Thứ Ba, 31 tháng 8, 2010

Án giám đốc thẩm

QUYẾT ĐỊNH SỐ 01/2003/HĐTP-DS NGÀY 25-02-2003
VỀ VỤ ÁN TRANH CHẤP DI SẢN THỪA KẾ

HỘI ĐỒNG THẨM PHÁN TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO
.......................
Tại phiên toà ngày 25-02-2003, xét xử giám đốc thẩm vụ án tranh chấp di sản thừa kế giữa các đương sự :
Nguyên đơn:
1. Bà Nguyễn Ánh Hồng; trú tại số 154 An Dương Vương, khu 6 thị trấn An Lạc, huyện Bình Chánh, thành phố Hồ Chí Minh.
2. Bà Bùi Thị Phô, sinh năm 1907; trú tại số 88 Minh Phụng, phường 5, quận 6, thành phố Hồ Chí Minh; uỷ quyền cho bà Nguyễn Ánh Hồng.
3. Bà Nguyễn Thị Hào, sinh năm 1943; trú tại số 237/11/21 Nguyễn Văn Đậu, phường 11, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh.
4. Ông Nguyễn Văn Tuyến, sinh năm 1945; trú tại số 88 Minh Phụng, phường 5, quận 6, thành phố Hồ Chí Minh.
5. Bà Nguyễn Thị Ngọc Trinh, sinh năm 1950; trú tại số 88 Minh Phụng, phường 5, quận 6, thành phố Hồ Chí Minh.
Bị đơn:
1. Ông Nguyễn Văn Ngọc Chiến, sinh năm 1970; trú tại số 88 Minh Phụng, phường 5, quận 6, thành phố Hồ Chí Minh.
2. Ông Nguyễn Văn Phương, sinh năm 1941; trú tại số 88 Minh Phụng, phường 5, quận 6, thành phố Hồ Chí Minh
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Ông Nguyễn Văn Phước, sinh năm 1948; trú tại số 88 Minh Phụng, phường 5, quận 6, thành phố Hồ Chí Minh
NHẬN THẤY:
Cụ Bùi Thị Phô và cụ Nguyễn Văn Thiệt sinh được 14 người con trong đó 7 người đã chết, hiện 7 người còn sống gồm bà Nguyễn Ánh Hồng, ông Nguyễn Văn Phương, bà Nguyễn Thị Hào, ông Nguyễn Văn Tuyến, ông Nguyễn Văn Phước, bà Nguyễn Thị Ngọc Trinh, ông Nguyễn Văn Ngọc Chiến.
Cụ Thiệt và cụ Phô là chủ sở hữu bất động sản toạ lạc tại số 88 Minh Phụng, phường 5, quận 6, thành phố Hồ Chí Minh (Bằng khoán điền thổ số 960) và 6 món tài sản trị giá 2,4 triệu đồng.
Ngày 18-04-1980, cụ Thiệt chết không để lại di chúc. Ngày 23-02-1993, tại Uỷ ban nhân dân phường 5, quận 6 thành phố Hồ Chí Minh, cụ Phô lập di chúc chia toàn bộ tài sản cho 7 người con nói trên với điều kiện các con phải sống hoà thuận, hiếu thảo. Sau khi ký di chúc, các con thường xuyên mâu thuẫn, nên ngày 16-12-1995, cũng tại Uỷ ban nhân dân phường 5, quận 6, thành phố Hồ Chí Minh, cụ Phô đã huỷ bỏ di chúc và đề nghị Toà án phân chia quyền thừa kế gia sản của vợ chồng cụ theo pháp luật.
Theo biên bản định giá ngày 21-12-1995, thì toàn bộ căn nhà số 88 Minh Phụng trị giá 220 lượng vàng 24k. Ông Phương xin được hưởng bằng hiện vật, còn các thừa kế khác đề nghị phát mãi nhà đất, chia đều cho các thừa kế.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 64/DSST ngày 04-06-1997, Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định:
1. Xác định căn nhà số 88 Minh Phụng phường 5, quận 6, thành phố Hồ Chí Minh và 6 món tài sản trị giá 2,4 triệu đồng là tài sản chung của cụ Phô và cụ Thiệt mỗi người được hưởng 1/2.
2. Xác định tiền sửa chữa nhà do bà Trinh đã bỏ ra 10. 080.382 đồng tương đương 2 lượng 1 phân 6 ly vàng 24k và ông Chiến bỏ ra 3.226.540 đồng tương đương 6 chỉ 5 phân vàng 24k (loại 9999) được trừ từ tiền tổng trị giá căn nhà để hoàn lại cho bà Trinh, ông Chiến trước khi chia thừa kế.
3. Cụ Thiệt chết, hàng thừa kế thứ nhất của cụ gồm có 8 người: cụ Phô, bà Hồng, bà Hào, bà Trinh, ông Phương, ông Tuyến, ông Phước, ông Chiến. Di sản cụ Thiệt để lại được chia làm 8 kỷ phần cho mỗi thừa kế hàng thứ nhất, mỗi người một kỷ phần là 13,613 lượng vàng 24k.
4. Giao cho ông Phương toàn bộ hiện vật là căn nhà số 88 Minh Phụng phường 5, quận 6, thành phố Hồ Chí Minh và các tài sản: 1 tủ 4 ngăn, 1 tủ nhôm, 1 tủ thờ, 1 tủ ly và 2 bộ ván gỗ. Ông Phương có trách nhiệm hoàn lại cho cụ Phô 1/2 giá trị tài sản và nhà; cho bà Trinh, ông Chiến tiền sửa nhà và 7 kỷ phần thừa kế hàng thứ nhất; cụ thể:
- Cụ Bùi Thị Phô: 122,517 lượng vàng 24k;
- Ông Nguyễn Văn Ngọc Chiến: 14,263 lượng vàng 24k;
- Bà Nguyễn Thị Ngọc Trinh: 15,629 lượng vàng 24k;
- Ông Nguyễn Văn Phước: 13,613 lượng vàng 24k;
- Bà Nguyễn Ánh Hồng: 13,613 lượng vàng 24k;
- Ông Nguyễn Văn Tuyến: 13,613 lượng vàng 24k;
- Bà Nguyễn Thị Hào: 13,613 lượng vàng 24k;
5. Thời hạn giao tiền vàng là 06 tháng, kể từ ngày Toà tuyên án, tại Phòng Thi hành án thành phố Hồ Chí Minh.
- Trong hạn từ ngày 04 tháng 06 đến ngày 04 tháng 12 năm 1997, nếu ông Phương thi hành án xong thì được sở hữu căn nhà số 88 Minh Phụng phường 5, quận 6, thành phố Hồ Chí Minh và 6 tài sản trên. Quá hạn trên ông Phương không thi hành án, thì cơ quan thi hành án được quyền phát mãi căn nhà số 88 Minh Phụng phường 5, quận 6 và các tài sản trên theo hình thức bán đấu giá. Số tiền thu được giao lại cho cụ Phô và các thừa kế theo tỷ lệ tương ứng.
Về phần án phí dân sự các đương sự phải nộp theo luật định.
Ngày 12-06-1997, ông Nguyễn Văn Phương có đơn kháng cáo, nêu lý do: xin được hưởng thừa kế bằng hiện vật còn các phần khác tự các thừa kế giải quyết.
Ngày 08-08-1997, Toà Phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh ra quyết định tạm đình chỉ việc xét xử phúc thẩm theo Nghị quyết của Quốc hội.
Tại Bản án dân sự phúc thẩm số 161/DSPT ngày 01-11-1999, Toà Phúc thẩm tại thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định:
Căn cứ Điều 69 khoản 2 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự, sửa án sơ thẩm;
Căn cứ Điều 233; Điều 678 khoản 1 điểm a; Điều 679 khoản 1 điểm a; Điều 686 khoản 9; Điều 688 khoản 2 Bộ luật Dân sự; tuyên xử:
1. Xác định căn nhà số 88 Minh Phụng phường 5, quận 6, thành phố Hồ Chí Minh trị giá 220 lượng vàng 24k (9999) và 6 món tài sản trị giá 2.400.000 đồng là tài sản chung của cụ Bùi Thị Phô và cụ Nguyễn Văn Thiệt, mỗi người được hưởng 1/2.
2. Xác định tiền sửa chữa nhà do bà Nguyễn Thị Ngọc Trinh đã bỏ ra 10. 080.382 đồng tương đương 02 lượng 01 phân 06 ly vàng 24k và ông Nguyễn Văn Ngọc Chiến đã bỏ ra 3.226.540 đồng tương đương 06 chỉ 05 phân vàng 24k (loại 9999) được trừ từ tiền tổng trị giá căn nhà để hoàn lại cho bà Trinh, ông Chiến trước khi chia thừa kế.
Di sản của cụ Thiệt để lại được chia cho 8 người gồm cụ Bùi Thị Phô, bà Nguyễn Ánh Hồng, bà Nguyễn Thị Hào, bà Nguyễn Thị Ngọc Trinh, ông Nguyễn Văn Phương, ông Nguyễn Văn Tuyến, ông Nguyễn Văn Phước, ông Nguyễn Ngọc Chiến, mỗi người được hưởng một kỷ phần là 13,583 lượng vàng 24k (9999) (mười ba lượng năm chỉ tám phân ba ly vàng 24k) và 150.000 đồng (một trăm năm mươi ngàn đồng).
Giao cho ông Nguyễn Văn Phương toàn bộ căn nhà số 88 Minh Phụng phường 5, quận 6, thành phố Hồ Chí Minh. Ông Nguyễn Văn Phương có trách nhiệm hoàn lại cho cụ Phô 9/16 trị giá căn nhà; cho bà Trinh, ông Chiến tiền sửa chữa nhà và sáu kỷ phần thừa kế mỗi kỷ phần 1/16 giá trị căn nhà; cụ thể như sau:
- Cụ Bùi Thị Phô: 122,250 1ượng vàng 24k (9999);
- Bà Nguyễn Thị Ngọc Trinh: 15,599 lượng vàng 24k (9999);
- Ông Nguyễn Văn Ngọc Chiến: 14,233 lượng vàng 24k (9999);
- Ông Nguyễn Văn Phước: 13,583 lượng vàng 24k (9999);
- Bà Nguyễn Ánh Hồng: 13,583 lượng vàng 24k (9999);
- Ông Nguyễn Văn Tuyến: 13,583 lượng vàng 24k (9999);
- Bà Nguyễn Thị Hào: 13,583 lượng vàng 24k (9999).
Giao cho bà Nguyễn Ánh Hồng toàn bộ hiện vật gồm: Một tủ bốn ngăn, một tủ nhôm, một tủ thờ, một tủ ly và hai bộ ván gỗ. Bà Nguyễn Ánh Hồng có trách nhiệm hoàn lại cho cụ Phô 1.350.000 đồng, hoàn lại cho bà Trinh, ông Chiến, ông Phước, ông Tuyến, bà Hào, ông Phương mỗi người 150.000 đồng (một trăm năm mươi ngàn đồng).
Thời hạn giao tiền, vàng là 06 tháng kể từ ngày Toà tuyên án (01-11-1999), tại Phòng Thi hành án thành phố Hồ Chí Minh.
Quá hạn trên, ông Phương, bà Hồng không thi hành án thì cơ quan thi hành án được quyền phát mãi căn nhà số 88 Minh Phụng phường 5, quận 6, thành phố Hồ Chí Minh và các tài sản trên theo hình thức bán đấu giá. Số tiền, vàng thu được giao lại cho cụ Phô và các thừa kế theo tỷ lệ tương ứng.
Án phí dân sự sơ thẩm:
- Cụ Phô chịu: 3.403.000 đồng.
- Bà Hồng chịu: 3.403.000 đồng, đã nộp 1.750.000 đồng (theo biên lai số 000223 ngày 29-01-1997 của Phòng Thi hành án thành phố Hồ Chí Minh) còn phải nộp tiếp 1.653.000 đồng.
Bà Hào, bà Trinh, ông Chiến, ông Tuyến, ông Phương, ông Phước mỗi người phải nộp 3.403.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.
Ông Phương không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.
Sau khi xét xử phúc thẩm, các đương sự trong vụ án không khiếu nại.
Chị Nguyễn Thị Kim Lệ có đơn khiếu nại với nội dung: Cụ Nguyễn Văn Thiệt và cụ Bùi Thị Phô còn có một người con trai là ông Nguyễn Văn Luông (chết năm 1979), khi chết đã có vợ là bà Hà Thị Thanh và có con là chị (Lệ), nhưng khi giải quyết Toà án không đưa chị vào tham gia tố tụng là không đúng.
Tại Quyết định kháng nghị số 11/KNDS ngày 14-10-2002, Chánh án Toà án nhân dân tối cao kháng nghị Bản án phúc thẩm nêu trên với nhận định:
Việc cụ Bùi Thị Phô và các đương sự trong vụ án khai rằng: Cụ Nguyễn Văn Thiệt và cụ Bùi Thị Phô sinh được 14 người con, nhưng 7 người con đã chết, hiện chỉ còn sống 7 người. Lời khai này là chưa rõ ràng, đầy đủ. Toà án cấp sơ thẩm và Toà án cấp phúc thẩm không tiến hành xác minh trong số 7 người con đã chết thì họ chết năm nào, khi chết có vợ (chồng) và con chưa? Có ai còn sống, hiện đang sống tại đâu?... Sau khi xử phúc thẩm, chị Nguyễn Thị Kim Lệ đã xuất trình tờ hôn thú giữa ông Luông với bà Thanh. Tại tờ hôn thú này ghi rõ bố mẹ của ông Luông là cụ Thiệt và cụ Phô; các đương sự trong vụ án là bà Hồng, bà Trinh, bà Hào, ông Tuyến đã công nhận chị Lệ là con ông Luông và là cháu của cụ Thiệt, cụ Phô. Như vậy, Toà án cấp sơ thẩm và phúc thẩm đã không tiến hành điều tra kỹ, dẫn đến bỏ sót người tham gia tố tụng. Mặt khác, tại Toà án cấp phúc thẩm, cụ Phô có yêu cầu tự nguyện cho ông Phương, bà Trinh, ông Chiến mỗi người 10 lượng vàng, nhưng Toà án không ghi nhận sự tự nguyện này của cụ Phô là có thiếu sót.
Tại Kết luận số 212/KL-VKSTC-KSXXDS ngày 11-12-2002, Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao kết luận với nhận xét: Toà án các cấp không tiến hành điều tra, xác minh làm rõ trong 7 người con của 2 cụ đã chết thì họ chết năm nào, khi chết có vợ (chồng) và con chưa? Nếu có, hiện đang sống tại đâu?... trong khi ông Tuyến, bà Hồng, bà Hào, bà Trinh đều có lời khai thừa nhận (sau khi xử phúc thẩm) chị Lệ là con ông Luông và là cháu của cụ Phô, cụ Thiệt. Do đó, Toà án các cấp không xác minh làm rõ để đưa chị Lệ vào tham gia tố tụng là vi phạm Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự. Đề nghị Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao xử huỷ Bản án dân sự sơ thẩm số 64/DSST ngày 04-06-1997 của Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh và Bản án dân sự phúc thẩm số 161 ngày 01-11-1999 của Toà Phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh để điều tra xét xử lại.


XÉT THẤY:

Việc cụ Bùi Thị Phô và các đương sự trong vụ án khai rằng, vợ chồng cụ Nguyễn Văn Thiệt sinh được 14 người con, nhưng 7 người con đã chết, hiện chỉ còn sống 7 người. Lời khai này là chưa rõ ràng, đầy đủ. Do đó, sau khi xử phúc thẩm, chị Nguyễn Thị Kim Lệ đã xuất trình tờ hôn thú giữa ông Luông với bà Thanh. Tại tờ hôn thú này ghi rõ bố mẹ của ông Luông là cụ Thiệt và cụ Phô; đồng thời, lúc này, các đương sự trong vụ án là bà Hồng, bà Trinh, bà Hào, ông Tuyến đã công nhận chị Lệ là con ông Luông và là cháu của cụ Thiệt, cụ Phô. Như vậy, Toà án cấp sơ thẩm và phúc thẩm đã không điều tra kỹ, dẫn đến bỏ sót người tham gia tố tụng. Mặt khác, tại Toà án cấp phúc thẩm, cụ Phô có yêu cầu tự nguyện cho ông Phương, bà Trinh, ông Chiến mỗi người 10 lượng vàng, nhưng Toà án không ghi nhận sự tự nguyện này của cụ Phô là có thiếu sót.
Vì vậy, cần điều tra làm rõ trong số 7 người con của cụ Thiệt đã chết thì họ chết năm nào? Khi chết có vợ (chồng) và con chưa?... để đưa họ vào tham gia tố tụng, thì mới đảm bảo được quyền lợi của các đương sự.
Bởi các lẽ trên, căn cứ vào khoản 4 Điều 77 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự,


QUYẾT ĐỊNH:


- Huỷ Bản án dân sự sơ thẩm số 64/DSST ngày 04-06-1997 của Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh và Bản án dân sự phúc thẩm số 161/DSPT ngày 01-11-1999 của Toà Phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh về vụ án tranh chấp di sản thừa kế giữa nguyên đơn là bà Nguyễn Ánh Hồng, cụ Bùi Thị Phô, bà Nguyễn Thị Hào, ông Nguyễn Văn Tuyến, bà Nguyễn Thị Ngọc Trinh với bị đơn là ông Nguyễn Văn Ngọc Chiến và ông Nguyễn Văn Phương.
- Giao hồ sơ vụ án cho Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh điều tra, xét xử lại sơ thẩm theo đúng quy định của pháp luật.

Những vấn đề cần chú ý:
- Qua vụ án trên, Toà án cần phải chú ý là, khi giải quyết tranh chấp di sản thừa kế, nếu không có di chúc thì cần phải nắm chắc các quy định của Bộ luật Dân sự về "Thừa kế theo pháp luật". Cần xác định đầy đủ những người thừa kế theo pháp luật.
- Khi thụ lý vụ án giải quyết tranh chấp di sản thừa kế, nếu có người thừa kế theo pháp luật đã chết thì cần phải xác định họ chết vào thời điểm nào? Trước hay sau thời điểm mở thừa kế. Khi chết, họ có vợ, con không? Trong trường hợp nào thì áp dụng quy định của Bộ luật Dân sự về thừa kế thế vị.
- Việc xác định không đầy đủ những người thừa kế theo pháp luật dẫn đến giải quyết sai vụ án không chỉ xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của họ, mà bản án còn bị huỷ, Toà án phải giải quyết lại vụ án làm cho việc giải quyết vụ án bị kéo dài không đáng có.
QUYẾT ĐỊNH SỐ 02/2003/HĐTP-DS NGÀY 25-02-2003
VỀ VỤ ÁN LY HÔN

HỘI ĐỒNG THẨM PHÁN TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO
.......................
Tại phiên toà ngày 25-02-2003, xét xử giám đốc thẩm vụ án ly hôn giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Chị Trương Thị Bạch Tuyết, sinh năm 1965.
Bị đơn: Anh Ngô Thanh Long, sinh năm 1962.
Cùng trú tại số 16 Phan Đình Phùng B, phường Mỹ Long, thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Bà Võ Thị Bảy và ông Trương Văn Huyện, trú tại Australia (Úc).
2. Bà Ngô Thị Hảo trú tại số 10, ấp Đông Thịnh 2, Mỹ Phước, Long Xuyên, An Giang.
3. Bà Trần Thị Liên, trú tại số 23 Huỳnh Văn Hay, Mỹ Long, Long Xuyên, An Giang.
4. Bà Lê Thị Kim Ngân, trú tại số 39 Ngô Gia Tự, phường 2, quận 10, thành phố Hồ Chí Minh.
5. Chị Bùi Thị Thanh Thuỳ, trú tại số 90/2A Trần Hưng Đạo, Mỹ Phước, Long Xuyên, An Giang.
6. Bà Ngô Thị Kim Chi, trú tại số 275 Ngô Gia Tự, phường 3, quận 10 thành phố Hồ Chí Minh.
7. Ông Chung Tô Hà, trú tại số 21 Phạm Hữu Trí, phường 12, quận 5, thành phố Hồ Chí Minh.
8. Anh Dư Tiểu Luân, trú tại số 7 Huỳnh Thị Hưởng, phường Mỹ Long, thành phố Long Xuyên, An Giang.
9. Bà Lê Thị Thái, trú tại số 52 Trần Khánh Dư, phường Mỹ Xuyên, thành phố Long Xuyên, An Giang.
10. Anh Trương Thanh Bình đại diện Công ty TNHH Vạn Thành, 26 Hai Bà Trưng, Mỹ Long, Long Xuyên, An Giang.
NHẬN THẤY:
Chị Trương Thị Bạch Tuyết và anh Ngô Thanh Long kết hôn năm 1984. Năm 1999, anh chị mâu thuẫn trầm trọng. Ngày 20-07-1999, chị Tuyết xin được ly hôn anh Long.
Anh chị có 3 con chung: Ngô Thanh Lân sinh năm 1985; Ngô Thanh Huy sinh năm 1991; Ngô Tiến Phụng sinh năm 1993.
Tài sản chung anh chị khai thống nhất gồm có: 1 xe Hon da 50, 1 xe Wave, 1 xe Dream, 1 máy hát đĩa... có tổng giá trị 42.470.000đ (anh Long quản lý 2 xe máy giá trị 30 triệu, còn lại chị Tuyết quản lý).
Anh Long khai: tài sản chung vợ chồng còn có 1 căn nhà 16 Phan Đình Phùng B có nguồn gốc của cha mẹ vợ khi xuất cảnh vừa bán, vừa cho chung vợ chồng (có nhận 205 triệu của vợ chồng), 1 xe Cúp 70, 1 tivi 21 inch, 1tivi 17 inch, 2 thùng loa, 1 Amply, 1 đầu máy vi deo V8, 1 dàn Karaoke, 1 đầu máy Video Hifi, 1 bàn tủ thờ, 1 bộ salon gỗ cẩm lai, 1 giường hộp gỗ, 1 tủ kiếng, 1 tủ đựng quần áo 5 ngăn, 1 máy may, 1 tủ kiếng để ly. Năm 1993, vợ chồng có cho cha vợ mượn 84 triệu để đầu tư cho em vợ là Trương Tấn Chính (BL 131). Tiền hụi còn 358 triệu, tiền mặt ở tủ còn 22.500.000 đồng, hàng hoá còn tồn lại trị giá 396.514.350 đồng, số tiền cho mượn 465 triệu (BL 253), vợ chồng nợ tổng số 576 triệu đồng (BL 130).
Chị Tuyết khai: nhà 16 Phan Đình Phùng B của cha mẹ chị (ông Huyện, bà Bảy) cho riêng chị năm 1991, giấy tờ sở hữu nhà đứng tên chị, không phải tài sản chung của vợ chồng. Các tài sản xe Cúp 70, tivi... là của cha mẹ chị. Cha mẹ chị không nợ vợ chồng, tiền hụi chị hốt đã trả cho tiệm Mỹ Hoa 40 triệu, còn lại đã trả nợ cho các chủ hàng ở thành phố Hồ Chí Minh, chi xài trong gia đình, tiền hụi nọ đóng hụi kia và lấy cả tiền hàng đóng hụi, hiện tiền hụi chỉ còn thực tế khoảng 100 triệu (BL 204, 161). Đối với số nợ 576 triệu đồng do anh Long khai, chị không biết; hàng tồn kho không phải 396 triệu, tiền vợ chồng cho mượn đề nghị tách ra giải quyết thành vụ án khác (BL 203, 248). Vợ chồng có nợ bà Trần Liên nhiều lần bằng 200 triệu.
Tại Bản án sơ thẩm số 08/HNST ngày 13-11-2001, Toà án nhân dân tỉnh An Giang đã quyết định:
- Về hôn nhân: Chị Trương Thị Bạch Tuyết được ly hôn với anh Ngô Thanh Long.
- Về con chung: Giao cháu Ngô Thanh Lân sinh năm 1985; Ngô Thanh Huy sinh năm 1991 và Ngô Tiến Phụng sinh năm 1993 cho chị Trương Thị Bạch Tuyết được tiếp tục nuôi dưỡng, giáo dục; anh Long không phải cấp dưỡng nuôi con; chị Tuyết phải tạo điều kiện cho anh Long tới thăm và chăm sóc, giáo dục con.
Việc nuôi con và cấp dưỡng nuôi con không cố định.
- Về tài sản:
+ Chị Tuyết được sở hữu lầu 1, lầu 2, tầng mái của căn nhà số 16 Phan Đình Phùng B, phường Mỹ Long giá trị 133.064.790đ, số tiền 184.000.000đ (đưa ông Huyện, bà Bảy và anh Chính), hàng tồn kho 20.688.000đ, tiền mặt hốt hụi 690.314.000đ và18.000.000đ (hụi còn sống gửi Diễm Trang), chiếc cúp 70 trị giá 3.000.000đ, 14 loại tài sản trang trí nội thất trị giá 12.470.000đ (01 máy nước nóng, tủ lạnh nhỏ, 01 máy hát đĩa 03 đĩa, 01 bàn phấn, 01 giường ngủ hộp loại Si men, 01 bàn bi ro, 02 máy may công nghiệp Misumisi, 01 máy se lai, vắt sổ; 01 quạt đứng, máy lạnh, 02 ổn áp Lioa, 01 máy hát đĩa bộ AIWA (Tuyết tự bán), 01 giường sắt 02 tầng, 01 quạt trần và xe cúp 50). Tổng cộng 1.061.536.790đ.
- Anh Long được sở hữu số tiền bán 02 chiếc xe Dream và Wave Nhật 30.000.000đ.
* Về nợ: Chị Tuyết phải chịu trách nhiệm trả nợ chung gồm:


1. Bà Lê Thị Kim Ngân (Đại diện cho tiệm Mỹ Hoa) 61.480.000 đ
2. Ông Chung Tô Hà (Anh Tân) 21.769.000 đ
3. Bà Lê Thị Thái 3.587.000 đ
4. Anh Trương Thanh Bình (Đ D CN Công ty Vạn Thành) 15.314.000đ
5. Bà Ngô Thị Hảo 200.000.000đ
6. Bà Trần Liên 216.750.000đ
7. Bà Nguyễn Thị Kim Chi 50.000.000 đ
8. Anh Dư Tiểu Luân 30.000.000 đ
9. Chị Bùi Thị Thanh Thuỳ 50.000.000 đ
10. Bà Đinh Thị Hai 50.000.000 đ
Tổng cộng: 698.900.000đ


- Chị Tuyết có trách nhiệm hoàn giá trị chênh lệch tài sản của anh Long 166.318.000đ
- Buộc ông Trương Văn Huyện và bà Võ Thị Bảy phải có trách nhiệm hoàn cho chị Tuyết 100.000.000đ.
- Bà Hảo có trách nhiệm giao trả toàn bộ giấy tờ nhà số 16 Phan Đình Phùng B cho chị Trương Thị Bạch Tuyết khi nhận được tiền.
Về án phí:
- Chị Tuyết phải chịu 50.000đ án phí hôn nhân sơ thẩm và 4.426.000đ án phí dân sự sơ thẩm (được trừ vào 50.000đ tạm ứng đã nộp theo biên lai thu số 06878 ngày 09-04-2000).
- Anh Long phải chịu 8.852.000đ án phí dân sự sơ thẩm.
Kể từ ngày bên được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án nếu bên phải thì hành án chưa trả số tiền trên thì hàng tháng còn phải trả thêm tiền lãi theo mức lãi suất nợ quá hạn do Ngân hàng Nhà nước quy định tương ứng với thời gian chưa thi hành án.
Các đương sự có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.
Riêng bà Ngân, ông Hà, bà Chi, bà Hai, ông Huyện, bà Bảy có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án niêm yết tại trụ sở Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi cư trú.
Ngày 25-11-2001, anh Ngô Thanh Long có đơn kháng cáo: yêu cầu được chia đôi căn nhà 16 Phan Đình Phùng B; hàng tồn kho có giá trị 396 triệu mà Toà chỉ tính có hơn 20 triệu là không đúng; số tiền vợ chồng cho vay trên 460 triệu đồng, chị Tuyết đã đi thu hồi nợ thì chị Tuyết phải chịu trách nhiệm; tiền hàng hoá trị giá 186 triệu đồng, chứ không phải chỉ có hơn 13 triệu đồng.
Ngày 27-11-2001, chị Trương Thị Bạch Tuyết có đơn kháng cáo: các khoản nợ anh Long khai là nợ giả do anh Long tạo ra để chiếm đoạt tài sản của chị, chị không biết các khoản nợ này; yêu cầu giải quyết luôn cả các khoản nợ của vợ chồng do mua hàng ở thành phố Hồ Chí Minh; khoản tiền chơi hụi chỉ có 100 triệu là tiền bán hàng (vì chơi mãn hụi trước mới tham gia vào dây hụi sau), án sơ thẩm buộc chị chịu trách nhiệm 750 triệu tiền hụi là không đúng; tiền vợ chồng đã cho cha mẹ chị không phải tiền cho mượn; hàng hoá tồn kho để ở nhà 16 Phan Đình Phùng anh Long đã lấy hết vào đêm ngày 11-10-2001 (BL 310).
Tại Bản án phúc thẩm số 10/PTHNGĐ ngày 26-03-2002, Toà Phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định:
Căn cứ Điều 40, Điều 42, Điều 45 Luật Hôn nhân gia đình năm 1986; Khoản 1 Điều 69 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự tuyên xử về phần tài sản:
- Chị Tuyết được sở hữu thêm lầu 1, lầu 2, tầng mái của căn nhà 16 Phan Đình Phùng B, phường Mỹ Long giá trị 133.064.790đ; 184.000.000đ tiền cho ông Huyện, bà Bảy và anh Chính mượn; hàng tồn kho trị giá 20.688.000đ; tiền mặt đã hốt hụi 690.314.000đ và 18.000.000đ hụi sống còn gửi Diễm Trang, chiếc cúp 70cc trị giá 3.000.000đ; 14 loại tài sản trang trí nội thất trị giá 12.470.000đ. Tổng cộng giá trị tài sản chị Tuyết nhận 1.061.536.790đ.
Anh Long được sở hữu 2 xe máy (1 Dream và 1 Wave Nhật) trị giá 30.000.000đ.
- Về nợ chị Tuyết phải chịu trách nhiệm trả nợ chung gồm:
1. Bà Lê Thị Kim Ngân (Đại diện cho tiệm Mỹ Hoa) 61.480.000đ
2. Ông Chung Tô Hà (Anh Tân) 21.769.000đ
3. Bà Lê Thị Thái 3.587.000 đ
4. Anh Trương Thanh Bình (đại diện Công ty Vạn Thành) 15.314.000đ
5. Bà Ngô Thị Hảo 200.000.000đ
6. Bà Trần Liên 216.750.000đ
7. Bà Nguyễn Thị Kim Chi 50.000.000 đ
8. Anh Dư Tiểu Luân 30.000.000 đ
9. Chị Bùi Thị Thanh Thuỳ 50.000.000 đ
10. Bà Đinh Thị Hai 50.000.000 đ
Tổng cộng: 698.900.000đ
- Chị Tuyết có nghĩa vụ hoàn lại giá trị chênh lệch về tài sản cho anh Long: 166.318.000đ.
- Buộc ông Trương Văn Huyện và bà Võ Thị Bảy có trách nhiệm hoàn lại cho chị Tuyết 100.000.000đ.
- Bà Ngô Thị Hảo có nghĩa vụ giao toàn bộ giấy tờ nhà 16 Phan Đình Phùng B, phường Mỹ Long, thành phố Long Xuyên cho chị Trương Thị Bạch Tuyết khi nhận được tiền.
Kể từ ngày bên được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, nếu bên phải thi hành án chưa thi hành án thì hàng tháng còn phải chịu tiền lãi suất quá hạn do Ngân hàng Nhà nước quy định tương ứng với số tiền và thời gian chậm thi hành.
Các quyết định khác của án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật.
- Chị Tuyết chịu 50.000đ án phí hôn nhân gia đình 4.426.000đ án phí dân sự sơ thẩm và 50.000đ án phí dân sự phúc thẩm, được trừ 50.000đ tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai số 06878 ngày 09-04-2000.
- Anh Long chịu 8.825.000đ tiền án phí dân sự sơ thẩm và 50.000đ án phí dân sự phúc thẩm.
Ngày 09-05-2002, chị Tuyết có đơn khiếu nại: phần nợ anh Long tự kê khai 380 triệu là không có thật; tiền hụi thực tế sau khi trừ tiền chầu hụi chỉ còn 190.314.000đ; vợ chồng còn nợ cha mẹ 8.734.000 đồng chứ không phải cha mẹ nợ vợ chồng 84 triệu; phần vợ chồng nợ mua hàng 259.271.000 đồng mà Toà chỉ mới giải quyết 102.150.000 đồng là không đúng.
Tại Quyết định số 94/KN-DS ngày 11-11-2002, Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao đã kháng nghị Bản án dân sự phúc thẩm số 10/PTHNGĐ ngày 26-03-2002 của Toà Phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh với nhận định:
1. Về tiền hốt hụi 690.314.000đ:
Trong quá trình giải quyết vụ án, chị Tuyết luôn cho rằng: Tiền góp hụi là chị lấy ra từ khoản tiền bán hàng, sau khi hốt được hụi chị dùng tiền đó để mua hàng và chi phí cho sinh hoạt gia đình, số tiền hụi hiện chỉ còn lại 100 triệu. Lời khai của chị Tuyết phù hợp lời khai của chị Kim Ngân chủ tiệm Mỹ Hoa khai ngày 09-08-2001 (BL 187): từ ngày 17-02-2000 đến ngày 08-05-2001, chị Tuyết có trả cho chị 1.041.827.000đ, hơn nữa, tại phiên toà sơ thẩm ngày 13-1l-2001 anh Long đã thừa nhận tiền hụi theo sổ sách chỉ còn 358 triệu, do vậy, việc Toà hai cấp xử công nhận số tiền 690.314.000đ tiền hốt hụi là tài sản chung của vợ chồng anh Long, chị Tuyết là không thoả đáng.
2. Số tiền anh Long tự vay của 5 đối tượng có giá trị 380 triệu:
Chị Tuyết không thừa nhận khoản tiền này vì khi anh Long vay chị không được biết.
Anh Long khai vay số tiền trên để trả nợ một số người như: tiệm Mỹ Hoa (chị Kim Ngân) ngày 05-11-1997: 145.000.000đ, Kim Đan... nhưng Toà án không xác minh việc này, chị Kim Ngân chủ tiệm Mỹ Hoa tại biên bản ghi lời khai ngày 08-05-2001 (BL 76), ngày 09-08-2001 (BL 187) chỉ thừa nhận vào đầu năm 2001 có nhận của chị Tuyết 145 triệu đồng chứ không phải nhận của anh Long. Trong 380 triệu đồng trên, anh Long khai vay của bà Hảo 200 triệu đồng vào năm 1997 và có thế chấp cho bà Hảo giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà số 173 ngày 02-04-1991, nhưng tại đơn khởi kiện ngày 17-05-2001, bà Hảo đã cung cấp cho Toà án bản sao giấy chứng nhận 173 (không có công chứng xác nhận) (BL 64), tại phiên toà sơ thẩm, bà Hảo khai thế chấp bản chính nhưng bà Hảo không xuất trình được tài liệu này. Tại BL 138 có giấy chứng nhận số 173 đã được công chứng ngày 18-06-1998 sau khi anh Long vay tiền của bà Hảo; nhưng không xác định thu thập của ai. Quá trình giải quyết vụ án chị Tuyết cho rằng giấy tờ nhà đã bị anh Long lấy đi thế chấp ở chỗ nào chị không biết, nhưng tại đơn khiếu nại ngày 09-05-2002, chị Tuyết trình bày, anh Long không có giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà chính, giấy chứng nhận (số 173) bản chính bố chị vẫn giữ và chị sao giấy chứng nhận số 173 có công chứng của Phòng Công chứng nhà nước tỉnh An Giang ngày 07-06-2002 để làm bằng. Hơn nữa, tại biên bản ngày 18-04-2001, anh Long khai: số nợ chung của vợ chồng chỉ khoảng 250 triệu đồng. Vì vậy, Toà án tuyên khoản nợ trên là khoản nợ chung của vợ chồng và buộc chị Tuyết phải trả là chưa có cơ sở.
3. Về số tiền 84 triệu đồng cho bố mẹ chị Tuyết vay:
Trong quá trình giải quyết vụ án, chị Tuyết thừa nhận năm 1993, vợ chồng chị có cho bố mẹ chị vay tiền để cho em chị là Chính làm lò đường, nhưng hiện nay, bố mẹ chị đã trả hết. Sau khi xét xử sơ thẩm, chị đã xuất trình giấy thanh toán nợ giữa bố mẹ chị với anh Long, trong khi đó, vợ chồng chị còn nợ lại bố mẹ chị 8.734.000 đồng. Anh Long thừa nhận giấy thanh toán này do anh viết. Vì vậy, Toà án coi số tiền này bố mẹ chị Tuyết chưa trả và buộc chị Tuyết trả 1à chưa đúng.
4. Về khoản tiền 157.121.200 đồng nợ của 14 đối tượng: Toà án cấp phúc thẩm cho rằng, anh Long cùng chị Tuyết không cung cấp địa chỉ cũng như các đương sự không có yêu cầu là không đúng, vì trong đơn đề nghị hoãn phiên toà ngày 06-08-2001 của anh Long có kèm theo địa chỉ của 8 chủ nợ. Toà án hai cấp không tiến hành điều tra xác minh là thiếu sót, việc tách số tiền trên ra thành một vụ án khác sẽ không giải quyết triệt để vụ án.
Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao đề nghị Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm theo hướng: huỷ phần quyết định về phân chia tài sản của Bản án dân sự sơ thẩm số 08/HNST ngày 13-11-2001 của Toà án nhân dân tỉnh An Giang và Bản án phúc thẩm số 10/PTHNGĐ ngày 26-03-2002 của Toà Phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh; giao hồ sơ cho Toà án nhân dân tỉnh An Giang xét xử lại theo trình tự sơ thẩm.
Tại phiên toà giám đốc thẩm, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tối cao giữ nguyên yêu cầu kháng nghị nêu trên.
XÉT THẤY:
Về quan hệ hôn nhân và giao nuôi con đã được Toà án cấp sơ thẩm giải quyết, các đương sự không có kháng cáo; phần này đã có hiệu lực.
Về tài sản: căn nhà 16 Phan Đình Phùng B, phường Mỹ Long, thành phố Long Xuyên có nguồn gốc của cha mẹ chị Tuyết (ông Huyện, bà Bảy) cho riêng chị Tuyết (căn cứ vào đơn xin cho nhà ngày 19-10-1985 và giấy uỷ quyền ngày 22-03-1991). Trong thời gian chung sống vợ chồng anh Long, chị Tuyết đã sửa chữa lại căn nhà. Toà án cấp sơ, phúc thẩm xác định tài sản chung vợ chồng gồm giá trị phần sửa chữa căn nhà 16 Phan Đình Phùng B, phường Mỹ Long, thành phố Long Xuyên, l xe cúp 50, l xe DreamII, 1 xe Wave Nhật, 14 loại tài sản nội thất, hàng tồn kho có giá trị 199.222,790đ là có căn cứ (hiện chị Tuyết, anh Long không có khiếu nại).
Về tiền hốt hụi: Các đương sự đều công nhận vợ chồng có chơi hụi, chị Tuyết là người hốt hụi.
Tại BL 130 và tại phiên toà sơ thẩm ngày 11-09-2001, anh Long khai: số tiền hụi còn 358 triệu nhưng anh không xuất trình sổ sách. Tại phiên toà phúc thẩm ngày 26-03-2002, anh Long khai: chị Tuyết dùng tiền hụi để trả nợ và làm việc khác (BL 335, 336).
Chị Tuyết khai: tiền chơi hụi lấy từ tiền bán hàng, tiền hốt hụi được trả nợ cho các chủ nợ ở thành phố Hồ Chí Minh; có sổ sách ghi việc hốt hụi do anh Long giữ, chị không nhớ hốt được bao nhiêu tiền (BL 251, 250). Tại lời khai ngày 25-09-2001, chị Tuyết khai, chị chơi rất nhiều dây hụi, chị hốt hụi nhiều lần (BL 202, 203). Sau khi Toà án cấp sơ thẩm xác định số tiền hụi chị Tuyết đã hốt là 690.314.000 đồng, chị Tuyết kháng cáo về tiền hụi và tại phiên toà phúc thẩm ngày 26-03-2002, chị Tuyết khai: tiền hụi chỉ còn khoảng hơn 100 triệu, hốt hụi này mới chơi hụi kia, sổ sách chơi hụi do anh Long giữ (BL 335, 337). Tại đơn khiếu nại ngày 09-05-2002 của chị Tuyết gửi Toà án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, chị Tuyết khai: thực tế, sau khi hốt hụi được tổng số tiền 690.314.000 đồng chị phải chầu hụi chết 500 triệu đồng, thực tế chỉ còn 190.314.000 đồng.
Toà án cấp sơ thẩm, phúc thẩm đã không yêu cầu anh Long phải cung cấp cho Toà án sổ sách ghi việc chơi hụi, không đối chiếu sổ sách và đối chất giữa các đương sự mà chỉ căn cứ vào lời khai ngày 25-09-2001 của chị Tuyết là hốt hụi nhiều lần, rồi cộng tổng số những lần chị khai hốt hụi thành số tiền 690.314.000 đồng để quy trách nhiệm cho chị Tuyết trong khi chị còn có các lời khai khác về nguồn tiền dùng chơi hụi và sau khi hốt hụi đã chi dùng một phần cho gia đình, trả nợ, chầu hụi chết... Do đó, kết luận của cấp sơ thẩm và phúc thẩm về khoản tiền này là chưa có căn cứ. Vì vậy, cần phải tiến hành điều tra thêm, yêu cầu anh Long xuất trình sổ chơi hụi, đối chất giữa các đương sự về số tiền thu được, tiền đóng hụi lấy từ đâu ra, số tiền chi dùng sau khi hốt hụi, vợ chồng tham gia các dây hụi cùng một thời gian hay kết thúc dây hụi này mới tham gia vào dây hụi khác, yêu cầu chị Tuyết phải giải trình về số tiền 500 triệu đồng chị đóng hụi chết cho ai? Thời gian nào?...
Về số tiền anh Long vay 380 triệu đồng của 5 người:
Anh Long khai ngày 18-04-2000: vợ chồng buôn bán hiện còn nợ 250 triệu, nhưng cũng không liệt kê vay của ai, số tiền bao nhiêu, thời gian nào (BL 08). Tại tờ tường trình ngày 16-03-2001, anh Long khai nợ của nhiều người, trong đó, có nợ bà Ngô Thị Hảo 200 triệu, nợ bà Nguyễn Thị Kim Chi 50 triệu, bà Đinh Thị Hai 50 triệu đồng, anh Dư Tiểu Luân 30 triệu (không thấy kê khai nợ chị Bùi Thị Thanh Thuỳ BL 130), nhưng tại lời khai ngày 09-07-2001, anh Long khai: vợ chồng nợ 380 triệu đồng của 5 người cụ thể:
+ Vay của bà Ngô Thị Hảo 2 lần, tổng số 200 triệu, có thế chấp giấy tờ nhà 61 Phan Đình Phùng B. Vay tiền để trả nợ tiệm Mỹ Hoa 145 triệu ngày 05-11-1997 và 88 triệu ngày 27-07-1997.
+ Vay bà Đinh Thị Hai 50 triệu ngày 09-05-1998 để trả nợ cho bà Hoa ở thành phố.
+ Vay chị Bùi Thị Thanh Thuỳ 50 triệu đồng ngày 08-12-2000 để trả cho ông Sơn ở phường Mỹ Xuyên.
+ Vay bà Nguyễn Thị Kim Chi 50 triệu ngày 20-04-1997 để trả nợ cho tiệm Mỹ Hoa ngày 22-04-1997.
+ Vay anh Dư Tiểu Luân 30 triệu đồng ngày 15-02-1999 để trả cho tiệm Mỹ Hoa, chị Hoa Vải ... (BL 79).
Anh Long xuất trình 1 cuốn sổ mua hàng, trong đó có ghi các khoản nợ của 5 người trên bằng 380 triệu (BL 85). Anh Long cho rằng, việc anh vay mượn chị Tuyết có biết, chỉ mình anh ký vào giấy nhận nợ, vay để phục vụ việc buôn bán nên vợ chồng cùng phải trả.
Chị Tuyết khai: việc buôn bán do anh Long quản lý, chị không biết (BL 10, 155). Tại lời khai ngày 07-04-2000, chị Tuyết khai, anh Long có báo cho chị, hiện vợ chồng còn nợ 250 triệu và một vài khoản nợ ở thành phố (BL 10). Tại phiên toà sơ thẩm ngày 13-11-2001, chị Tuyết khai, nợ chung vợ chồng cùng trả (BL 231). Sau khi Toà án cấp sơ thẩm công nhận vợ chồng nợ 380 triệu của 5 người trên, chị Tuyết kháng cáo cho rằng, các khoản nợ do anh Long vay để tiêu xài riêng (BL 312). Tại phiên toà phúc thẩm ngày 26-03-2002, chị Tuyết công nhận sổ nợ do anh Long xuất trình (BL 338). Tại đơn khiếu nại gửi Toà án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao ngày 09-05-2002, chị Tuyết không công nhận các khoản nợ mà anh Long đã kê khai, đặc biệt là, không có nợ bà Hảo (dì của anh Long) 200 triệu, không thế chấp giấy tờ nhà 16 Phan Đình Phùng B cho bà Hảo. Những lời khai trên của các đương sự còn có nhiều mâu thuẫn, chưa được hỏi, đối chất làm rõ: vì sao lời khai ban đầu của anh Long là vợ chồng chỉ nợ 250 triệu chứ không phải 380 triệu? Số nợ mà anh Long khai vay của chị Thuỳ ngày 08-12-2000 (chị Tuyết bắt đầu quản lý cửa hàng từ tháng 04-2000) có đúng để trả cho anh Sơn hay không ? Ai vay và vay anh Sơn từ thời gian nào, dùng vào mục đích gì ? Trong hồ sơ vụ án có bản phô tô tờ giấy ghi nợ do anh Long cung cấp nhưng không rõ có đúng là phô tô từ “cuốn sổ” mà chị Tuyết công nhận tại phiên toà phúc thẩm hay không ? Mặt khác, “cuốn sổ” đó ghi mâu thuẫn về thời gian: ngày 15-02-1999 vay anh Luân 30 triệu ghi trước, ngày 09-05-1998 vay bà Hai 50 triệu lại ghi sau (BL 85) cần phải điều tra làm rõ. Bên cạnh đó, cũng cần phải điều tra xem, ai là người đang giữ các giấy tờ nhà 16 Phan Đình Phùng B: bố mẹ của chị Tuyết hay bà Hảo...Toà án cấp phúc thẩm chỉ căn cứ vào thời điểm vay, anh Long là người quản lý cửa hàng, các chủ nợ đều xác nhận có việc vay và trong thời kỳ hôn nhân tồn tại anh Long không hề mua sắm tài sản riêng, để xác định khoản nợ do anh Long khai 380 triệu đồng là nợ chung vợ chồng, trong khi còn hàng loạt vấn đề mâu thuẫn chưa được làm rõ là chưa có căn cứ.
Về số tiền 84 triệu đồng mà vợ chồng cho bố mẹ chị Tuyết vay: Anh Long khai, năm 1993, cha mẹ vợ (ông Huyện, bà Bảy) có vay vợ chồng 84 triệu để đầu tư làm lò đường cho em vợ là Trương Tấn Chính (BL 131, 332). Anh Long có xuất trình lá thư do ông Huyện gửi cho bà Ánh (con nuôi ông Huyện) năm 1994 có nội dung: ông Huyện nợ vợ chồng anh Long, chị Tuyết 84 triệu (BL 115).
Theo chị Tuyết khai: ông Huyện, bà Bảy có vay vợ chồng 84 triệu đồng, nhưng đã trả xong (BL 202, 332). Tại phiên toà phúc thẩm ngày 26-03-2002, chị Tuyết xuất trình một tờ giấy mà chị cho rằng là giấy thanh toán nợ giữa ông Huyện, bà Bảy với vợ chồng nhưng nội dung không rõ (BL 328), còn trong kháng nghị của Viện kiểm sát thì cho rằng, giấy này thể hiện vợ chồng còn nợ bố mẹ chị Tuyết 8.734.000đ. Tại phiên toà phúc thẩm, Luật sư do chị Tuyết yêu cầu có hỏi anh Long : “giấy xuất trình của chị Tuyết là của anh phải không ?”, anh Long trả lời: “phải” nhưng không rõ giấy xuất trình của chị Tuyết có phải là giấy thanh toán nợ đó hay không và giấy thanh toán nợ đó có liên quan gì đến số tiền 84 triệu đồng mà ông Huyện, bà Bảy vay của vợ chồng được chị Tuyết thừa nhận? Mặt khác, Toà án cấp phúc thẩm xác định, ông Huyện, bà Bảy là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan của vụ án, nhưng Toà án không hề lấy lời khai của ông Huyện, bà Bảy về số tiền 84 triệu và trong hồ sơ cũng không thể hiện việc ông Huyện, bà Bảy uỷ quyền cho ai tham gia tố tụng là vi phạm tố tụng. Vì vậy, cần phải lấy lời khai của ông Huyện, bà Bảy; đối chất giữa các đương sự về khoản nợ 84 triệu đồng, giấy thanh toán... để làm rõ về việc nợ nần giữa bà Bảy, ông Huyện với vợ chồng.
Về khoản tiền vợ chồng nợ của 14 đối tượng khác: Chị Tuyết khai, vợ chồng nợ 259.271.200 đồng; anh Long khai vợ chồng chỉ nợ 171.250.000 đồng gồm tiệm Mỹ Hoa, tiệm Thanh Tuyền, chị Hoa Vải. Toà án cấp phúc thẩm mới buộc vợ chồng trả 102.150.000 đồng, còn lại 157.121.000 đồng, Toà án cấp phúc thẩm tách ra giải quyết thành vụ án khác khi có yêu cầu của các chủ nợ là chưa giải quyết triệt để vụ án. Vì vậy, cần phải lấy lời khai của các chủ nợ, nếu họ có yêu cầu đòi nợ vợ chồng thì Toà án cần giải quyết theo quy định của pháp luật.
Những vấn đề nêu trên cần phải được điều tra, làm rõ. Do phần quyết định về tài sản của Bản án sơ thẩm, phúc thẩm cần phải xem xét lại nên phần án phí cũng cần điều chỉnh cho phù hợp.
Bởi các lẽ trên và căn cứ vào khoản 4 Điều 77 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự;
QUYẾT ĐỊNH:
Huỷ phần chia tài sản, phần án phí tài sản của Bản án phúc thẩm số 10/PTHNGĐ ngày 26-03-2002 của Toà Phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh và Bản án dân sự sơ thẩm số 08/HNST ngày 13-11-2001 của Toà án nhân dân tỉnh An Giang trong vụ án xin ly hôn có nguyên đơn là chị Trương Thị Bạch Tuyết và bị đơn là anh Ngô Thanh Long.
Giao hồ sơ vụ án cho Toà án nhân dân tỉnh An Giang điều tra, xét xử lại sơ thẩm theo thủ tục chung.

Những vấn đề cần chú ý:
Qua vụ án này cho thấy, khi giải quyết vụ án ly hôn có yêu cầu chia tài sản chung của vợ chồng, thì Toà án cần phải yêu cầu các bên chứng minh đầy đủ các vấn đề:
- Tài sản chung của vợ chồng gồm có những loại gì và nguồn gốc? Tài sản riêng của vợ, của chồng và nguồn gốc?
- Nghĩa vụ về tài sản của vợ chồng? Còn nợ những ai? Việc vay tài sản nợ để làm gì? Nếu một người đứng tên vay thì tài sản được vay có dùng chung cho mục đích cuộc sống, kinh doanh của gia đình hay không?
- Người nào là chủ nợ, người nào đang nợ vợ chồng? Họ có yêu cầu gì trong việc giải quyết vụ án ly hôn này?
- Nếu các lời khai của vợ, chồng về tài sản có mâu thuẫn nhau thì cần phải đối chất, xác minh để có quyết định chính xác.
QUYẾT ĐỊNH SỐ 03/2003/HĐTP-DS NGÀY 25-02-2003
VỀ VỤ ÁN TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG MUA BÁN NHÀ, ĐẤT

HỘI ĐỒNG THẨM PHÁN TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO
.......................
Tại phiên toà ngày 25-02-2003 xét xử giám đốc thẩm vụ án tranh chấp hợp đồng mua bán nhà, đất giữa các đương sự:
Nguyên đơn: l. Ông Nguyễn Phi Long, sinh năm 1956.
2. Bà Ngô Thị Bé Ba, sinh năm 1957.
Cùng trú tại số 2/1A Ấp 3, xã Tân Thới Hiệp, huyện Hóc Môn, thành phố Hồ Chí Minh.
Bị đơn: Ông Nguyễn Tôn Văn, sinh năm 1951
Trú tại số 143A/6 Xô Viết Nghệ Tĩnh, phường 25, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh, hiện đang bị tạm giam.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Ông Thái Văn Tuấn, sinh năm 1958, hiện đang bị tạm giam tại trại giam T16.
2. Bà Nguyễn Thị Hiếu, sinh năm 1955; trú tại số 718F Hùng Vương, phường 13, quận 6, thành phố Hồ Chí Minh.
NHẬN THẤY:
Ngày 07 tháng 09 năm 1994, ông Nguyễn Phi Long và ông Nguyễn Tôn Văn ký hợp đồng bán nhà, đất tại số 2/1A Ấp 3, xã Tân Thới Hiệp, huyện Hóc Môn, thành phố Hồ Chí Minh, có diện tích 9.500m2 (trong đó có 9300m2 đất nông nghiệp và 200m2 đất thổ cư). Trên đất thổ cư có căn nhà cấp 3, diện tích 460m2 (gồm một trệt, một lầu) và các công trình phụ, dẫy nhà kho và chuồng heo. Căn nhà hợp thức hoá mang tên ông Long, giá 850 cây vàng.
Tại Điều 2, hợp đồng có ghi: Ông Long chịu trách nhiệm hoàn tất thủ tục sang tên để ông Văn đứng tên, đến Uỷ ban nhân dân xã Tân Thới Hiệp và Uỷ ban nhân dân huyện Hóc Môn đồng thời chuyển xuống kiến trúc sư trưởng thành phố, khi ra phiếu chuyển thì ông Long không chịu trách nhiệm về phần mua bán. Ông Văn phải chịu trách nhiệm đóng tiền chuyển mục đích sử dụng và trước bạ đất.
Khi có phiếu chuyển, ông Văn phải giao cho vợ chồng ông Long 100 cây vàng SJC. Sau khi chuyển phần đất cho ông Văn tại xã thì ông Văn có trách nhiệm giao 100 cây vàng SJC và trừ vào 100.000.000 đồng tiền mặt đã ứng trước và tiến hành uỷ quyền căn nhà cấp 3 theo hiện trạng 2/1A, Ấp 3, xã Tân Thới Hiệp, huyện Hóc Môn. Sau 90 ngày, ông Long tiến hành xong các thủ tục sang tên cho ông Văn, ông Văn phải thanh toán số tiền còn lại là 650 cây vàng SJC. Nếu các bên không thực hiện đầy đủ các điều kiện trong hợp đồng thì bị phạt cọc theo quy định pháp luật.
Thực hiện hợp đồng, ngày 20-09-1994, Công ty trách nhiệm hữu hạn thương mại Quốc Bình (TNHHTM) do ông Văn làm Giám đốc có công văn đề nghị Uỷ ban nhân dân huyện Hóc Môn chấp thuận cho Công ty chuyển nhượng lô đất 499, 505, 506 tại xã Tân Thới Hiệp (theo hợp đồng ngày 07-09-1994). Ngày 23-09-1994, Uỷ ban nhân dân huyện Hóc Môn chuyển công văn này cho Văn phòng kiến trúc sư trưởng.
Tại Công văn số 4195/UB-QLĐT ngày 21-10-1994, Uỷ ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh chấp thuận cho Công ty trách nhiệm hữu hạn thương mại Quốc Bình được sử dụng khu đất tại 2/1A, Ấp 3, xã Tân Thới Hiệp, huyện Hóc Môn, Thành phố Hồ Chí Minh.
Ngày 16-11-1994, phiếu chuyển của Văn phòng kiến trúc sư trưởng thành phố Hồ Chí Minh gửi Sở Địa chính, để Sở Địa chính phối hợp cắm mốc ranh giới khu đất tại 2/1A, Ấp 3, xã Tân Thới Hiệp, huyện Hóc Môn, Thành phố Hồ Chí Minh cho Công ty TNHHTM Quốc Bình. Ngày 08-12-1994, các cơ quan chức năng bao gồm: Đại diện Sở Địa chính, Văn phòng kiến trúc sư trưởng, UBND huyện Hóc Môn, UBND xã Tân Thới Hiệp tiến hành cắm mốc, xác định ranh giới khu đất, tại 2/1A, Ấp 3, xã Tân Thới Hiệp, huyện Hóc Môn cho Công ty TNHHTM Quốc Bình.
Tại Quyết định số 3759/QĐ-UB-QLĐT ngày 24-05-1995, Uỷ ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh công nhận quyền sử dụng đất tại 2/1A, Ấp 3, xã Tân Thới Hiệp, huyện Hóc Môn, Thành phố Hồ Chí Minh, với diện tích 4157m2 cho Công ty trách nhiệm hữu hạn thương mại Quốc Bình.
Phía ông Văn đã giao vàng cho ông Long nhiều đợt, tính đến ngày 18-10-1994, ông Long đã nhận tổng số là 260 lượng vàng SJC và tính đến ngày 20-07-1995, ông Long đã nhận tổng số là 356,6 lượng vàng SJC.
Do ông Văn không tiếp tục giao đủ số vàng 850 lượng như cam kết trong hợp đồng ngày 07-09-1994, nên ông Long có đơn đề nghị huỷ hợp đồng và buộc ông Văn phải bồi thường thiệt hại.
Ngày 31-08-1995, Toà án nhân dân huyện Hóc Môn lập biên bản hoà giải thành, giữa ông Long cùng vợ là bà Bé Ba và ông Văn, hai bên cùng thống nhất một số nội dung sau:
Huỷ hợp đồng mua bán nhà đất ngày 07-09-1994; vợ chồng ông Long trả tiền cọc cho ông Văn 356 cây vàng SJC. Sau khi nhận tiền cọc hoàn tất, ông Văn có trách nhiệm giao trả toàn bộ hồ sơ nhà cho ông Long. Hạn chót giao nhận là ngày 30-11-1995, không lý do gì để gia hạn thêm.
Trong quá trình chờ thực hiện trả tiền cọc, nếu bên ông Long có thoả thuận thuê mướn, mua bán đối với các đương sự khác, phải báo cho ông Văn biết và có sự chấp thuận.
Ngày 15-09-1995, Toà án nhân dân huyện Hóc Môn ra Quyết định số 102/QĐ-HGT, công nhận sự thoả thuận nêu trên. Sau hơn 6 tháng kể từ ngày ra quyết định công nhận hoà giải thành, ngày 08-04-1996, bà Bé Ba vợ của ông Long có đơn khiếu nại với nội dung: Do Toà án nhân dân không đưa bà vào tham gia chính thức tố tụng nên đã gây thiệt hại cho bà rất nhiều. Tại Toà án, chồng bà đồng ý huỷ hợp đồng, mà không có sự đồng ý của bà.
Tại Quyết định số 05/KNGĐ ngày 30-05-1996, Chánh án Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh kháng nghị Quyết định hoà giải số 102/QĐ-HGT ngày 15-09-1995 của Toà án nhân dân huyện Hóc Môn.
Tại Quyết định giám đốc thẩm số 12/GĐ-DS ngày 29-07-1996, Uỷ ban Thẩm phán Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định:
Huỷ quyết định hoà giải thành nêu trên; giao hồ sơ vụ án cho Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh thụ lý xét xử lại từ sơ thẩm.
Trong thời gian đang có kháng nghị của Chánh án Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh, ngày 04-07-1996, vợ chồng ông Long bán nhà, đất tại 2/1A, Ấp 3, xã Tân Thới Hiệp, huyện Hóc Môn, Thành phố Hồ Chí Minh cho ông Thái Văn Tuấn và vợ là bà Nguyễn Thị Hiếu với giá 6.000.000.000 đồng. Vợ chồng ông Tuấn đã giao cho vợ chồng ông Long 2.900.000.000 đồng.
Do vợ chồng ông Long bán nhà, đất cho 2 chủ, nên ông Tuấn đề nghị Cơ quan điều tra giải quyết và vợ chồng ông Long bị Công an Thành phố Hồ Chí Minh khởi tố vụ án hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản của công dân, bắt tạm giam ông Long, bà Bé Ba.
Tại Quyết định số 21/DSST ngày 22-03-1996, Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh tạm đình chỉ giải quyết vụ án chờ kết quả của vụ án hình sự.
Đang trong quá trình điều tra, ngày 12-05-1997, tại Phòng cảnh sát điều tra Công an thành phố Hồ Chí Minh, ông Long, bà Bé Ba, ông Tuấn, ông Văn có biên bản thoả thuận, với nội dung: Ông Tuấn mua nhà, đất tại 2/1A, Ấp 3, xã Tân Thới Hiệp, huyện Hóc Môn, TP Hồ Chí Minh của vợ chồng ông Long giá 5.070.000.000 đồng. Ông Tuấn đã giao cho vợ chồng ông Long 2.900.000.000 đồng theo hợp đồng ngày 04-07-1996, ông Tuấn giao tiếp số tiền 2.170.000.000 đồng cho ông Văn (bao gồm 356 lượng vàng và số tiền lãi của 356 lượng vàng là 370.000.000 đồng).
Tại Quyết định số 93 ngày 24-03-1998, Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Hồ Chí Minh quyết định đình chỉ điều tra đối với ông Nguyễn Phi Long và Ngô Thị Bé Ba, vì cho rằng, trong quá trình điều tra, vợ chồng ông Long đã khắc phục được thiệt hại, tức là hoàn trả lại đầy đủ trị giá tiền, vàng cho ông Văn, ông Tuấn.
Ngày 13-04-1999, vợ chồng ông Long có đơn yêu cầu Toà án tiếp tục giải quyết vụ án.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 44/DSST ngày 08-01-2001, Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh quyết định:
Xử: Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn:
1/ Huỷ hợp đồng mua bán nhà, đất tại 2/1A, Ấp 3, xã Tân Thới Hiệp, huyện Hóc Môn, Thành phố Hồ Chí Minh (nay là ấp 3 phường Thới An, Quận 12).
2/ Bác yêu cầu của ông Nguyễn Tôn Văn đòi tiếp tục thực hiện hợp đồng mua bán nhà ngày 07-09-1994, đồng thời, bác yêu cầu của ông Văn đòi phía vợ chồng ông Long phải trả lại 356 lượng vàng SJC về việc mua bán căn nhà trên.
3/ Huỷ hợp đồng mua bán nhà ngày 26-10-1996 giữa vợ chồng ông Nguyễn Phi Long và vợ Ngô Thị Bé Ba với ông Thái Văn Tuấn và bà Nguyễn Thị Hiếu tại 2/1A, Ấp 3, xã Tân Thới Hiệp, huyện Hóc Môn, Thành phố Hồ Chí Minh (nay là ấp 3 phường Thới An, Quận 12).
4/ Buộc vợ chồng ông Nguyễn Phi Long và vợ Ngô Thị Bé Ba hoàn trả cho ông Thái Văn Tuấn và bà Nguyễn Thị Hiếu 2.900.000.000 đồng (hai tỷ chín trăm triệu đồng) đã nhận trong việc mua bán căn nhà trên.
Kể từ ngày ông Tuấn, bà Hiếu có đơn xin thi hành án, nếu bà Bé Ba và ông Long chưa thanh toán số tiền trên thì hàng tháng, ông, bà còn phải trả thêm lãi theo mức lãi suất nợ quá hạn do Ngân hàng Nhà nước quy định tương ứng với thời gian thi hành án.
5/ Buộc ông Thái Văn Tuấn và bà Nguyễn Thị Hiếu cùng gia đình có trách nhiệm giao trả lại toàn bộ căn nhà và đất tại 2/1A, Ấp 3, xã Tân Thới Hiệp, huyện Hóc Môn, Thành phố Hồ Chí Minh (nay là ấp 3 phường Thới An, Quận 12) cho ông Nguyễn Phi Long và vợ Ngô Thị Bé Ba.
6/ Buộc ông Thái Văn Tuấn và bà Nguyễn Thị Hiếu có trách nhiệm giao trả toàn bộ giấy tờ nhà tại 2/1A, Ấp 3, xã Tân Thới Hiệp, huyện Hóc Môn, Thành phố Hồ Chí Minh (nay là ấp 3 phường Thới An, Quận 12) cho ông Nguyễn Phi Long và vợ Ngô Thị Bé Ba.
7/ Tiếp tục duy trì cho thi hành Quyết định số 41/QĐ-KBTA ngày 04-10-1999 của Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh.
Việc giao nhận giấy tờ nhà, đất và tiền được tiến hành cùng một lúc, trong thời hạn 3 tháng ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật.
Thi hành tại Phòng Thi hành án Thành phố Hồ Chí Minh
Án phí dân sự sơ thẩm bà Bé Ba và ông Long chịu 29.900.000 đồng được trừ vào số tiền tạm ứng 14.000.000 đồng theo biên lai thu số 125 ngày 15-06-1995 còn phải chịu 15.900.000 đồng; ông Văn chịu 28.708.800 đồng; ông Tuấn, bà Hiếu chịu 29.270.000 đồng.
Ngày 13-01-2001, ông Nguyễn Tôn Văn có đơn kháng cáo.
Ngày 12-0l-2001, ông Thái Văn Tuấn có đơn kháng cáo.
Tại Quyết định số 234/QĐ-KNDS ngày 22-01-2001, Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Hồ Chí Minh kháng nghị Bản án số 44/DSST ngày 08-01 - 2001 của Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh.
Tại Bản án số 116/PTDS ngày 21-05-2001, Toà Phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định: Y án sơ thẩm.
Ngày 29-05-2001, ông Tuấn có đơn khiếu nại.
Tại Công văn số 634 ngày 14-08-2001, Viện Kiểm sát xét xử phúc thẩm tại thành phố Hồ Chí Minh kiến nghị Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao kháng nghị Bản án phúc thẩm số 116/PTDS ngày 21-05-2001 của Toà Phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh.
Tại Quyết định số 75/KN-VKSTC-KSXXDS ngày 19-09-2002, Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao kháng nghị Bản án phúc thẩm số 116/ PTDS ngày 21-05-2001 của Toà Phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh nêu trên, đề nghị Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao xét xử giám đốc thẩm theo hướng huỷ Bản án sơ thẩm số 44/DSST ngày 08-01-2001 của Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh và Bản án phúc thẩm số 116/PTDS ngày 21-05- 2001 của Toà Phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh; Giao hồ sơ cho Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh điều tra xét xử sơ thẩm theo thủ tục chung.
XÉT THẤY
Tại Điều 2 hợp đồng mua bán ngày 07-09-1994 có ghi: Vợ chồng ông Long chịu trách nhiệm hoàn tất thủ tục sang tên nhà đất cho ông Văn, đến Uỷ ban nhân dân xã Tân Thới Hiệp và Uỷ ban nhân dân huyện Hóc Môn, đồng thời chuyển xuống kiến trúc sư trưởng thành phố, khi ra phiếu chuyển thì vợ chồng ông Long không còn trách nhiệm về phần mua bán. Sau 90 ngày, bên vợ chồng ông Long tiến hành xong các thủ tục sang tên cho ông Văn, tính đến ngày 14-01-1995 (ngày gia hạn hợp đồng) các bên phải hoàn thành nghĩa vụ nêu trong hợp đồng.
Thực tế ngày 16-11-1994, Văn phòng kiến trúc sư trưởng thành phố Hồ Chí Minh đã có phiếu chuyển cắm mốc gửi Sở Địa chính, để Sở Địa chính phối hợp cắm mốc ranh giới khu đất, tại 2/1A, Ấp 3, xã Tân Thới Hiệp, huyện Hóc Môn, Thành phố Hồ Chí Minh cho Công ty TNHHTM Quốc Bình và ngày 24-05-1995, Uỷ ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh có Quyết định số 3759 giao đất cho Công ty TNHHTM Quốc Bình. Đối chiếu với cam kết trên thì tuy hoàn thành về thủ tục có chậm nhưng không phải do lỗi của ông Long. Do vậy, ông Long không vi phạm những cam kết trong hợp đồng. Trong khi đó, phía ông Văn tính đến ngày 14-01-1995 (ngày gia hạn hợp đồng), thì ông Văn mới giao cho vợ chồng ông Long được 260 lượng vàng, sau đó, ông Văn giao tiếp nhiều đợt, tính đến ngày 20-07-1995, thì tổng số vàng ông Văn đã giao cho ông Long 356,6 lượng vàng. Như vậy, phía ông Văn đã vi phạm cam kết trong hợp đồng ngày 07-09-1994 và bản cam kết ngày 14-10-1994, nên việc ông Long đề nghị huỷ hợp đồng mua bán nêu trên là hợp pháp. Theo cam kết của các bên, bên nào vi phạm thì phải chịu phạt cọc. Tuy nhiên, tại các lời khai của hai bên không thống nhất về khoản tiền đặt cọc, đồng thời không xuất trình được tài liệu chứng minh số tiền đặt cọc là bao nhiêu? Nếu căn cứ vào giấy biên nhận ngày 26-08-1994, thì số tiền đặt cọc ít nhất cũng là 100.000.000 đồng. Song, để có căn cứ chắc chắn kết luận về số tiền cọc thì cần xác minh làm rõ thêm.
Theo hợp đồng mua bán ngày 04-07-1996 thì vợ chồng ông Long bán cho vợ chồng ông Tuấn nhà, đất tại 2/1A, Ấp 3, xã Tân Thới Hiệp, với giá 6.000.000.000 đồng. Ông Tuấn đã giao cho vợ chồng ông Long 2.900.000.000 đồng và cam kết giữa vợ chồng ông Long, ông Tuấn, ông Văn tại cơ quan điều tra ngày 12-05-1997, về việc vợ chồng ông Long bán nhà, đất tại 2/1A, Ấp 3, xã Tân Thới Hiệp, huyện Hóc Môn, thành phố Hồ Chí Minh cho ông Tuấn, với giá 5.070.000.000 đồng. Trong khi đó, nhà, đất này đang có tranh chấp giữa vợ chồng ông Long và ông Văn, đang được Toà án nhân dân các cấp giải quyết.
Mặt khác, theo hợp đồng mua bán nhà, đất lập ngày 04-07-1996 thì giá 6.000.000.000 đồng, nhưng khi lập cam kết ngày 12-05-1997 thì giá nhà đất chỉ có 5.070.000.000đồng. Biên bản cam kết được lập sẵn theo ý ông Tuấn, ông Văn, còn vợ chồng ông Long lúc đó đang bị tạm giam muốn nhanh chóng để được ra tù. Vì vậy, Toà án cấp sơ thẩm và Toà án cấp phúc thẩm huỷ hợp đồng và cam kết nói trên và buộc vợ chồng ông Long trả cho vợ chồng ông Tuấn 2.900.000.000 đồng là đúng.
Theo ông Tuấn khai, sau khi ký hợp đồng mua bán ngày 04-07-1996, ông Tuấn đã giao cho vợ chồng ông Long 2.900.000.000 đồng, tiếp đó, thực hiện cam kết ngày 12-05- 1997, ông Tuấn giao tiếp cho ông Văn 2.170.000.000 đồng cho ông Văn qua Ngân hàng Nam Đô. Trong hồ sơ chỉ có 2 lời khai của ông Văn cho rằng, ông Tuấn đã chuyển cho ông số tiền này qua Ngân hàng Nam Đô. Tại Công văn số 634 ngày 14-08-2001 của Viện kiểm sát xét xử phúc thẩm tại thành phố Hồ Chí Minh thì có biên bản lập vào ngày 29-07-1997, với nội dung: ông Tuấn thế chấp cho Ngân hàng Nam Đô căn nhà tại 2/1A, Ấp 3, xã Tân Thới Hiệp, huyện Hóc Môn để đảm bảo số nợ 2. 170.000.000 đồng thay cho ông Văn, nhưng trong hồ sơ không thấy có biên bản này. Toà án cấp sơ thẩm, Toà án cấp phúc thẩm chưa xác minh các tình tiết nói trên và chưa đề cập đến số tiền 2.170.000.000 đồng là chưa xem xét vụ án một cách toàn diện. Vì vậy, cần huỷ Bản án số 44/ DSST ngày 08-01-2001 của Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh và Bản án phúc thẩm số 116/ DSPT ngày 21-05-2001 của Toà Phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh, để điều tra, xét xử lại từ giai đoạn sơ thẩm theo hướng giải quyết đồng thời số tiền 2. 170.000.000 đồng mà ông Tuấn đang khiếu nại và số tiền đặt cọc mà vợ chồng ông Long với ông Tuấn thoả thuận là bao nhiêu.
Bởi các lẽ trên và căn cứ vào khoản 4 Điều 77 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự,
QUYẾT ĐỊNH:
1. Huỷ Bản án dân sự sơ thẩm số 44/DSST ngày 08-01-2001 của Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh và Bản án phúc thẩm số 116/PTDS ngày 21-05-2001 của Toà Phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh.
2. Giao hồ sơ vụ án trên cho Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh điều tra, xét xử sơ thẩm theo thủ tục chung.

Lý do Bản án sơ thẩm và Bản án phúc thẩm bị huỷ:
Trong vụ án cụ thể này, việc chấp nhận yêu cầu huỷ hợp đồng mua bán nhà, đất giữa vợ chồng ông Nguyễn Phi Long với ông Nguyễn Tôn Văn là có căn cứ. Tuy nhiên Toà án cấp sơ thẩm và Toà án cấp phúc thẩm đã không xác định rõ số tiền đặt cọc là bao nhiêu để Quyết định số tiền đặt cọc mà bên vi phạm hợp đồng phải chịu.
Các Toà án cũng chưa xác minh và chưa giải quyết số tiền 2.170.000.000 đồng mà ông Thái Văn Tuấn nêu đã chuyển cho ông Nguyễn Tôn Văn trong việc ông cam kết mua nhà của vợ chồng ông Nguyễn Phi Long là chưa giải quyết vụ án một cách toàn diện theo yêu cầu của các đương sự trong vụ án.

QUYẾT ĐỊNH SỐ 05/2003/HĐTP-DS NGÀY 25-02-2003
VỀ VỤ ÁN TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT

HỘI ĐỒNG THẨM PHÁN TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO
.....................
Tại phiên toà ngày 25-02-2003 xét xử giám đốc thẩm vụ án dân sự về tranh chấp quyền sử dụng đất giữa các đương sự :
Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Thu, sinh năm 1959; trú tại ấp Long Hoà, xã Long Thuận, huyện Bến Cầu,tỉnh Tây Ninh;
Bị đơn: Ông Nguyễn Văn Sư, sinh năm 1936; trú tại ấp Thuận Lâm, xã Lợi Thuận, huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh,
NHẬN THẤY :
Theo bà Nguyễn Thị Thu trình bày: Năm 1984, cụ Nguyễn Thị Tắc (mẹ của ông Nguyễn Văn Sư) bán cho bà Thu một phần đất thổ cư có diện tích 1.000m2 (mặt đường dài 25m, sâu 40m) có chỉ ranh đất. Hai bên thoả thuận giá 15.000đồng, nhưng cụ Tắc yêu cầu giao bằng 3 bao đạm Urê, việc mua bán không làm giấy tờ. Sau khi mua đất, bà Thu có đổ 7 xe đất để làm nền nhà. Năm 1986, bà Thu được cử đi học 3 năm tại Thành phố Hồ Chí Minh. Năm 1989, lúc bà Thu đi học trở về thì được biết Nhà nước cho phép chuyển quyền sử dụng đất, nên mới làm giấy mua bán, nhưng cụ Tắc đã chết năm 1987. Vì vậy, bà Thu đã viết giấy sang nhượng đất để ông Nguyễn Văn Xi (con cụ Tắc) xác nhận và được Uỷ ban nhân dân xã Lợi Thuận (nơi có đất sang nhượng) thị thực ngày 31-08-1989. Năm 1990, ông Mừng (con trai cả cụ Tắc) đến gặp bà Thu xin chuộc lại đất, nhưng bà Thu không đồng ý. Năm 1993, ông Nguyễn Văn Sư thuê người hốt đất của bà Thu đã đổ trước ra lề đường và đổ đất khác vào, bà Thu đã đề nghị Uỷ ban nhân dân xã giải quyết nhưng không có kết quả. Năm 1994, ông Sư đã kê khai và được cấp Giấy chứng nhận 9.127m2 trong đó có cả phần đất đang tranh chấp. Năm 1997 và 1998 ông Sư tiếp tục đổ thêm đất vào phần đất nêu trên. Ngày 25-07-1998, bà Thu khởi kiện yêu cầu ông Sư trả bà phần đất đã mua của cụ Tắc.
Ông Sư thì cho rằng, mẹ của ông không bán đất cho bà Thu mà do ông Xi bán. Sau khi mẹ của ông chết (1987) thì năm 1990, anh em ông đã phân chia đất trong đó có phần đang tranh chấp, nên không đồng ý yêu cầu của bà Thu.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 16/DSST ngày 30-10-1998 Toà án nhân dân huyện Bến Cầu quyết định :
- Buộc ông Nguyễn Văn Sư giao trả bà Nguyễn Thị Thu 1.000m2 đất có tứ cận Đông và Tây giáp đất ông Sư 40m, Nam giáp lộ đá đỏ 25m, Bắc giáp đất ông Sư 25m thuộc thửa 67 diện tích 2.014m2 và thửa 68 diện tích 1.260m2, tờ bản đồ số 5 xã Lợi Thuận và Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số C116253 của Uỷ ban nhân dân huyện Bến Cầu cấp cho ông Sư ngày 15-08-1994.
- Kiến nghị Uỷ ban nhân dân huyện Bến Cầu thu hồi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông Sư và điều chỉnh lại diện tích đất của ông Sư và bà Thu nêu trên.
Ngày 03-11-1998, ông Sư kháng cáo và ngày 25-11-1998 trong tờ trình bổ sung ông Sư cho rằng: đất trên là di sản thừa kế của cha ông, việc mua bán giữa mẹ ông với bà Thu (nếu có) hoặc giữa ông Xi với bà Thu đều trái pháp luật, cần phải huỷ bỏ.
Tại Bản án dân sự phúc thẩm số 13/DSPT ngày 26-12-1998, Toà án nhân dân tỉnh Tây Ninh quyết định y án sơ thẩm.
Ông Sư khiếu nại Bản án phúc thẩm trên.
Tại Kháng nghị số 79/DS ngày 31-05-2000, Phó Chánh án Toà án nhân dân tối cao cho rằng, giấy sang nhượng đất ruộng giữa cụ Tắc và bà Thu chỉ là giấy do ông Xi sau này lập để xin chính quyền xác nhận khi cụ Tắc đã chết chứ không phải là giấy mua bán giữa cụ Tắc với bà Thu. Mặt khác, nếu có việc sang nhượng vào năm 1984 cũng là vô hiệu vì vi phạm Luật Đất đai năm 1987.Nhưng hai cấp Toà án đã xử công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và buộc ông Sư phải giao đất cho bà Thu là không đúng.
Ngày 05-07-2000, Đội Thi hành án huyện Bến Cầu có Công văn số 32/CV.THA nêu: Ngày 02-04-1999 đã cưỡng chế thi hành án giao đất cho bà Thu.
Tại Quyết định giám đốc thẩm số 214 ngày 20-09-2000, Toà Dân sự Toà án nhân dân tối cao đã huỷ bản án sơ thẩm và phúc thẩm giao hồ sơ vụ án cho Toà án nhân dân tỉnh Tây Ninh điều tra xét xử sơ thẩm.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 38/DSST ngày 28-09-2001, Toà án nhân dân tỉnh Tây Ninh quyết định :
1. Chấp nhận yêu cầu của bà Nguyễn Thị Thu yêu cầu ông Nguyễn Văn Sư giao 1.000m2 đất.
Buộc ông Nguyễn Văn Sư giao trả bà Nguyễn Thị Thu 1.000m2 đất toạ lạc tại ấp Thuận Chánh, xã Lợi Thuận, huyện Bến Cầu, có tứ cận : Đông giáp đất bà Tắc 40m, Tây giáp đất ông Hoa 40m, Nam giáp lộ đá đỏ 25m, Bắc giáp đất bà Tắc 25m; thuộc thửa số 67 diện tích 2.014m2 và thửa số 68 có diện tích 1.260m2, theo tờ bản đồ số 5 và Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số C116253 ngày 15-08-1994 do Uỷ ban nhân dân huyện Bến Cầu cấp cho ông Sư.
Buộc bà Thu phải thanh toán cho ông Sư chi phí tiền đổ đất 6.120.000đồng.
Kiến nghị Uỷ ban nhân dân huyện Bến Cầu thu hồi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông Sư để điều chỉnh lại diện tích đất của ông Sư và bà Thu cho phù hợp với quyết định này.
2. Án phí sơ thẩm dân sự: Ông Sư phải chịu 142.000đồng, bà Thu phải chịu 306.000đồng.
Ngày 08-10-2001, ông Sư kháng cáo cho rằng Toà án cấp sơ thẩm không đưa ông Xi vào tham gia tố tụng là vi phạm. Đề nghị xét xử phúc thẩm theo hướng kháng nghị nêu trên.
Ngày 13-10-2001, bà Thu kháng cáo không đồng ý trả cho ông Sư 6.120.000đồng tiền đổ đất.
Tại Bản án dân sự phúc thẩm số 91/DSPT ngày 13-05-2002, Toà Phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại Thành phố Hồ Chí Minh giữ nguyên quyết định của Bản án dân sự sơ thẩm số 38/DSST ngày 28-09-2001 của Toà án nhân dân tỉnh Tây Ninh.
Ngày 10-06-2002, ông Sư có đơn khiếu nại Bản án phúc thẩm trên.
Ngày 09-10-2002, Viện Kiểm sát xét xử phúc thẩm Viện Kiểm sát nhân dân tối cao tại Thành phố Hồ Chí Minh có Công văn số 1088/VPT3/2002 đề nghị Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao kháng nghị Bản án phúc thẩm trên.
Tại Kháng nghị số 03/KN-VKSTC-KSXXDS ngày 08-01-2003 Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao đề nghị Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao giải quyết lại vụ án theo hướng huỷ Bản án phúc thẩm, giao hồ sơ vụ án cho Toà Phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử lại phúc thẩm.
XÉT THẤY:
Bà Nguyễn Thị Thu trước sau đều khai năm 1984 cụ Nguyễn Thị Tắc có bán cho bà 1.000m2 đất tại xã Lợi Thuận, huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh với giá 15.000đồng, do yêu cầu của bên bán nên bà Thu đã trả bằng 3 bao đạm Urê; lúc mua bán không làm giấy tờ. Năm 1987, cụ Tắc chết. Năm 1989, bà Thu mới làm giấy sang nhượng để ông Nguyễn Văn Xi (con cụ Tắc) ký chứng kiến việc mua bán đó và được Uỷ ban nhân dân xã Lợi Thuận xác nhận ngày 31-08-1989.
Ông Xi xác nhận có ký giấy sang nhượng đất do bà Thu xuất trình, nhưng lúc thì khai mẹ ông cho ông bán đất để lo thuốc thang cho mẹ của ông, (BL 20), lúc lại khai năm 1984, mẹ ông đã bán đất cho bà Thu.Do thời điểm bán đất còn chế độ bao cấp, mua đạm Urê khó khăn, nên mẹ ông đã đồng ý nhận 3 bao Urê; việc giao nhận đất và đạm Urê có ông chứng kiến. Do chính sách lúc đó phải đưa đất vào tập đoàn, sợ Nhà nước lấy đất cấp cho người khác nên mẹ ông đã bán đất cho bà Thu (BL 74,75).
Từ năm 1982 đến năm 1986, cụ Tắc và ông Xi cũng đã 4 lần sang nhượng đất cho 4 người là: Ông Trương Văn Dung, bà Trương Thị Thôi, ông Bùi Văn Quận và ông Hồ Văn Sương; các ông bà nêu trên đều khai cụ Tắc có bán đất cho bà Thu (BL 11, 13, 15, 17).
Ngày 24-12-1998, tại trụ sở Viện kiểm sát nhân dân huyện Bến Cầu, ông Nguyễn Văn Mừng (anh ông Xi) khai: lúc mẹ ông còn sống, ông có nghe về việc bán đất cho bà Thu, sau đó, ông có đến gặp bà Thu để dàn xếp bồi hoàn cho êm xuôi. Cũng tại biên bản đó, chính ông Sư khai khoảng năm 1990, ông cùng con rể ông Hổi (ông Hổi là anh ông Sư) có đến nhà bà Thu gặp mẹ bà Thu yêu cầu thối lại 3 bao Urê để lấy lại đất nhưng mẹ bà Thu không đồng ý (BL 77). Như vậy, có đủ cơ sở xác định năm 1984, cụ Tắc đã nhượng 1.000m2 đất cho bà Thu với giá 15.000 đồng, cụ Tắc đã nhận đủ tiền và giao đất cho bà Thu sử dụng. Đến khi cụ Tắc chết, (1987) các con của cụ Tắc không ai khiếu nại về việc mua bán đó. Như vậy, việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa cụ Tắc với bà Thu diễn ra trước ngày 15-10-1993. Theo hướng dẫn tại điểm 4 mục II Thông tư liên ngành số 03/TTLN ngày 10-08-1996 của Toà án nhân dân tối cao,Viện Kiểm sát nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng pháp luật theo Nghị quyết của Quốc hội về việc thi hành Bộ luật Dân sự và Điều 56 Pháp lệnh Hợp đồng dân sự, thì đã hết thời hiệu khởi kiện về việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Mặt khác, năm 1984, sau khi cụ Tắc nhượng đất cho bà Thu, thì bà Thu đã trực tiếp quản lý, sử dụng và đổ thêm đất để làm nền nhà. Năm 1993, ông Sư mới đến tranh chấp với bà Thu, hốt đất của bà Thu đã đổ trước đây đi, đổ đất khác vào và chiếm lại đất. Do đó, năm 1994, Uỷ ban nhân dân huyện Bến Cầu lại cấp cho ông Sư Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của cụ Tắc đã bán cho bà Thu cũng là sai. Vì vậy, Toà án cấp phúc thẩm đã xử chấp nhận yêu cầu đòi đất của bà Thu; buộc ông Sư trả đất cho bà Thu; bà Thu thanh toán trả ông Sư tiền đổ đất; kiến nghị Uỷ ban nhân dân huyện Bến Cầu thu hồi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông Sư để điều chỉnh lại diện tích đất của ông Sư và bà Thu cho phù hợp là có căn cứ.
Vì lẽ trên, căn cứ vào khoản 1 Điều 77 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự,
QUYẾT ĐỊNH :
Giữ nguyên Bản án dân sự phúc thẩm số 91/DSPT ngày 13-05-2002 của Toà Phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh về vụ án tranh chấp quyền sử dụng đất giữa nguyên đơn là bà Nguyễn Thị Thu với bị đơn là ông Nguyễn Văn Sư.

Lý do của việc không chấp nhận Kháng nghị của Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao
Trong vụ án này có đủ cơ sở để xác định năm 1984 cụ Nguyễn Thị Tắc đã bán 1.000m2 đất cho bà Nguyễn Thị Thu. Hai bên đã giao nhận đủ tiền, đất cho nhau. Năm 1987, cụ Tắc chết, các con của cụ không có khiếu nại gì về việc đó. Năm 1993, ông Nguyễn Văn Sư (con trai cụ Tắc) mới đến tranh chấp với bà Thu. Từ 1998 đến 2002, qua bốn lần xét xử, các Toà án đều chấp nhận việc mua bán giữa cụ Tắc và bà Thu. Việc xét xử như vậy của các Toà án là đúng. Hơn nữa, theo Nghị quyết của Quốc hội về việc thi hành Bộ luật Dân sự và Điều 56 Pháp lệnh Hợp đồng dân sự thì đã hết thời hiệu khởi kiện về việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất (thời hiệu khởi kiện là 3 năm kể từ khi xảy ra tranh chấp); do đó, không có căn cứ để chấp nhận Kháng nghị của Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao.
QUYẾT ĐỊNH SỐ 06/2003/HĐTP-DS NGÀY 26-02-2003
VỀ VỤ ÁN ĐÒI TÀI SẢN LÀ NHÀ, ĐẤT

HỘI ĐỒNG THẨM PHÁN TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO
.......................
Tại phiên toà ngày 26-02-2003 xét xử giám đốc thẩm vụ án dân sự về đòi tài sản là nhà, đất giữa các đương sự :
Nguyên đơn: 1- Ông Lâm A Dưỡng, sinh năm 1935;
2- Bà Phùng A Kíu, sinh năm 1938; uỷ quyền cho con là chị Lâm
Thị Mai, sinh năm 1970;
Cùng trú tại: tổ 9, ấp Phú Mỹ, xã Hiệp Hoà, huyện Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa -Vũng Tàu.
Bị đơn: Bà Nguyễn Thị Thu Hương, sinh năm 1950; trú tại số 232F, đường số 4 cư xá Đô Thành, phường 4, quận 3, thành phố Hồ Chí Minh; uỷ quyền cho anh Trần Minh Quí, sinh năm 1967 trú tại số 232F Nguyễn Đình Chiểu, phường 4, quận 3, thành phố Hồ Chí Minh
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Lê Đức Bi, sinh năm 1971; trú tại số 70A Liên Hiệp, phường 6, thành phố Vũng Tàu.
NHẬN THẤY:
Căn nhà số 125/9 Phạm Hồng Thái, phường 7, thành phố Vũng Tàu nguồn gốc là của ông Lâm A Dưỡng được Thị trưởng Vũng Tàu cấp đất theo chế độ bệnh binh vào ngày 25-05-1970. Sau đó, ông Lâm A Dưỡng và vợ là bà Phùng A Kíu đã xây cất 1 căn nhà cấp 4 diện tích 83m2 để ở.
Năm 1975, vợ chồng ông Dưỡng chuyển về vùng kinh tế mới ở huyện Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa -Vũng Tàu. Ngày 22-07-1975, ông Lâm A Dưỡng làm giấy uỷ quyền cho ông Mã Văn Liên được đứng tên làm chủ căn nhà, giấy uỷ quyền có xác nhận của chính quyền phường Thắng Nhì. Sau đó, ngày 13-09-1976, ông Mã Văn Liên kê khai và đứng tên chủ quyền nhà; trong bản kê khai nhà, ông Liên có viết là mua nhà 125/9 Phạm Hồng Thái với giá 600 đồng tiền mới. Năm 1980, ông Mã Văn Liên thuận tình ly hôn với vợ là bà Nguyễn Thị Giao. Tại Quyết định số 32/DS ngày 15-09-1980 Toà án nhân dân Đặc khu Vũng Tàu - Côn Đảo quyết định: Công nhận thuận tình ly hôn giữa ông Liên và bà Giao; công nhận sự thoả thuận về việc chia tài sản chung vợ chồng; bà Nguyễn Thị Giao được chia căn nhà số 125/9 Phạm Hồng Thái, thành phố Vũng Tàu. Ngày 11-11-1981, bà Giao bán căn nhà 125/9 Phạm Hồng Thái cho anh Đỗ Hoàng Oanh, cán bộ Tổng cục Hậu cần, để làm chỗ ăn ở cho các anh em trong tổ công tác. Ngày 23-04-1984, anh Đỗ Hoàng Oanh uỷ quyền cho anh Phùng Thái Hoà đứng ra bán căn nhà nêu trên. Ngày 24-04-1984, anh Hoà bán nhà cho ông Thái Văn Phương, trú tại số 228 bến Vân Đồn, thành phố Hồ Chí Minh, với giá 130.000 đồng. Ngày 11-12-1991, ông Phương lại bán nhà cho anh Lê Đức Bi với giá 8.000.000 đồng. Năm 1993, anh Bi bán nhà cho bà Nguyễn Thị Thu Hương, bà Hương đã được Uỷ ban nhân dân thành phố Vũng Tàu cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà đất số 345 ngày 19-03-1993.
Bà Phùng A Kíu trình bày: sau khi gia đình bà đi vùng kinh tế mới ở huyện Xuyên Mộc, căn nhà số 125/9 Phạm Hồng Thái, thành phố Vũng Tàu, bà không gửi ai trông giữ, không uỷ quyền cho ai sử dụng, Nhà nước cũng không quản lý. Trong những năm từ 1975 đến 1989, bà vẫn thường xuyên về thăm nhà cũ. Cho đến năm 1990, có người báo cho bà biết nhà của vợ chồng bà có người khác chiếm dụng. Bà trở về đòi nhà, khiếu nại đến chính quyền địa phương thì được biết nhà đã sang bán cho rất nhiều người. Hiện nay, căn nhà do bà Nguyễn Thị Thu Hương sở hữu. Nay, ông Dưỡng và bà Kíu yêu cầu bà Hương phải trả lại căn nhà số 125/9 Phạm Hồng Thái, phường 7, thành phố Vũng Tàu hoặc bà Hương phải bồi hoàn cho bà 70 lượng vàng.
Bà Nguyễn Thị Thu Hương khai rằng: Vào tháng 03-1993, bà mua nhà đất ở số 125/9 Phạm Hồng Thái, phường 7, thành phố Vũng Tàu của anh Lê Đức Bi với giá 78 lượng vàng. Khi mua nhà đất, bà sinh sống ở thành phố Hồ Chí Minh nên việc làm thủ tục, giấy tờ chuyển nhượng đều do anh Bi thực hiện, bà không biết nguồn gốc nhà đất, thấy đủ giấy tờ thì bà mua. Sau khi mua nhà, bà đã sang tên trước bạ và đã được Uỷ ban nhân dân thành phố Vũng Tàu cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà đất ngày 19-03-1993. Vì vậy, bà không đồng ý trả nhà đất cho nguyên đơn.
Anh Lê Đức Bi khai rằng: nhà đất tại số 125/9 Phạm Hồng Thái, thành phố Vũng Tàu do anh mua của anh Thái Văn Phương; hai bên mua bán có lập giấy tờ, anh đã được Sở Xây dựng đặc khu Vũng Tàu-Côn Đảo cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà đất vào ngày 14-12-1991. Khi mua nhà đất này, anh không biết nguồn gốc nhà đất là của ông Dưỡng và bà Kíu; sau khi bán nhà, anh Phương đã chuyển đi nơi khác sinh sống, nay không rõ anh Phương ở đâu ? về yêu cầu đòi nhà của ông Dưỡng và bà Kíu, anh cho rằng, anh không có sự liên quan vì nhà đất anh mua có giấy tờ hợp pháp.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 03/DSST ngày 26-04-2000, Toà án nhân dân tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu quyết định :
Bác yêu cầu của ông Lâm A Dưỡng và bà Phùng A Kíu đối với bà Nguyễn Thị Thu Hương về việc đòi lại nhà, đất số 125/9 đường Phạm Hồng Thái, phường 7, thành phố Vũng Tàu.
Ông Lâm A Dưỡng và bà Phùng A Kíu phải nộp 50.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm; miễn án phí dân sự có giá ngạch cho ông Dưỡng, bà Kíu.
Ngày 08-05-2000, ông Lâm Văn Đoan là người được nguyên đơn uỷ quyền tham gia tố tụng tại phiên toà sơ thẩm có đơn kháng cáo với lý do: án sơ thẩm xử chưa đúng, chưa mang tính khách quan gây thiệt hại đến quyền lợi hợp pháp của nguyên đơn, vì không có việc ông Dưỡng uỷ quyền cho ông Mã Văn Liên đứng tên làm chủ căn nhà.
Tại Bản án dân sự phúc thẩm số 156/DSPT ngày 04-06-2001, Toà Phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh quyết định :
- Bác yêu cầu của ông Lâm A Dưỡng, bà Phùng A Kíu đối với bà Nguyễn Thị Thu Hương về việc đòi lại tài sản là căn nhà số 125/9 Phạm Hồng Thái, phường 7, thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu.
- Án phí: Ông Dưỡng, bà Kíu phải nộp 50.000đồng án phí dân sự sơ thẩm và 50.000đồng án phí dân sự phúc thẩm, cộng là 100.000 đồng. Miễn án phí theo giá ngạch đối với ông Dưỡng, bà Kíu. Hoàn trả ông Dưỡng, bà Kíu tiền tạm ứng án phí theo phiếu thu 006159 ngày 22-05-1999.
Sau khi xét xử phúc thẩm, ông Lâm Văn Đoan đại diện cho bà Kíu và ông Dưỡng có đơn khiếu nại yêu cầu bà Hương phải trả nhà đất. Viện Kiểm sát xét xử phúc thẩm Viện Kiểm sát nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh có Công văn số 570 ngày 18-07-2001 đề nghị Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao kháng nghị Bản án phúc thẩm trên.
Tại Quyết định số 20/KN-DS ngày 25-04-2002, Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao đã kháng nghị Bản án phúc thẩm nêu trên với nhận định :
"Nhà đất toạ lạc số 125/9 Phạm Hồng Thái thuộc quyền sở hữu và sử dụng của ông Lâm A Dưỡng và bà Phùng A Kíu. Theo tài liệu xác minh của Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu tại Sở Xây dựng tỉnh thể hiện “ đơn xin phép được uỷ quyền” lập ngày 22-07-1975 có xác nhận của Uỷ ban nhân dân cách mạng khóm Chùa Ông và Uỷ ban nhân dân cách mạng phường Thắng Nhì cùng ngày với nội dung ông Dưỡng uỷ quyền cho ông Mã Văn Liên được đứng tên làm chủ nhưng không có bản chính, chỉ có duy nhất một bản photo và không có chữ ký của người được uỷ quyền là ông Mã Văn Liên. Bà Kíu trước sau khẳng định, khi vợ chồng bà đi vùng kinh tế mới tại Xuyên Mộc, nhà 125/9 không gửi ai, chữ ký “Dưỡng” trong giấy uỷ quyền lập ngày 22-07-1975 không phải của ông Dưỡng, vì ông Dưỡng là người không biết chữ, nay bà đề nghị được giám định chữ ký trên. Hơn nữa, tại “Mẫu kê khai biển số nhà” về căn nhà 125/9 do ông Liên đứng tên kê khai nhà có nguồn gốc mua với giá 600đồng (tiền mới), nhưng trong hồ sơ lưu trữ tại Sở Xây dựng không có một văn bản nào thể hiện việc ông Dưỡng và ông Liên mua bán căn nhà nói trên. Quyết định công nhận thuận tình ly hôn giữa ông Liên và bà Giao là đúng pháp luật. Nhưng về tài sản lại giao cho bà Nguyễn Thị Giao là không đúng vì vợ chồng ông Liên và bà Giao không phải là chủ sở hữu. Do vậy, việc mua bán nhà 125/9 Phạm Hồng Thái của những người sau này đều bị vô hiệu và việc Uỷ ban nhân dân tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu cho phép được chuyển nhượng nhà 125/9 và công nhận quyền sở hữu nhà cho bà Giao, ông Bi, bà Hương đều vi phạm pháp luật. Mặt khác, quá trình điều tra, xét xử các cấp Toà án không đưa ông Liên, bà Giao vào tham gia tố tụng là thiếu sót”.
Đề nghị Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao xử huỷ Bản án dân sự sơ thẩm số 03 ngày 26-04-2000 của Toà án nhân dân tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu và Bản án dân sự phúc thẩm số 156/PTDS ngày 14-06-2001 của Toà Phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh. Giao hồ sơ vụ án cho Toà án nhân dân tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu điều tra, xét xử sơ thẩm lại.
XÉT THẤY:
Nguồn gốc nhà, đất số 125/9 Phạm Hồng Thái, thành phố Vũng Tàu là của ông Lâm A Dưỡng. Tại giấy uỷ quyền ghi tên ông Dưỡng đề ngày 22-07-1975, ông Dưỡng uỷ quyền cho ông Mã Văn Liên được đứng tên làm chủ căn nhà trên; cuối năm 1975, gia đình ông Dưỡng chuyển đến vùng kinh tế mới ở huyện Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu. Năm 1980, ông Mã Văn Liên kê khai và sang tên trước bạ là chủ sở hữu căn nhà số 125/9 Phạm Hồng Thái. Năm 1980, ông Mã Văn Liên thuận tình ly hôn với vợ là bà Nguyễn Thị Giao. Tại Quyết định số 32/DS ngày 15-09-1980, Toà án nhân dân Đặc khu Vũng Tàu-Côn Đảo quyết định: Công nhận thuận tình ly hôn giữa ông Liên và bà Giao; công nhận sự thoả thuận về việc chia tài sản chung vợ chồng, bà Nguyễn Thị Giao được chia căn nhà số 125/9 Phạm Hồng Thái. Ngày 11-11-1981, bà Giao bán nhà số 125/9 Phạm Hồng Thái cho anh Đỗ Hoàng Oanh; ngày 23-04-1984, anh Oanh uỷ quyền cho anh Phùng Thái Hoà đứng ra bán căn nhà nêu trên; ngày 24-04-1984, anh Hoà bán nhà cho ông Thái Văn Phương; ngày 11-12-1991, ông Phương bán nhà cho anh Lê Đức Bi; tháng 3 năm 1993, anh Bi bán nhà cho bà Nguyễn Thị Thu Hương; ngày 19-03-1993, bà Hương được Uỷ ban nhân dân thành phố Vũng Tàu cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu căn nhà 125/9 Phạm Hồng Thái. Bà Kíu khai nhận, khi đi vùng kinh tế mới bà khoá cửa nhà không uỷ quyền nhà, không gửi nhà cho ai và thỉnh thoảng bà có về thăm nhà cũ ở thành phố Vũng Tàu, trong khi đó, căn nhà 125/9 Phạm Hồng Thái được chuyển dịch, mua bán qua nhiều người và nhiều hộ gia đình ở đó trong một thời gian dài, nhưng bà Kíu không có bằng chứng gì thể hiện sự phản đối các hộ ở và chuyển dịch quyền sở hữu nhà cho nhau. Do đó, không có căn cứ chấp nhận lời khai của bà Kíu. Mặt khác, sau khi có Quyết định số 32/DS ngày 15-09-1980 của Toà án nhân dân Đặc khu Vũng Tàu- Côn Đảo, do không có đơn kháng cáo hoặc khiếu nại nên quyết định nêu trên đã có hiệu lực pháp luật. Tại phiên toà giám đốc thẩm, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tối cao có ý kiến là: sau khi có Quyết định kháng nghị số 20/KN-DS ngày 25-04-2002, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao đã xem xét hồ sơ vụ án ly hôn giữa ông Mã Văn Liên với bà Nguyễn Thị Giao, nhưng không có cơ sở kháng nghị Quyết định thuận tình ly hôn số 32/DS ngày 15-09-1980 của Toà án nhân dân Đặc khu Vũng Tàu-Côn Đảo. Do đó, về pháp lý thì căn nhà số 125/9 Phạm Hồng Thái thuộc quyền sở hữu của bà Nguyễn Thị Giao. Vì vậy, việc bà Giao bán nhà cho anh Đỗ Hoàng Oanh và các hợp đồng mua bán nhà sau đó đều hợp pháp. Hơn nữa, từ đó đến nay, không có cơ quan Nhà nước có thẩm quyền nào kết luận về việc chuyển dịch, mua bán căn nhà 125/9 Phạm Hồng Thái, thành phố Vũng Tàu là bất hợp pháp. Do đó, Toà án cấp sơ thẩm và Toà án cấp phúc thẩm bác yêu cầu của ông Dưỡng và bà Kíu đòi bà Hương trả căn nhà 125/9 Phạm Hồng Thái, thành phố Vũng Tàu là có cơ sở.
Bởi các lẽ trên và căn cứ vào khoản 1 Điều 77 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự,
QUYẾT ĐỊNH:
Giữ nguyên Bản án dân sự phúc thẩm số 156/PTDS ngày 14-6-200l của Toà Phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh.

Lý do không chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao
Trong vụ án này, bà Phùng A Kíu (phía nguyên đơn) nêu rằng, khi gia đình bà đi vùng kinh tế mới vào cuối năm 1975, không uỷ quyền cho ai đứng tên làm chủ, không gửi nhà cho ai, thỉnh thoảng bà vẫn về thăm nhà. Tuy nhiên, suốt từ cuối năm 1975 đến tháng 03-1993, căn nhà đã được chuyển nhượng qua rất nhiều người (nếu vẫn về thăm nhà, tại sao bà Kíu không biết) nhưng bà Kíu không hề phản đối gì. Các hợp đồng mua bán nhà đất đều hợp pháp.
Rõ ràng lời khai của bà Kíu là không có căn cứ. Do đó, không thể chấp nhận yêu cầu đòi lại nhà của ông Lâm A Dưỡng và bà Phùng A Kíu.

0 nhận xét:

Đăng nhận xét