xương sườn bị gãy. Đây là trường hợp điển hình cho thấy việc người vợ quá ít tuổi kết hôn với người chồng quá nhiều tuổi do họ không hiểu nhau cả về ngôn ngữ và lối sống. Đặc biệt là phương diện tình cảm họ không thấu hiểu được tâm lý mong muốn của nhau.
Trường hợp trên là một trong vô số trường hợp cho thấy quá trình phỏng vấn theo quy định của pháp luật Việt Nam để biết được yếu tố tự nguyện của các bên, sự thấu hiểu lẫn nhau về lối sống… đang có vấn đề. Mặc dù giai đoạn phỏng vấn là vô cùng quan trọng giúp cơ quan nhà nước kiểm tra được việc kết hôn của hai bên là do tự nguyện hay do ép buộc, lừa dối hay vì mục đích vụ lợi khác; đồng thời phỏng vấn còn giúp kiểm tra được mức độ hiểu biết giữa hai bên, khả năng giao tiếp ngôn ngữ chung ra sao… nhưng vì thực tế Sở Tư Pháp các tỉnh đã làm không tốt giai đoạn này nên đã chấp nhận cho các bên đăng ký kết hôn một cách dễ dàng mặc dù họ thật sự không hiểu ngôn ngữ của nhau; Vì lý do dơn giản hơn nữa là các cô gái Việt Nam lấy chồng chỉ vì mục đích là kiếm được nhiều tiền từ việc kết hôn này.
Trước đây theo quy định của Nghị Định số 68/2002/NĐ-CP thì sau khi tiếp nhận hồ sơ đăng ký kết hôn của các bên, Sở Tư Pháp sẽ tiến hành thẩm tra xác minh hồ sơ, chỉ những trường hợp nào qua thẩm tra xác minh mà phát hiện thấy có nghi vấn hoặc có khiếu nại tố cáo về việc kết hôn thì mới tiến hành phỏng vấn các bên.
Tuy nhiên theo Nghị Định sửa đổi số 69/2006/NĐ-CP thì tất cả các hồ sơ đăng ký kết hôn bắt buộc phải trải qua giai đoạn phỏng vấn.
Trong vòng 20 ngày, kể từ ngày nhận hồ sơ, Sở Tư Pháp sẽ tiến hành phỏng vấn hai bên kết hôn nên bắt buộc các bên kết hôn phải có mặt tại Việt Nam để tham gia cuộc phỏng vấn này.
Như vậy qua phỏng vấn sẽ giúp tránh được trường hợp đi đến kết hôn chóng vánh của hai bên chỉ qua môi giới, thậm chí hai bên không thể giao tiếp bằng ngôn ngữ chung với nhau, không hiểu biết rõ về hoàn cảnh gia đình của nhau. Qua phỏng vấn cơ quan Tư pháp cũng có thể từ chối cho đăng ký kết hôn nếu phát hiện kết hôn là giả tạo (thường nhằm mục đích xuất cảnh trái phép, không nhằm mục đích xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, bền vững, kết hôn nhằm mục đích mua bán phụ nữ, xâm phạm tình dục đối với phụ nữ hoặc vì mục đích trục lợi khác, kết hôn không phù hợp với thuần phong mỹ tục của Việt Nam (như sự chênh lệch quá đáng về tuổi tác giữa hai bên: ông già 80 tuổi lấy cô gái 18 tuổi). Như đã nói ở trên pháp luật quy định như vậy, nhưng thực tế không ít các trường hợp kết hôn là giả tạo để xuất cảnh trái phép, hoặc vì lợi ích kinh tế mà kết hôn nhưng cơ quan Tư pháp vẫn giải quyết cho đăng ký kết hôn. Vậy có quy định giai đoạn phỏng vấn cũng chỉ là hình thức. Các bên có giả dối thì cán bộ Tư pháp cũng không biết. Có chăng chỉ biết được họ không thể giao tiếp được bằng ngôn ngữ để có thể hiểu thấu lẫn nhau mà từ chối cho đăng ký kết hôn.
Tháng 4 năm 2006, có một bài viết đăng trên báo Chosun (Hàn Quốc) đề cập đến phụ nữ Việt Nam lấy chồng Hàn Quốc (HQ), bài báo đã tạo nên một làn sóng dư luận phản đối dữ dội không chỉ ở Việt Nam mà cả ở HQ, vì nó không dừng ở lĩnh vực truyền thông đại chúng mà còn tác động đến cả lĩnh vực ngoại giao.
Nhưng điều gì tạo nên làn sóng phản đối quyết liệt như vậy? Chúng ta thử xem, qua lăng kính báo chí nước ngoài nhìn nhận vấn đề phụ nữ Việt Nam kết hôn có yếu tố nước ngoài như thế nào.
Có thể nói, người phụ nữ Việt Nam được xem như một món hàng rất dễ mua, qua các quảng cáo trên báo chí ở HQ. Hiện nay ở HQ, trên bất kỳ nhật báo nào cũng dễ dàng tìm thấy những lời quảng cáo như “Cô dâu Việt Nam sẵn sàng, chỉ cần có ý định (của bạn)”. Không những vậy, việc lấy vợ Việt Nam vô cùng dễ dàng, cho dù đàn ông HQ là người thế nào cũng có thể cưới được vợ Việt Nam “Người già, người muốn tái hôn, người đã có con, người khuyết tật đều có thể lấy trinh nữ Việt Nam xinh đẹp”. Để thêm sức thuyết phục cho việc tiếp thị lấy vợ Việt Nam, những quảng cáo nói trên còn liệt kê chi tiết về những ưu điểm của con gái Việt Nam. Đó không chỉ hấp dẫn về hình thức như “dáng người đẹp nhất trên thế giới” và quyến rũ hơn so với phụ nữ một số nước trong châu lục “khác với phụ nữ Trung Quốc và Philippines, phụ nữ Việt Nam có mùi cơ thể dễ chịu” mà còn có những phẩm hạnh tuyệt vời như “xuất giá tòng phu”, “tôn trọng người già, thờ cúng tổ tiên 4 đời”, “giữ gìn trinh tiết và chung thủy với chồng”.
Trong bối cảnh báo chí nhìn nhận việc kết hôn với phụ nữ Việt Nam như vậy, cũng dễ hiểu vì sao nhật báo Chosun lại có thể “bình thản kể lại một câu chuyện bất thường mà như là bình thường” sau đây:
“Trên bàn tiếp khách làm bằng tre, một người đàn ông HQ đang ngồi, 11 phụ nữ đang hồi hộp với ước mơ thoát khỏi cái nghèo. Người đàn ông HQ nhìn lướt qua một lượt khuôn mặt những cô gái đang ngồi xếp chân sang một bên. Sau 20 phút, ông ta quyết định không chọn nữa và nói “Ôi, thật ngại quá, không biết chọn ai bây giờ”.
Người đàn ông HQ ngoài 35 tuổi, không nghề nghiệp, có mẹ đang điều hành một quán ăn. Trước khi xem mắt trực tiếp 11 cô gái này, ông ta đã xem qua ảnh của họ “ông chuyển qua phòng bên cạnh, mở đĩa CD có thời gian một tiếng rưỡi, thời gian ghi hình là tháng 4/2006. Trên màn hình lần lượt xuất hiện 150 cô gái có mã số. Ống kính quay từ khuôn mặt rồi đến toàn thân. Chỉ được 20 phút, ông lại bỏ cuộc. Có lẽ ông đã chọn được hai trong số 11 cô gái lúc nãy”
Người đàn ông HQ này sang Việt Nam tìm vợ , với mục đích về để giúp bà mẹ của mình, như lời ông ta hỏi với cô gái được chọn “Tôi đang thất nghiệp nhưng sẽ xin việc làm. Mẹ tôi đã có tuổi và đang kinh doanh một cửa hàng thức ăn nhỏ. Có nuôi mẹ tôi được không?. Cũng chính vì mục đích lấy vợ về phục vụ gia đình, nên người đàn ông HQ này sau một lúc chần chừ cũng chọn Sen (cô gái xuất thân từ một vùng quê nghèo khó cách TP.HCM 4 giờ xe chạy) vì “Mẹ tôi dặn đi dặn lại là chọn cô nào có tướng tá to lớn để mai mốt còn phục vụ cơm nước cho bà”.
Phải chăng vì lấy vợ Việt Nam dễ, giá thấp lại có chất lượng cao như trên, xu hướng đàn ông HQ lấy vợ Việt Nam ngày càng nhiều ?
Theo cục thống kê HQ, chỉ trong vòng năm năm tỉ lệ kết hôn với nước ngoài của HQ tăng lên ba lần, trong đó lấy vợ Viêt Nam tăng 43 lần, năm 2001 là 143 người, đến năm 2005 là 5.822 người. Con số này chiếm 1/5 tổng số người HQ kết hôn với người nước ngoài, đứng thứ hai sau Trung Quốc (18.527 người). Nhưng hầu hết phụ nữ Trung Quốc này có gốc là người Hàn. Như vậy, chiếm số lượng nhiều nhất trong tổng số người nước ngoài mà đàn ông HQ kết hôn là phụ nữ Vệt Nam.
Bên cạnh những quảng cáo cho việc lấy vợ Việt Nam như một món hàng dễ mua, cũng có những bài viết cho thấy sự khó khăn trong đời sống gia đình của những cuộc hôn nhân có yếu tố nước ngoài “phụ nữ Châu á đến Hàn Quốc để kết hôn và có cuộc sống mới đều gặp rất nhiều khó khăn vì sự khác biệt về mặt văn hóa và những định kiến ở Hàn Quốc” (Tuổi trẻ, ngày 5/5/2006). Đồng thời, người HQ cũng băn khoăn khi thấy không ít đàn ông HQ chỉ có thể lấy vợ nước ngoài “thật đáng buồn khi nghĩ đến chuyện thanh niên ở các vùng quê phải ra nước ngoài để kiếm vợ chỉ vì không thể kiếm vợ ở HQ” ( Tuổi trẻ ngày 5/5/2006). Những kiểu quảng cáo xúc phạm nhân phẩm phụ nữ Việt Nam như vậy đã tạo nên làn sóng phản ứng dữ dội ở HQ và đặc biệt ở Việt Nam, bởi vì đó không đơn giản chỉ là “nỗi đau và trách nhiệm, mà đây còn là nỗi nhục hình hình ảnh phụ nữ Việt Nam dưới con mắt người nước ngoài” ( Võ Văn Kiệt).
Có thể nói, dư luận HQ dẫu rằng có những phản ánh với nhật báo Chosun về bài viết của phóng viên Chae Sung Woo, nhưng cũng phủ nhận một thực tế những quảng cáo đó đang đáp ứng nhu cầu của một bộ phận nam giới HQ đang gặp khó khăn trong hôn nhân với phụ nữ trong nước và họ đến Việt Nam, một đất nước có thị trường hôn nhân lý tưởng, dễ có cơ hội kết hôn bởi vì có nhiều cô gái- đặc biệt ở các vùng nông thôn đồng bằng sông Cửu Long- đang có giấc mơ đổi đời qua việc kết hôn với người nước ngoài. Thêm nữa, Việt Nam và HQ có nhiều điểm tương đồng về văn hóa, con người nên thế hệ con cái mai sau sẽ không có những khác biệt so với người gốc HQ; như quan niệm của người HQ “vì sự tương đồng về dung mạo nên khi sinh con sẽ không khác gì lắm với người HQ” ( tuổi trẻ 25/4/2006).
Ở Việt Nam, từ nhiều năm trước dư luận xã hội vá báo chí cũng đã nhiều lần lên tiếng và cảnh báo trước hiện tượng kết hôn với người nước ngoài ngày càng gia tăng. Từ năm 1995 đến nay, hàng trăm bài báo ở Việt Nam đã điều tra các đường dây tuyển các thôn nữ về thành phố Hồ Chí Minh nuôi nhốt trong những phòng trọ, cho những người đàn ông lớn tuổi, tật nguyền từ Trung Quốc, Đài Loan đến tuyển lựa. Chưa kể hàng trăm bài báo mô tả cảnh cô dâu Việt Nam ở Trung Quốc, Đài Loan bị ngược đãi, làm vợ tập thể trốn về nước ( phụ nữ 28/4/2006).
Có thể nói, qua báo chí đã cho thấy một sự biến đổi chuẩn mực xã hội, giá trị xã hội trong quan niệm của các thôn nữ ở khu vực đồng bằng Sông Cửu Long về hôn nhân với người nước ngoài. Có ý kiến nhận xét về đặc điểm hôn nhân với người nước ngoài hiện nay là “Xu hướng lấy chồng HQ tăng lên, trẻ hóa cô dâu. Trước đây lấy chồng thì được tiền, nay các cô dâu thôn nữ bỏ tiền ra cưới chồng ngoại quốc”. báo chí cũng phản ánh một trường hợp cô gái trẻ ở phía bắc “ Cưới chồng” Đài Loan với số tiền quy ra 10 tấn thóc. Bởi lý do kết hôn là ra nước ngoài có việc làm.
Đi lao động Đài Loan thì phải tốn tiền môi giới, mà hợp đồng lao động lại có hạn, chỉ phù hợp với những phụ nữ đã có gia đình. Nếu các cô gái lấy chồng, tờ hôn thú sẽ đảm bảo cho các cô ở lại Đài Loan làm việc tới… già. Thu nhập của các cô là niềm mong đợi của gia đình ở quê nhà. Đó là những cuộc hôn nhân 2 trong 1, vừa có chồng, vừa có việc làm. Số tiền các cô vay mượn bỏ ra mua chồng, sang đến Đài Loan, đi làm vài tháng là dư trả (Báo Phụ nữ TP HCM, ngày 23/6/2006). Ngoài ra, để cải thiện đời sống gia đình, “báo hiếu cha mẹ” cũng là một lý do quan trọng, như một nghiên cứu gần đây cho thấy động cơ kết hôn với người Đài Loan thì “Muốn giúp đỡ gia đình” chiếm tỷ lệ cao nhất 46.7%.
Có những luồng dư luận, ý kiến trái ngược nhau về vấn đề kết hôn với người nước ngoài. Có thể chia ra 2 quan điểm chính: ủng hộ và phản đối.
Những ý kiến phản đối việc phụ nữ Việt Nam kết hôn với người nước ngoài, vì đó thực chất là buôn bán phụ nữ: “Có cả một dịch vụ mua bán phụ nữ Việt Nam cho người nước ngoài diễn ra và vẫn còn tiếp tục diễn ra nhộn nhịp, phát đạt, vui vẻ, không hề giấu diếm, một ngành buôn người thật sự”.
Ý kiến ủng hộ, nhìn từ bên ngoài: Trong bài viết của mình, Han Guk Yeom – Đại diện Trung tâm Nhân quyền của phụ nữ nhập cư tại Hàn Quốc – đăng trên báo Joong Ang, một tờ báo lớn của Hàn Quốc, đã viết rằng: “Sự thay đổi về cách nhìn nhận phụ nữ Châu Á là điều quan trọng nhất. Xem cuộc hôn nhân của phụ nữ nhập cư với đàn ông Hàn Quốc như “một cách chạy trốn đói nghèo” là một cách nhìn kỳ thị và sai lầm. Nếu mọi người tiếp tục nghĩ họ “lấy chồng vì tiền” thì sẽ rất khó ngăn chặn tình trạng vi phạm nhân quyền và nguy cơ buôn người…. Chúng ta nên nhìn nhận họ như những người tiên phong trong cuộc sống và tôn trọng họ” (Tuổi trẻ, ngày 5.5.2006)
Có thể thấy, các quan chức nước ngoài cũng ủng hộ việc kết hôn của nam giới Hàn Quốc với phụ nữ Việt Nam, qua cái nhìn tích cực của tùy viên báo chí và thông tin đại sứ Hàn Quốc tại Việt Nam “Hàn Quốc phải cảm ơn Việt Nam vì đã cho chúng tôi những cô dâu ngoan và tuyệt vời”, bởi lẽ khó khăn trong hôn nhân của đàn ông Hàn Quốc đang là một vấn đề xã hội “Một vấn đề xã hội lớn hiện nay tại Hàn Quốc là nhiều người đàn ông, nhất là ở nông thôn, rất khó lập gia đình. Nên đàn ông Hàn Quốc muốn lấy vợ Việt Nam vì họ có thể chia sẻ việc chăm sóc cha mẹ già yếu, và chung sức lo cho gia đình” (Báo Lao Động 27.4.2006). Theo số liệu của Văn phòng thống kê quốc gia Hàn Quốc “ 35,9% thanh niên Hàn Quốc ở các làng nông thôn và chài lưới kết hôn trong năm ngoái đều lấy vợ nước ngoài” (Tuổi Trẻ 5.5.2006).
Sự tán đồng từ trong nước: Nguyên tổng biên tập báo Tuổi trẻ Lê Văn Nuôi cho rằng “Hôn nhân với người khác quốc tịch trong bối cảnh nước ta quan hệ đa phương và hội nhập toàn cầu là chuyện bình thường. Nhưng chỉ bình thường và đáng ủng hộ khi họ quan hệ hôn nhân bình đẳng, đến với nhau qua một quá trình giao tiếp, có tình yêu thật sự và cô dâu Việt Nam có đủ trình độ về văn hóa để hội nhập văn hóa xứ người” (Tuổi trẻ ngày 6/5/2006).
Hiện nay ở một số tỉnh thành ở miền Tây Nam bộ rộ lên tình trạng các cô dâu muốn lấy chồng ngoại thì sẽ chuyển hộ khẩu đi các tỉnh khác để xin đăng ký kết hôn. Lý do là tỉnh nhà khắt khe trong việc giải quyết cho đăng ký kết hôn với người nước ngoài. Điển hình là tại Đồng Tháp từ năm 2000 đến năm 2005, mỗi năm Đồng Tháp có hơn 2000 trường hợp cô gái Việt Nam kết hôn với người nước ngoài nhất là Đài Loan và Hàn Quốc. Nhận thấy nhiều trường hợp kết hôn không phải vì mục đích hôn nhân đúng nghĩa nên Sở Tư Pháp tỉnh Đồng Tháp đã áp dụng biện pháp phỏng vấn kết hôn. Qua đó phát hiện các trường hợp kết hôn do thật sự yêu nhau rất ít, đa số vì mục đích kinh tế. Do Đồng Tháp nổi tiếng là nơi phỏng vấn rớt nhiều hơn đậu nên các cò bày mẹo cho các cô muốn lấy chồng ngoại thì cắt chuyển hộ khẩu sang tỉnh khác để né phỏng vấn và được giải quyết thông thoáng hơn. Nhiều cô gái đã làm theo cách này và đã thành công. Sau khi được kết hôn thì các cô gái chuyển hộ khẩu sang tỉnh khác lại nhập hộ khẩu về tỉnh cũ.
Không chỉ như vậy để tránh phỏng vấn, các cô dâu Việt Nam thường lách quy định này bằng cách gởi hồ sơ đăng ký kết hôn sang nước mà họ sẽ lấy chồng để đăng ký kết hôn, sau đó mới gởi về Việt Nam và chúng ta chỉ còn cách là công nhận việc kết hôn này (vì Nghị định số 68 hướng dẫn quản lý hôn nhân có yếu tố nước ngoài lại không cấm). Lợi dụng sơ hở này các đầu nậu môi giới hôn nhân bất hợp pháp trong nước kết hợp với các Công ty môi giới hôn nhân phía nước ngoài đã có nhiều phụ nữ Việt Nam sang nước ngoài không phải vì mục đích hôn nhân.
Ngoài ra ở nhiều địa phương cán bộ hộ tịch đã có nhiều hành vi tiêu cực, nhũng nhiễu, vòi vĩnh trong khi giải quyết hồ sơ đăng ký kết hôn có yếu tố nước ngoài. Trong đó, có nhiều yếu kém, tiêu cực xảy ra. Chẳng hạn tại thủ tục phỏng vấn để làm rõ việc kết hôn của hai bên có tự nguyện hay không nhiều địa phương đã thực hiện rất hình thức, chiếu lệ, có nơi còn móc nối với cò để đưa ra kịch bản phỏng vấn suông sẻ. Như vậy là ở giai đoạn phỏng vấn có nhiều bất cập xảy ra. Cần báo động là có cán bộ hộ tịch đã lợi dung quy định về phỏng vấn để gây khó khăn cho hai bên kết hôn. Như để được xếp lịch phỏng vấn, các bên phải tìm cách “gặp gỡ” cán bộ hộ tịch, có trường hợp cố tình không xếp lịch phỏng vấn để hai bên phải chờ đợi, kéo dài thời gian ở Việt Nam.
Từ những tiêu cực thực tế đã xảy ra như vậy thì những trường hợp kết hôn với nhau sau đó không hiểu biết nhau dẫn tới khó khăn trong cuộc sống hôn nhân của cả hai bên kết hôn, một phần cũng do lỗi của cán bộ hộ tịch thiếu trách nhiệm. Khâu quan trọng nhất trong tiến trình cho đăng ký kết hôn để thấy rõ họ thực sự yêu thương nhau, đến với nhau vì tình yêu chân chính, không vụ lợi chính là khâu phỏng vấn nhưng xem ra nó đã bị coi nhẹ đi rất nhiều.
Qua phân tích ở trên cho thấy rằng tiến trình phỏng vấn kết hôn không được tuân thủ một cách nhất quán theo tinh thần chung của nó theo cách nó phải được áp dụng trong phạm vi của cả nước mà mỗi vùng, miền, mỗi địa phương có cách làm khác nhau. Có nơi thực hiện khắt khe, có nơi lại thực hiện lỏng lẻo, hình thức. Và như vậy tương lai tình trạng cô dâu Việt bị đánh đập, nhốt trong nhà như một người tù, thậm chí bị giết… vẫn có thể xảy ra mà không có gì đảm bảo cho cuộc sống của họ sẽ được hạnh phúc. Mục đích hôn nhân không thể đạt được đối với một số lượng lớn các vụ kết hôn có yếu tố nước ngoài.
2.4.2. Thứ hai, trường hợp pháp luật hai nước của hai bên kết hôn có sự mâu thuẫn về điều kiện kết hôn.
Ta thấy rằng một khi quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài phát sinh thường làm phát sinh hiện tượng xung đột pháp luật. Xung đột pháp luật được thể hiện trong các quan hệ về kết hôn, ly hôn, quyền và nghĩa vụ giữa vợ và chồng, đặc biệt là các quyền về tài sản, quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ và con cái và cuối cùng là các quan hệ về nuôi con nuôi, giám hộ. Theo nguyên tắc chung, xung đột pháp luật trong lĩnh vực này được giải quyết bằng cách ký các điều ước quốc tế hoặc xây dựng quy phạm xung đột trong pháp luật quốc gia.
Trong phạm vi tiểu luận này tôi xin phân tích trường hợp pháp luật hai nước có sự mâu thuẫn về điều kiện kết hôn và trong đó không tồn tại bất kỳ một Hiệp định tương trợ tư pháp nào để giải quyết xung đột về điều kiện kết hôn.
Thực tế tại các Sở Tư pháp các tỉnh trong quá trình tiếp nhận hồ sơ đăng ký kết hôn, thông thường thì khi xác định pháp luật hai nước của hai bên kết hôn có xung đột pháp luật về điều kiện kết hôn thì cán bộ Sở Tư pháp sẽ trả hồ sơ đăng ký kết hôn và không chấp nhận cho đăng ký kết hôn.
Theo quy định tại Điều 103 khoản 1 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000, Điều 10 Nghị định số 68/CP ngày 10/7/2002 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Hôn nhân và Gia đình về quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài thì trong việc kết hôn giữa công dân Việt Nam và người nước ngoài, mỗi bên phải tuân theo pháp luật nước mình về điều kiện kết hôn; nếu việc kết hôn được tiến hành tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam thì người nước ngoài còn phải tuân theo quy định tại Điều 9 và Điều 10 của Luật Hôn nhân và Gia đình Việt Nam về điều kiện kết hôn và các trường hợp kết hôn. Như vậy, khi kết hôn với công dân Việt Nam người nước ngoài phải tuân theo các quy định của pháp luật của nước mà người đó là công dân về điều kiện kết hôn.
Theo Điều 103 thì trong việc kết hôn ở nước ngoài giữa công dân Việt Nam và người nước ngoài, mỗi bên phải tuân theo pháp luật nước mình về điều kiện kết hôn. Quy định này có một số nhược điểm như sau:
Nếu công dân Việt Nam kết hôn ở nước ngoài với công dân của một nước còn tồn tại chế độ đa thê, thì pháp luật Việt Nam phải công nhận việc kết hôn này. Bởi lẽ, mỗi bên đã tuân theo pháp luật nước mình về điều kiện kết hôn.
Cũng theo Điều 103 thì khi người nước ngoài kết hôn ở Việt Nam với công dân Việt Nam thì họ phải tuân theo pháp luật nước mình đồng thời phải tuân theo pháp luật Việt Nam về điều kiện kết hôn. Nhược điểm của quy định này là sẽ dẫn tới cách hiểu: Nếu họ đạt điều kiện kết hôn theo pháp luật nước họ, nhưng không đạt điều kiện kết hôn theo pháp luật Việt Nam, thì họ không được kết hôn; nếu họ đạt điều kiện kết hôn theo pháp luật Việt Nam nhưng không đạt điều kiện kết hôn theo pháp luật nước họ thì họ cũng không được đăng ký kết hôn. Trong trường hợp này phía công dân nước ngoài phải xin đăng ký kết hôn ở nước họ hoặc ở nước thứ ba.
Đã đành pháp luật Việt Nam không thể rập khuôn theo pháp luật các nước, nhưng có thể khẳng định rằng theo nội luật các nước, theo Hiệp định song phương, Công ước đa phương, theo tất cả các Hiệp định tương trợ tư pháp được ký kết giữa nước ta với nước ngoài đều áp dụng công thức “Luật theo quốc tịch”, có nghĩa là, bên kết hôn là công dân nước nào thì phải tuân theo luật nước ấy.
Câu hỏi được đặt ra: có phải là khi công dân Việt Nam kết hôn ở nước ngoài với công dân nước ngoài thì công dân Việt Nam chỉ phải tuân theo pháp luật Việt Nam về điều kiện kết hôn, còn công dân nước ngoài kết hôn ở Việt Nam, thì phía công dân nước ngoài vừa phải tuân thủ pháp luật nước mình, vừa phải tuân theo pháp luật Việt Nam về điều kiện kết hôn hay không?
Cũng theo Điều 103, khi kết hôn ở Việt Nam giữa công dân nước ngoài với nhau, thì họ chỉ phải tuân theo pháp luật Việt Nam về điều kiện kết hôn. Như vậy họ chỉ cần đạt điều kiện kết hôn theo pháp luật Việt Nam, mà không cần đạt điều kiện kết hôn theo pháp luật nước họ, thì chính quyền nước ta vẫn đăng ký kết hôn cho họ. Theo quy định này có một số nhược điểm mà chúng ta cần phải tính đến khi tiến hành đăng ký kết hôn cho họ:
 Pháp luật nước ta coi việc kết hôn này là hợp pháp, nhưng pháp luật nước họ lại coi là bất hợp pháp, bởi lẽ pháp luật hầu hết các nước đều quy định là bất cứ kết hôn ở đâu thì mỗi bên cũng phải đạt điều kiện kết hôn theo pháp luật nước mình. Mà như chúng ta đã biết điều kiện kết hôn theo pháp luật của mỗi nước là khác nhau.
 Nếu chỉ căn cứ vào pháp luật Việt Nam để xác định công dân nước ngoài đủ điều kiện kết hôn ở Việt Nam, thì chính quyền nước ngoài có thể không cấp các giấy tờ chứng nhận cần thiết khi chính quyền nước ta yêu cầu. Ví dụ: làm thế nào chúng ta biết được họ là người chưa vợ, chưa chồng, là những người có quan hệ dòng máu gần… Như vậy chúng ta chỉ căn cứ vào lời khai của họ.
 Khi đăng ký kết hôn, người vợ xin được mang họ của chồng để ghi vào giấy công nhận kết hôn. Đây là pháp luật và truyền thống lâu đời của họ và tất nhiên là chính quyền nước ta sẽ từ chối, vì theo pháp luật Việt Nam, việc kết hôn không thể thay đổi họ của mỗi bên kết hôn.
Như vậy, nếu luật của chúng ta quy định là việc kết hôn ở Việt Nam giữa hai công dân nước ngoài với nhau phải tuân theo pháp luật Việt Nam về điều kiện kết hôn, thì họ không dám đăng ký kết hôn ở Việt Nam.


Chương 3
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM KHẮC PHỤC NHỮNG TỒN TẠI TRONG KẾT HÔN CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI
Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn, căn cứ vào điều kiện cụ thể của đất nước và khả năng thực thi của pháp luật vào thực tế, tôi thấy rằng: Việc khắc phục những tồn tại hiện nay trong tình hình kết hôn có yếu tố nước ngoài là một đòi hỏi cấp bách. Bởi lẽ, đây là vấn đề mang tính chất xã hội, liên quan đến nhân tố con người cũng như những giá trị nhân thân của chính chủ thể này. Trong khi đó thực trạng xã hội hiện nay một phần ảnh hưởng đến ổn định và trật tự xã hội, làm phát sinh nhiều tiêu cực tác động đến cuộc sống và hạnh phúc của cá nhân nói riêng và tập thể nói chung. Xuất phát từ ý nghĩa thực tiễn của vấn đề, chúng tôi xin đưa ra một số giải pháp góp phần làm hạn chế những biểu hiện tiêu cực, đưa hoạt động kết hôn có yếu tố nước ngoài vào một trật tự nhất định.
3.1. Tăng cường vai trò trách nhiệm của các đoàn thể, tổ chức xã hội.
Vấn đề kết hôn có yếu tố nước ngoài đã có từ lâu, và thực sự rầm rộ trong khoảng mươi năm trở lại đây. Tuy nhiên, từ phía cộng đồng, xã hội chưa thật sự quan tâm và các đoàn thể dường như cũng bỏ qua, không thấy có vai trò và trách nhiệm trong chuyện này. Ngay cả Hội Liên Hiệp phụ nữ Việt Nam là tổ chức chính trị xã hội của phụ nữ mà cũng chưa thật quan tâm đến số phận các thành viên của Hội kết hôn với người nước ngoài. Có thể thấy điều này trong thư của nguyên Thủ tướng Võ Văn Kiệt gửi Chủ Tịch Hội Liên Hiệp phụ nữ Việt Nam Hà Thị Khiết;
“ Tôi đã nhiều lần có thư nhắc nhở, kêu cứu đến các cơ quan chức năng, các địa phương có nhiều chị em làm dâu xứ người. Cả một hệ thống chính trị của Đảng từ trung ương đến các địa phương không thấy có định hướng tác động gì, cứ thế mạnh ai nấy làm một cách tự phát” (Tuổi trẻ 28/4/2206) chúng ta cần tìm lời giải cho câu hỏi của nguyên Thủ Tướng Võ Văn Kiệt “ Ai có trách nhiệm phải giữ gìn truyền thống của phụ nữ Việt Nam và ai là người có trách nhiệm trước nỗi nhục này, có khả năng làm giảm nỗi đau này chăng ? (Tuổi trẻ 20/4/2006). Nhưng chúng ta biết rằng nhiều Bộ, Ngành còn thiếu trách nhiệm trước hiện tượng kết hôn với người nước ngoài. Ví dụ, trong khi Cục Thống kê Hàn Quốc có số liệu cụ thể những trường hợp kết hôn với người nước ngoài, thì ở Việt Nam “Cục Thống kê dường như không thèm nắm lấy mấy con số lặt vặt” đó. Bộ Tư pháp cũng không phân tích số liệu phụ nữ Việt Nam lấy chồng các nước, Tòa án tối cao không thống kê tỷ lệ ly hôn với người nước ngoài, phân tích nguyên nhân. Sở Tư Pháp cấp giấy kết hôn với người nước ngoài, nhưng đến xin số liệu phải đợi tách ra từng nước” (Phụ nữ 28/4/2006). Qua đó có thể thấy, các tổ chức xã hội, các ngành chức năng còn thiếu quan tâm đến hiện tượng hôn nhân có yếu tố nước ngoài của phụ nữ Việt Nam, và chưa có đơn vị xã hội nào coi đó là nhiệm vụ và trách nhiệm của mình.
3.2. Vai trò của gia đình .
Giáo dục gia đình, nếp sống và gia phong của mỗi nhà rất quan trọng không chỉ ảnh hưởng tới việc hình thành nhân cách của con cái, mà còn trang bị cho con cáí sự hiểu biết, bản lĩnh sống, khả năng thích ứng trước những biến động, rủi ro của cuộc đời. Với con gái, nếu người mẹ không quan tâm giáo dục con mình về “công ,dung, ngôn, hạnh” về “Nữ công gia chánh” mà lại chỉ mong gả bán con gái mình cho người ngoại quốc, thì nguy cơ với con gái họ thật khó lường.
3.3. Hành trang cho phụ nữ Việt Nam kết hôn vời người nước ngoài.
Có một thực tế, “làn sóng” kết hôn với người nước ngoài những năm gần đây đa số là các cô gái từ các vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa, học vấn thấp, ít hiểu biết. Vì thế, không thể bỏ mặc họ ra đi làm dâu xứ người với hai bàn tay trắng, chỉ với ước mơ đổi đời. Cần chuẩn bị cho các cô hành trang thật tốt để đi làm dâu xứ người. Theo quan điểm của chúng tôi, hành trang cho các phụ nữ có nguyện vọng kết hôn với người nước ngoài bao gồm:
3.3.1. Thông tin thực trạng về đời sống hôn nhân của những cô dâu Việt Nam ở nước ngoài:
Cần cung cấp cho những phụ nữ có mong muốn lấy chồng là người nước ngoài những thông tin thực trạng về đời sống hôn nhân của những cô dâu Việt Nam ở nước ngoài để các phụ nữ này có suy nghĩ chín chắn trước khi quyết định. Trên thực tế, vì hầu hết các phụ nữ lấy chồng nước ngoài có trình độ thấp, nhiều người chưa bao giờ tiếp cận với các phương tiện truyến thông đại chúng, nên việc thiếu thông tin, hoặc có thông tin sai lệch ( qua môi giới) khiến cho không ít người đã vỡ mộng và nuối tiếc vì quyết định sai lầm của mình.
Có những thông tin đầy đủ và chính xác về người chồng tương lai, về gia cảnh người chồng , về địa phương mà các cô đến sẽ sinh sống với vai trò người vợ, người con dâu trong gia đình cũng sẽ góp phần giúp các cô và gia đình cân nhắc trước khi quyết định lấy chồng nước nào, ở đâu cho phù hợp với mình.
3.3.2 Các cô gái cần được đào tạo, được học làm vợ, làm dâu ở nước ngoài:
Với một số nội dung cơ bản, có thể là:
Về luật pháp, phong tục, tập quán của các vùng, miền của nước mà các cô gái sẽ đến làm dâu. Theo ông Nguyễn Quốc Cường, Phó vụ trưởng vụ Hành chính tư pháp, Bộ Tư pháp thì “Hầu hết trong 3 năm đầu, các cô dâu Việt Nam rất khó mà hòa nhập với gia đình chồng vì không biết tiếng, chưa hiểu gia phong tập quán, phong tục”.
Về điều này, lời khuyên của tùy viên báo chí và thông tin Đại sứ quán Hàn Quốc rất đáng để cho phụ nữ Việt Nam đã, đang và sẽ có ý định lấy chồng nước ngoài nói chung và lấy chồng Hàn Quốc nói riêng tham khảo “Tôi nghĩ trước khi có quyết định lấy chồng Hàn Quốc họ nên chuẩn bị cho những cách biệt văn hóa, ngôn ngữ và suy nghĩ. Hàn Quốc tuy phát triển hơn Việt Nam, nhưng cũng có những người phải sống rất khó khăn. “Các cô gái trẻ mang giấc mơ lấy chồng Hàn Quốc để đổi đời cần suy nghĩ chín chắn, vì thực tế không phải lúc nào cũng vậy” (Báo Lao Động ngày 27/4/2006).
Về kỹ năng nội trợ, sử dụng các đồ dùng trong gia đình: các cô gái cần được sử dụng các đồ dùng, tiện nghi trong gia đình nước ngoài, biết nấu các món ăn cho người nước ngoài, nơi mà các cô sẽ đến làm dâu. Thực tế cho thấy, có những trường hợp hôn nhân tan vỡ vì cô dâu không làm tròn bổn phận của mình. Như trường hợp một người đàn ông Hàn Quốc 45 tuổi sau hai tháng lấy cô dâu Việt Nam 19 tuổi đã đòi ly dị và kiện Viện Bảo hộ nguời tiêu dùng người Hàn Quốc, đòi lại chi phí thủ tục kết hôn vì cô vợ 19 tuổi dậy muộn, không lo bữa ăn sáng cho con trai đang học cấp 3 của chồng. Hay một ví dụ khác, một cô gái quê ở Đồng Tháp lấy chồng hai năm mà không biết nấu món ăn Hàn Quốc cho nhà chồng. Rõ ràng, công việc tề gia nội trợ là một nhiệm vụ không thể thiếu được khi lấy chồng nước ngoài như Hàn Quốc, Đài Loan. Vì thế, học để làm nội trợ phục vụ gia đình cũng rất cần thiết, và làm tốt điều này là yếu tố đảm bảo hôn nhân bền vững ở xứ người.
Về ngôn ngữ: sẽ khó có thể làm tốt vai trò làm vợ, làm dâu ở nước ngoài nếu các cô gái không được học ngôn ngữ của nước đó. Vì thế, các cô gái trước khi kết hôn cần phải học ngôn ngữ của quốc gia mà các cô có ý định lấy chồng. Dù chúng ta không hy vọng các cô gái học vấn thấp (thậm chí có cô còn không biết đọc, biết viết) nhưng ít ra cũng dạy cho các cô biết được giao tiếp tối thiểu, có thể gọi tên các đồ vật/phương tiện sinh hoạt trong gia đình, … Đây là tiền đề cho các cô gái có thể dần dần vượt qua được rào cản ngôn ngữ, dần dần hội nhập vào cuộc sống gia đình ở nước ngoài.
Chỉ có thể như vậy, chúng ta mới góp phần làm giảm thiểu những rủi ro đối với các cô gái lấy chồng nước ngoài và mới xây dựng được những cuộc hôn nhân có yếu tố nước ngoài có được hạnh phúc gia đình. Đó cũng là điều quan trọng mà dư luận xã hội cần hướng tới. Cũng nhằm mục đích xây dựng đó, tôi nghĩ không chỉ ở những nước của “cô dâu” mà cả ở những nước của chú rể” cũng cần có sự uốn nắn của dư luận xã hội đối với những quan niệm lệch lạc về hạnh phúc con người.
3.4. Về quản lý nhà nước đối với kết hôn có yếu tố nước ngoài.
Hiện nay trước những vấn đề phức tạp đã và đang nảy sinh trong thực tế cuộc sống, quá trình giải quyết của các cơ quan có thẩm quyền khi các cá nhân đến đăng ký kết hôn cũng có một số tồn tại nhất định.
Ở những thành phố lớn như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh trình độ của các cán bộ Sở Tư Pháp tương đối đáp ứng được yêu cầu công việc. Số còn lại đặc biệt là ở những vùng nông thôn thì kiến thức của các cán bộ còn nhiều hạn chế , chưa kịp thời nắm bắt được sự thay đổi của tình hình xã hội. Việc quản lý về kết hôn có yếu tố nước ngoài rất khó để thực hiện vì phạm vi tác động của quan hệ này không còn nằm trong khuôn khổ của một quốc gia.
Do đó để vận dụng những quy định của pháp luật vào đời sống một cách hiệu quả, một trong những nhân tố quan trọng đó là khả năng của con người.
Trước hết, cần có sự phối hợp hoạt động của các cơ quan nhà nước với nhau. Ngoài Bộ Tư pháp có trách nhiệm chính trong việc quản lý về tình hình kết hôn có yếu tố nước ngoài , các cơ quan khác như: Bộ Ngoại Giao, Bộ Công An, các tổ chức đoàn thể… sẽ có những hỗ trợ nhất định để giải quyết những vần đề phát sinh hiện nay. Bởi vì, mục đích chủ yếu và quan trọng trong hoạt động của các cơ quan này là đảm bảo trật tự xã hội.
Cụ thể khi tiến hành công nhận mối quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài, đòi hỏi phải có sự xem xét đầy đủ về điều kiện kết hôn của các chủ thể cũng như có những biện pháp xử lý kịp thời nếu phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật. Việc thực hiện những nội dung này nếu chỉ đơn thuần do một cơ quan đảm trách sẽ không đạt hiệu quả và sẽ rất dễ dẫn đến sai sót.
Ngoài ra, cần có một chương trình đào tạo đội ngũ cán bộ có chuyên môn phù hợp để đảm nhiệm những công việc quản lý nhà nước trong lĩnh vực Hôn nhân gia đình. Những người này phải đáp ứng những điều kiện về trình độ pháp luật, có những hiểu biết nhất định về pháp luật quốc gia cũng như tinh thần về Luật Quốc tế nói chung. Trên cơ sở đó việc áp dụng pháp luật sẽ được thực hiện một cách đúng đắn và hiệu quả hơn.
3.5. Hình thành và phát triển các khu Trung tâm tư vấn hôn nhân, bãi bỏ hoạt động môi giới.
Cơ sở pháp lý cho việc hình thành các trung tâm môi giới hôn nhân đã quy định rất cụ thể trong Nghị định số 68 của Chính phủ. Thông qua đó các Trung tâm này hoạt động chủ yếu theo hướng phi lợi nhuận với sự quản lý của Hội Liên Hiệp Phụ nữ. Trên thực tế khả năng thực hiện quy định này còn nhiều hạn chế.
Hiện nay mô hình các Trung tâm hỗ trợ kết hôn vẫn chưa được phổ biến, số lượng chỉ dừng lại ở con số rất khiêm tốn và chủ yếu được thành lập tại Thành phố Hồ Chí Minh. Ở những tỉnh khác thì rất ít. Một số ý kiến cho rằng việc giao độc quyền môi giới hôn nhân cho Hội Liên Hiệp Phụ nữ quản lý hoạt động khó hiệu quả. Quản lý nhà nước đối với hoạt động này cũng chưa chặt chẽ làm xuất hiện nhiều hiện tượng môi giới bất hợp pháp. Một số người đã lợi dụng vào việc hướng dẫn hỗ trợ kết hôn để kiếm lời từ khách hàng có nhu cầu. Nghiêm trọng hơn là hành vi buôn bán phụ nữ, lừa đảo ẩn sau việc đăng ký kết hôn là dấu hiệu vi phạm pháp luật hình sự
Để khắc phục những hiện tượng tiêu cực đang diễn ra hiện nay và áp dung đúng nội dung của quy định pháp luật về hỗ trợ kết hôn thì trước hết cần thấy hai khái niệm môi giới và tư vấn có nội hàm không trùng khớp với nhau. Tư vấn chỉ mức độ đưa thông tin còn môi giới có thể tham gia làm trung gian.
Theo tôi trong quản lý nhà nước đối với vấn đề kết hôn có yếu tố nước ngoài chưa có sự ổn định và chặt chẽ thì đối vớí hoạt động môi giới kết hôn nên bãi bỏ. Ở đây cần tập trung vào việc xây dựng các trung tâm Tư vấn hỗ trợ kết hôn. Do tính chất của công việc này không đòi hỏi khả năng hay trình độ chuyên sâu mà chủ yếu là hướng dẫn trợ giúp những thông tin cần thiết cho những người có nhu cầu kết hôn.
Để thực hiện có hiệu quả Hội Liên Hiệp Phụ nữ cần xem xét để có sự phối hợp trợ giúp từ các cơ quan nhà nước có chức năng liên quan như cơ quan Tư pháp, cơ quan Ngoại vụ, Đoàn Thanh niên, Trung tâm văn hóa thông tin… Tổ chức nhiều hình thức:
* Lớp học về văn hóa nước ngoài, về phong tục tập quán các nước đặc biệt là ngôn ngữ.
* Hỗ trợ về kiến thức pháp luật cho các cá nhân có nguyện vọng kết hôn thông qua các buổi sinh hoạt, phổ biến, các cuộc thi…
Đây là những trợ giúp mang tính chất “tiền hôn nhân”, là cơ sở để đảm bảo sự hòa hợp sau này.
Bên cạnh đó cần quan tâm hơn đến những đối tượng là phụ nữ. Một trong những đối tượng chịu hậu quả từ môi giới bất hợp pháp, ảnh hưởng đến dư luận, nhân phẩm và cuộc sống của họ.
3.6. Cần phải ký kết nhiều hơn nữa các Hiệp định tương trợ tư pháp với các quốc gia trên thế giới.
Đây là một giải pháp mang tính chiến lược lâu dài nhưng rất cần thiết trong lĩnh vực pháp luật. Hoạt động tương trợ tư pháp giữ vai trò quan trọng trong tình hình đang có nhiều biến động hiện nay, đặc biệt là khi Tòa Án và các cơ quan Nhà nước giải quyết các sự việc phát sinh có yếu tố nước ngoài, trong đó có vấn đề kết hôn. Chủ yếu của hoạt động này là do các cơ quan Tư pháp của các quốc gia thực hiện nhằm mục đích hỗ trợ lẫn nhau trên nhiều lĩnh vực. Trong kết hôn có yếu tố nước ngoài thông qua việc đăng ký kết hôn các Hiệp định tương trợ tư pháp giữa các quốc gia sẽ giải quyết được nhiều vấn đề đang tồn tại bất cập.
Cụ thể là việc xem xét tính hợp pháp của hôn nhân, điều kiện kết hôn của các chủ thể có đáp ứng được hay không, cũng như việc theo dõi cuộc sống sau hôn nhân. Vì đối tượng trong quan hệ này thường tồn tại trên những khu vực lãnh thổ khác nhau.
Đa số các vấn đề tiêu cực nảy sinh sau kết hôn, quyền và nghĩa vụ các bên bị xâm phạm, đặc biệt về phía người phụ nữ. Qua nghiên cứu xã hội về cuộc sống của các cặp nam nữ sau khi kết hôn có yếu tố nước ngoài phần lớn đều thiếu hạnh phúc và có khả năng dẫn đến ly hôn. Trong đó về người phụ nữ bị xâm phạm về danh dự, nhân phẩm mà không có sự hỗ trợ từ phía pháp luật. Pháp luật nước sở tại cũng như pháp luật Việt Nam vẫn chưa có cơ chế bảo vệ quyền lợi cho người nước ngoài.
3.7. Luật hôn nhân và đình cần có quy định riêng về điều kiện kết hôn trong kết hôn có yếu tố nước ngoài.
Hiện nay, chỉ có mỗi luật hôn nhân và gia đình (HNGĐ) là có quy định về các điều kiện kết hôn. Tuy nhiên, những quy định này mới chỉ dừng lại ở các quan hệ hôn nhân trong nước và từ đó áp dụng chung cho cả các quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài. Theo đó. Cần phải có những quy định riêng về các điều kiện kết hôn với người nước ngoài . Cụ thể, phải có đủ một số điều kiện (không chênh lệch quá về tuổi tác, có hiểu biết lẫn nhau) và mục đích hôn nhân phải là tự nguyện, tiến bộ.










KẾT LUẬN
Cùng với tiến trình hội nhập kinh tế đang diễn ra mạnh mẽ, các vấn đề xã hội mới nảy sinh ảnh hưởng đến xu hướng phát triển chung của cả đất nước. Quy luật của Thị trường và sự vận động không ngừng của xã hội đòi hỏi bất kỳ một Quốc gia nào cũng cần có một chính sách cụ thể để điều tiết cho phù hợp. Chúng ta có thể đánh giá một nước phát triển dựa vào trình độ văn hóa nhưng cũng không thể phủ nhận vai trò của xã hội mà trọng tâm là vấn đề con người.
Gia đình là một tập hợp những con người có liên kết gắn bó với nhau về vật chất lẫn tình cảm. Do đó, khi thiết lập quan hệ hôn nhân đặc biệt là quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài; một trong những mục tiêu quan trọng được xác định là phải xây dựng một gia đình no ấm, trên cơ sở tình yêu chân chính. Các hoạt động kết hôn có yếu tố nước ngoài đã và đang làm biến đổi những giá trị truyền thống trong hôn nhân, làm ảnh hưởng đến lối sống và suy nghĩ của con người về gia đình.
Tình trạng kết hôn giữa công dân trong nước với người nước ngoài thường không dựa trên cơ sở tình yêu mà thay vào đó là những mục đích kinh tế để đáp ứng nhu cầu cuộc sống. hôn nhân không còn giữ được những giá trị như ban đầu mà được thương mại hóa, quốc tế hóa từ nhiều đối tượng khác nhau trong xã hội một phần cũng do những nguyên nhân khách quan từ thực tế, nhưng chủ yếu vẫn phụ thuộc vào nhận thức của con người.
Bài tiểu luận này thực hiện dựa trên cơ sở tìm hiểu những quy định pháp luật hiện hành (Điều 9 và Điều 10) của Luật Hôn nhân và Gia đình, thực trạng của việc áp dụng chúng và từ đó đưa ra những giải pháp đối với tồn tại trong tình hình kết hôn có yếu tố nước ngoài hiện nay. Mặc dù đây chưa hẳn đã là những giải pháp hữu hiệu nhất để giải quyết những khó khăn, vướng mắc đang tồn tại nhưng tôi hy vọng rằng với việc nghiên cứu và đưa ra những giải pháp, tiểu luận này sẽ góp phần thiết thực, tạo ra những cơ sở nhất định cho việc xây dựng chiến lược lâu dài trong việc kết hôn có yếu tố nước ngoài này. Bởí trên thực tế đây là vấn đế mang yếu tố tâm lý tình cảm cần phải được tác động từ nhiều khía cạnh khác nhau của cuộc sống. Tuy nhiên phạm vi của tiểu luận này chỉ phản ánh ở một nội dung nhất định trong khi kết hôn có yếu tố nước ngoài hiện nay đang bị chi phối bởi rất nhiều yếu tố khách quan, chủ quan bên ngoài thì pháp luật với vai trò là công cụ để nhà nước quản lý xã hội sẽ có những tác động tích cực lên quan hệ này để đảm bảo cho trật tự và ổn định xã hội nói chung.